Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích TÂY TIẾN ngắn gọn chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.88 KB, 9 trang )

TÂY TIẾN
( Quang Dũng )
I. Đoạn 1 (14 câu đầu)
1. 2 câu đầu: Khơi gợi cảm xúc chủ đạo của bài thơ, là nét hùng vĩ dữ dội của
cảnh thiên nhiên miền Tây.
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
- Mở đầu = 1 nỗi nhớ trong lòng nhà thơ được cất thành lời, điệp từ “nhớ” được
nhắc lại hai lần trong 1 câu thơ nhằm nhấn mạnh, tăng chiều sâu của dòng cảm
xúc.
- Đầu tiên nhà thơ nhớ về sông Mã – địa danh tiêu biểu của mảnh đất miền Tây Tổ
quốc “Sông Mã xa rồi”.
+ Sông Mã là biểu tượng của thiên nhiên gắn bó với từng chặng đường hành quân,
là minh chính lịch sử của 1 thời đại hào hùng.
+ Vậy mà giờ đây sông mã đã xa rồi vang lên đầy chất chứa, nhà thơ nhận thức đầy
đủ về sự xa cách ngàn trùng.
- Vì thế trong lịng nhà thơ khơng ngừng dấy lên nỗi nhớ cồn cào, nó mở ra bằng 1
tiếng gọi dồn nén, chất chứa “Tây Tiến ơi”, từ “ơi” đã láy lại từ “chơi vơi” trong câu
thơ dưới -> âm hưởng vọng dài lan toả vời vợi. Tiếng gọi ấy như vọng ra từ vách đá
núi rừng Tây Bắc, từ nỗi nhớ nghìn trùng.
- Khơng chỉ nhắc về sông Mã mà TG cũng nhắc tới rừng núi biên gi ới Việt Lào
+ Là nơi có núi cao, vực sâu, thiên nhiên khắc nghiệt nhưng vô cùng hùng vĩ, nên
thơ.
+ Nỗi nhớ ấy được diễn tả 1 cách độc đáo “nhớ chơi vơi” , nỗi nhớ không đinh hình,
trải dài và rộng từ cảnh vật tới con người, từ sông Mã đến núi rừng Tây Bắc
+ Nỗi nhớ ấy cứ da diết, triền miên, làm cho hồn người như đang lửng lơ, bồng
bềnh trong không gian và thời gian. Nó cứ ngân dài, tha thiết vọng vào lịng người,
vào khơng gian xa thẳng mênh mơng, của thế giới hoài niệm.
2. 6 câu tiếp: Nỗi nhớ về thiên nhiên TB hiểm trở, dữ dội, hoang sơ nhưng thơ
mộng, trữ tình đồng thời phác hoạ hình ảnh người lính.
* 2 câu đầu:


“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
- Thiên nhiên hiện ra trong nỗi nhớ của nhà thơ thật hiểm trở, hoang sơ đó là con
đường hành quân gian nan vất vả, thời tiết đầy sương mù, lạnh lẽo, khắc nghiệt
song cũng thật trữ tình
- Câu thơ hiện lên trong tâm trí người đọc khung cảnh bản làng Sài Khao, Mường
Lát được nhắc đến với bao kỉ niệm đầy yêu thương. QD là 1 trong số ít những nhà
thơ đã gợi nhớ cho hồn người với tên những địa danh, tên làng, tên bản, tên núi, tên
sông của quê hương đất nước. Đây là những nơi nhà thơ đã từng gắn bó, đồng thời
nơi ấy gợi cho người đọc khung cảnh vùng đất heo hút hiểm trở, xa xôi của “ chốn
thâm sơn cùng cốc”, nơi mà những người lính Tây Tiến từng đi qua.
- Trong kí ức của nhà thơ, đồn binh Tây Tiến đã từng hành quân trong thời tiết
khắc nghiệt. Trên đỉnh Sài Khao có những lúc sương dày như che lấp cả đoàn quân,


tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Mặc dù có lúc
khơng tránh khỏi những mệt mỏi, gian nan.
- Khi đi qua địa danh Mường Lát vào buổi đêm, những người lính cịn làm bạn với
loài hoa ngát hương trong 1 màn sương đêm lan toả trong mơ màng.
- Cái hay trong cách nói của nhà thơ là khơng nói hoa nở mà nói “ hoa về”, khơng nói
đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ đó đã chứng tỏ được tâm hồn của người
lính Tây Tiến tiểu tư sản hào hoa. Hình ảnh hoa về trong câu thơ cũng có thể hiểu
đó là những người lính trẻ với vẻ đẹp đầy lãng mạng, họ luôn lạc quan yêu đ ời dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
* 4 câu tiếp: phẩm chất thi sĩ và hoạ sĩ của QD đã được hoà quyện trong đoạn thơ
này
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

- Tây Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ với núi non trùng điệp, gập ghềnh,
hiểm trở “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
+ Núi rừng TB vốn đã hùng vĩ nay được tái hiện qua hồn thơ lãng mạn của QD lại
càng trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
+ Việc sử dụng điệp từ “dốc”, những từ láy giàu tính tạo hình như “khúc khuỷu”
“thăm thẳm” khiến người đọc hình dung rõ nét về những chặng đường hành quân
của những người lính Tây Tiến ra con đường đầy đèo dốc, quanh co, gập ghềnh,
gấp khúc nối tiếp nhau.
+ “thăm thẳm” là từ láy khơng chỉ gợi chiều cao mà cịn gợi độ sâu, cảm giác như hút
tầm mắt của con người
+ Câu thơ có 7 chữ mà 5/7 là thanh trắc, thể hiện sức nặng, khiến ta có thể liên
tưởng ra những dốc núi cứ liên tiếp vút lên rồi lại đổ xuống mà những người lính
phải hành quân.
- Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” (nhịp 4/3)
+ Làm ta cả cảm thấy choáng ngợp trước độ cao ngất của núi đèo miền Tây, như
ngập chìm trong những cồn mây heo hút.
+ NT nhân hoá “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất của những đỉnh núi
quanh năm mây mờ bao phủ, vừa thể hiện đuợc sự hồn nhiên hóm hỉnh, tinh thần
lạc quan của những người lính trẻ trong những khó khăn gian khổ
+ Câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm của
người chiến sĩ, chiến lĩnh mọi tầm cao
- Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
+ Hết dốc cheo leo, người lính Tây Tiến lại đối diện với những vực sâu hun hút,
dòng thơ được ngắt thành 2 vế đối lập.
+ NT tiểu đối lên >< xuống gợi sự tương phản giữa 2 chiều khơng gian, đồng thời
có sự tương xứng về độ dài ngàn thước, chiều nào cũng thăm thẳ và dường như
không có giới hạn.
+ Nhịp thơ 4/3 kết hợp với dấu phẩy ở giữa dòng thơ -> câu thơ như bẻ gãy làm
đôi, vẽ ra 2 chặng của con đường hành quân. Những con dốc cao vút rồi lại đổ
xuống gần như thẳng đứng, lên cao thì hun hút khơn cùng cịn nhìn xuống thì là vực

sâu thăm thẳm.


=> Tiểu Kết 3 câu đầu :
+ Con đường trường chinh vạn dặm dài bất tận, hết núi này lại đến đèo cao xuất
hiện -> khó khăn, cực nhọc vất vả của chiến sĩ.
+ Bút pháp hùng ca -> bước chân hành quân rắn rỏi, nhịp hành quân khoẻ khoắn.
Con đường kia không thể làm chùn bước người chiến sĩ, mỗi nhịp bước cân là mỗi
lần họ chinh phục thử thách, chạm tới đỉnh cao.
- Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Giữa mạch thơ với những câu thơ tập trung đặc tả, khắc hoạ thiên nhiên miền
Tây, bỗng QD lại thả 1 câu thơ với toàn thanh bằng, nhịp điệu lâng lâng, mênh mang
thể hiện cái nhìn bay bổng của người lính.
+ Câu thơ như 1 tiếng thở dài nhẹ nhõm sau khi vượt qua bao đèo cao, suối sâu,
người lính giờ đây đang tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua 1
khơng gian mịt mù của rừng, sông núi, ngắm những ngôi nhà của đồng bào miền
núi như đang bồng bềnh trong biển mưa
+ Câu thơ giống như 1 gam màu lạnh chen giữa những gam màu nóng của hội hoạ,
làm dịu lại bức tranh thơ mà TG đã khắc hoạ.
3. 2 câu thơ tiếp:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
- Nhắc đến cái hùng vĩ khắc nghiệt của núi rừng TB, nhà thơ đồng thời làm nổi bật
sự hào hùng của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ, họ đối
diện với khơng ít những khó khăn thử thách, thâm chí là hi sinh mất mát.
- “Dãi dầu’” là từ láy chỉ sự gian nan khó nhọc, bệnh tật bủa vây, bởi vậy khơng ít
người đã ngã xuống trên đường hành qn
- QD không hề né tránh hiện thực nhưng cách dùng từ của ông rất lạ “không bước
nữa” là kiệt sức, không thể bước tiếp, ngã gục xuống ngay trên đường đi, trong tư
thế của người chiến sĩ đang hành quân và ngay trên vũ khí của mình.

- Cụm từ “bỏ quên đời” cất lên thật ngang tàng, in đậm tâm thế nhẹ nhàng, chủ
động đón nhận những hi sinh, mất mát.
+ Đồng thời cách nói giảm nói tránh làm ta cảm thấy cái chết đến với họ thật thanh
thản, nhẹ nhàng, cái chết nhẹ tựa lông hồng, như đang đi vào giấc ngủ.
+ Điều đó cũng rất đúng với khơng khí chung của thời đại, họ bước vào cuộc chiến
đấu chỉ với đơi bàn tay và tấm lịng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
- Thơ QD là vậy, không hề né tránh cái bi, nhưng bi mà không hề luỵ, lời thơ vẫn
toát lên vẻ hào hùng, lãng mạn, mạnh mẽ -> âm điệu bi tráng đặc biệt.
4. 4 câu cuối :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
- TB để lại những ấn tượng hoang sơ, bí ẩn, QD đã tơ đậm những ấn tượng đó =
những âm thanh dữ dội của rừng già, nó khơng chỉ được mở ra theo chiều khơng
gian mà cịn được khám phá theo chiều của thời gian. (2 câu đầu đoạn)
+ “Chiều chiều” “đêm đêm” là những khoảng thời gian khiến con người ta cảm
tưởng rằng chỉ có vẻ đẹp oai linh của thiên nhiên ngự trị, núi rừng TB như phô di ễn
uy lực đầy bí hiểm của mình.


+ Bản giao hưởng của đại ngàn với tiếng thác gầm và cọp dữ, cách dùng từ “Hịch
cọp”, có âm hưởng ấn tượng, với 2 dấu nặng đi bên nhau, đã xoáy xuống, nghe rờn
rợn bởi tiếng châm đậm màu tử khí của chúa sơn lâm. Tất cả những âm thanh ấy
gợi ra cái vẻ hoang vu của rừng già, nơi mà chưa từng có bước chân người lui t ới.
+ Tuy nhiên trong điều kiện như thế, đoàn quân vẫn tiếp tục, vẫn nối nhau đi về
phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống, giá trị của con người như
được nâng tầm qua nỗi nhớ của nhà thơ
- In đậm dấu ấn trong tâm hồn của TG, người lính Tây Tiến có lẽ chính là những kỉ
niệm ấm áp về sự đùm bọc sẻ chia của người dân TB. QD nhớ về những người em

ở vùng q Mai Châu với vắt xơi ni qn dân tình người. (2 câu sau)
* Câu 1:
+ “Nhớ ôi” là 1 câu cảm thán mang tình cảm dạt dào.
+ Câu thơ sử dụng 3 thanh trắc “nhớ” “tiến” “khói” ngắt quãng, cách đều nhau,
khiến âm điệu như vút lên, như từng làn khói đang lan qua kẽ lá, lan toả làm ấm áp
cả rừng chiều, đồng thời đẩy nỗi nhớ lên 1 cung bậc cao hơn, da diết hơn.
* Câu 2:
- Có cấu trúc ngữ pháp độc đáo, chủ ngữ của “thơm nếp xôi” là “mùa em” là 1 sáng
tạo đặc biệt vừa có hương của gạo nếp nồng nàn, vừa có hương của người thiếu
nữ tinh khơi.
- Đặc biệt 2 chữ “mùa em” là 1 sáng tạo ngôn từ rất riêng của QD mang vẻ đẹp hào
hoa, đa tình. Nếu tách riêng ở đây thì đây là 2 chữ khơng có gì sâu sắc nhưng khi
ghép lại đã gợi lên hương sắc thiếu nữ nồng nàn, da diết.
=> Tiểu Kết đoạn 1:
+ ND:
Bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo QD đã phác hoạ thành công bức tranh thiên nhiên TB
vừa hùng vĩ hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình hiện thực của cuộc kháng chiến đã
nhìn qua lăng kính của người nghệ sĩ, khiến cho bức tranh ấy mang 1 vẻ đẹp độc
đáo
+ NT:
- Kết hợp kì diệu giữa các yếu tố, nhạc, hoạ, sử dụng nhiều từ láy tạo hình
- Những câu thơ có nhiều thanh trắc, câu thơ có nhiều thanh bằng
- Sử dụng điệp từ, nhân hoá, nghệ thuật đối lập
=> Những lời thơ hay và giá trị.
II. Đoạn 2 (8 câu): Kỉ niệm đẹp và tình qn dân trong đêm liên hoan và c ảnh
sơng nước miền Tây
1. 4 câu đầu: Vẻ đẹp của đêm liên hoan là sự đan cài, hoà quyện giữa âm
thanh, ánh sáng của con người.
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
- Ánh sáng rực rỡ


+ “Doanh trại” là nơi đóng qn của đoạn bình Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội
văn hoá đậm đà tình quân dân, đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt
đóng góp với những người chiến sĩ
+ Từ “bừng” trong câu thơ gợi thứ ánh sáng mạnh mẽ, đột ngột truyền cảm hứng.
Doanh trại như đang trong giấc ngủ im lìm bỗng dưng tỉnh dậy, những cuộc hành
quân gian nan, vất vả hết ngày này sang ngày khác của các chi ến sĩ nay bỗng có
những giây phút rộn rã, nhộn nhịp sơi động thấm đẫm tình cảm giữa đồng bào và
các chiến sĩ. Bỗng chốc màn đêm vốn là của núi rừng tĩnh lặng nay đã trở thành
đêm hội vui tươi.
+ Ngọn đuốc nứa, đuốc lau nay trở thành “đuốc hoa” -> gợi khơng khí ấm áp, gợi
lên niềm vui, hạnh phúc trong lịng những người lính TT như những bơng hoa đang
nở rộ.
- Vẻ đẹp của con người duyên dáng tình tứ “Kìa em... giờ”
+ “Kìa em” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên được thốt lên, bởi người lính trẻ Hà
Thành vốn dĩ đa tình, si mê trước những vẻ đẹp của những cô gái vùng cao trong
trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng với dáng vẻ e ấp của thiếu nữ.
+ Những thiếu nữ hàng ngày vẫn trong bộ quần áo lên nương, làm rẫy bình dị mà
giờ lại hiện ra với dáng vẻ dịu dàng, tình tứ thật đặc biệt.
+ QD rất khéo léo khi m.tả vẻ đẹp riêng của người thiếu nữ bằng từ ngữ ấn tượng
“xiêm áo” -> toát lên hương vị, điệu hồn riêng của xứ lạ. Đối với những người lính
trẻ, đây là vẻ đẹp có sức quyến rũ lạ thường.
- Vẻ đẹp của tiếng nhạc chơi vơi “Khèn lên... hồn thơ”
+ Điều ngỡ ngờ của người lính trong đêm liên hoan lửa trại là tiếng “khèn” man
điệu. Khèn vốn là 1 nhạc cụ của dân tộc thiểu số TB đang cất lên những âm thanh
man điệu.

+ Từ “man điệu” được sử dụng thật đắt -> sự độc đáo của âm nhạc TB hoang dã,
đầy quyến rũ.
+ Câu thơ 7 chữ mà có tới 6 thanh bằng -> câu thơ như chơi vơi gi ữa tiếng khèn,
tiếng hát và lịng người, con người như hồ mình vào khơng gian của âm nhạc lãng
mạn, say đắm.
+ Trong khơng khí tưng bừng náo nhiệt, trước vẻ đẹp huyền bí của con người TB,
tâm hồn người lính bỗng dạt dào bao cảm xúc “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Các
anh đã thả hồn theo giai điệu, trong lòng dậy lên biết bao mơ ước về những phút
giây cùng đồng bào Viên Chăn trong điệu múa mừng chiến thắng.
=> Tiểu Kết:
+ ND :
- Toát lên vẻ đẹp của tinh thần quân dân gắn bó sâu sắc
- Vẻ đẹp của người lính trẻ tài hoa, nét đẹp ấy được tôn lên khi đặt trong bối cảnh
chiến tranh khốc liệt -> nét hấp dẫn riêng của cả bài.
+ NT:
- Mang lên cho người đọc ấn tượng khó phai, khơng chỉ bởi tứ thơ lãng mạn, mà còn
ở cách dùng từ duyên dáng, đây chính là phong cách NT riêng của QD – 1 thi sĩ tài t ử
hào hoa.
2. 4 câu sau: Kí ức về thiên nhiên sơng nước miền Tây rất đỗi thơ mộng.
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ


Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
- Đoạn thơ tái hiện 1 bức tranh sơng nước, mây trời TB thật trữ tình đong đầy chất
thơ, chất hoạ bởi 1 ngòi bút tài hoa. Cảnh vật được thêu dệt nên = cảm xúc, hồi
tưởng. Đó là 1 buổi chiều ở Châu Mộc được giăng mắc bởi 1 màu sương đơi bờ lặng
lẽ, có gì hoang dã như bờ tiền sử như 1 miền cổ tích.
- Hình ảnh “Người đi... ấy”, ở đây phiếm chỉ người đồng đội hoặc có thể chính là nhà

thơ trong khơng gian “chiều sương”. Có lẽ đây chính là 1 buổi chiều sương đặc biệt,
đã trở thành kỉ niệm khó quên, nên tình người cũng man mác bâng khuâng
- Hình ảnh lau trắng bạt ngàn cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm trí TG “Có
thấy...bờ”.
+ Bằng NT nhân hố nhà thơ nhìn nhận và miêu tả những bơng lau qua cụm từ
“hồn lau”, những bông lau phất phơ nơi triều sông phảng phất cái hồn của tạo vật :
hoang sơ, tĩnh lặng đượm buồn.
+ Bơng lau giờ cây khơng cịn là cỏ cây vơ tri vơ giác mà đã có linh hồn. Phải là 1 hồn
thơ nhạy cảm tinh tế thì mới cảm nhận được những vẻ đẹp nên thơ ấy.
+ Giữa khung cảnh đầy lãng mạn bỗng xuất hiện 1 hình ảnh khoẻ khoắn kiên
cường “Có nhớ.. mộc”
+ Điệp từ “có nhớ” “có thấy” luyến láy như khắc chạm vào lòng người đọc 1 nỗi nhớ
da diết, cháy bỏng khôn nguôi
+ Con ngừoi xuất hiện trong bức tranh mờ nhồ, lối phiếm chỉ “dáng người” đặt
trong khung cảnh dịng sông cuồn cuộn trôi “nước lũ” với đường cong mềm mại,
uyển chuyển. Dáng vẻ đó tơn thêm vẻ đẹp dẻo dai kiêu hãnh của con người.
- Dòng nước càng dữ dội bao nhiêu thì hình ảnh con người vượt sơng trên con
thuyền độc mộc lại càng đẹp bấy nhiêu “Trên dịng... đong đưa”
+ NT đối lập tài tình “dịng nước lũ” >< “hoa đong đưa” 1 bên là nét dữ dội của thiên
nhiên, 1 bên m.tả cái mềm mại dễ thương.
+ Từ láy “đong đưa” không phải đu đưa, cách dùng từ thể hiện sự duyên dáng, mềm
mại cánh hoa rừng như còn tâm trạng, như quyến luyến với con người, vẫy chào
tiễn biệt những người lính vượt sơng để ra trận.
+ Dáng hoạ ấy rất hợp với dáng người trên độc mộc, tất cả đã làm nên 1 bức tranh
thật đẹp, thật lãng mạn và hào hùng, 1 hình ảnh hiếm thấy trong thơ ca kháng
chiến.
=> Tiểu Kết:
+ ND:
- Đặt vào bức tranh thơ, TB có những nét mới lạ, khơng cịn những dãy núi hi ểm tr ở,
khơng còn nghe những âm thanh đại ngàn dữ dội, chỉ cịn thấy cảm giác mơ mộng,

bình n thuần khiết.
- Từ bên bờ sông đến sông nước, từ thiên nhiên đến con người đều thật nên thơ tr ữ
tình. Tất cả được hiện lên trong dịng kí ức miên man của QD.
+ NT:
- Điệp từ “có nhớ” “có thấy” ở câu thơ diễn tả nỗi nhớ như ùa về gợi bao ấn tượng
khó quên về cảnh sắc nơi đây.
- Hàng loạt từ láy “bến bờ” “độc mộc” “đong đưa” đem lại âm điệu ngân nga như 1
bản nhạc trữ tình.


- Xuân Diệu đã từng nhận xét “Đọc thơ QD ta có cảm giác như âm nhạc tan trong
miệng”, đoạn thơ đã đưa người đọc lạc vào 1 bức tranh thuỷ mặc, lạc vào 1 chi ều
sương, cũng là chiều thơ. Quả thật chất nhạc chất hoạ đã hoà quyện tuyệt vời
trong thơ QD.
III. Đoạn 3 (8 câu tiếp): Chân dung người lính Tây Tiến
1. 4 câu đầu: Đề cập đến những gian khổ, hi sinh của người lính Tây Tiến
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
* 2 câu đầu:
- Hẳn là người đọc sẽ khơng khỏi ngạc nhiên của những hình ảnh rất lạ lẫm của 1
đồn binh “khơng mọc tóc” “xanh màu lá” -> cách diễn đạt chân thật của TG, đặc
biệt là những cơn sốt rét rừng
- Ngoại hình của các anh ốm yếu tiều tuỵ, tóc rụng, da xanh như màu lá
- “khơng mọc tóc” cũng có thể hiểu là các anh đã xuống tóc để thuận lợii cho những
trận chiến giáp lá cà. Tuy nhiên phải nhìn nhận 1 thực tế là “Lính Tây Tiến chết vì
sốt rét nhiều hơn là vì súng đạt” (hồi ức Trần Lê Văn). TG không hề giấu diếm, né
tránh khi nhắc tới những hiện thực gian nan ấy như cách diễn đạt của nhà thơ có gì
đó mới mẻ so với thơ ca cùng thời.

- “đoàn binh”gợi lên 1 âm điệu khoẻ khoắn, khí thế mạnh mẽ, xung trận khiến hình
ảnh thơ không hề trùng xuống mà vút lên rắn rỏi.
- “khơng mọc tóc” nhà thơ chuyển từ thế bị động sang chủ động, cứ ngỡ như tóc
người lính khơng thèm mọc vậy -> cách nói mang vẻ ngang tàng, bất cần, kiêu hùng
mà rất lính.
- “quân xanh màu lá” : nhấn mạnh bóng hình các anh đang hồ trong sắc lá để nguỵ
trang, là màu xanh của núi rừng.
- “dữ oai hùm” : khí phách của các anh đã đè bẹp bệnh tật, khiến những chàng trai
với vẻ ngoài tiều tuỵ, xanh xao mà vẫn hội tụ được vẻ đẹp của núi rừng oai linh.
Người lính ln làm chủ tình thế, chế ngự mọi khắc nghiệt, gian khổ.
* 2 câu sau:
- “mắt trừng” gây cho ta nhiều liên tưởng,
+ Đó là đơi mắt mở to nhìn thẳng về phía qn thù với khí chất mạnh mẽ, thề sống
chết để địi lại độc lập cho đất nước.
+ Nhưng đôi mắt ấy cịn “gửi mộng qua biên giới” là đơi mắt cố tình thao thức nhớ
về quê hương Hà Nội, về 1 bóng dáng kiều thơm
- Như vậy người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo ti ếng gọi
của non sơng mà họ cịn rất lãng mạn hào hoa giữa biết bao gian khổ, thiếu thốn
những trái tim của họ vẫn rung động về biết bao vẻ đẹp của Hà Nội. Đó là phố cũ
trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa .
+ “dáng kiều” cách nói hoa mĩ, chỉ những cơ gái Hà thành xinh đẹp, yểu điệu, thướt
tha đài các. Nhà thơ thêm vào chữ “thơm” khiến vẻ đẹp kia như ngan ngát toả
hương
+ Câu thơ “Đêm mơ.. thơm” 1 thời bị cho rằng mang giấc mộng tư sản, làm giảm ý
chí chiến đấu của bộ đội nhưng đó là cách nhìn phiến diện, bởi người lính chỉ lấy
niềm vui làm ý chí diệt thù, quan điểm đó đã làm nghèo nàn thơ ca kháng chiến.


(Thực ra thơ ca phải diễn tả được mọi cung bậc cảm xúc, có khi chính nỗi buồn, những mộng mơ
kia lại đôi cánh , hành trang tinh thần cần thiết để những người lính chiến thắng trong cuộc kháng

chiến khắc nghiệt)

+ Nỗi nhớ về dáng kiều thơm khiến người lính khơng hề yếu đuối trái lại đó là
động lực thắp sáng ngọn lửa tình yêu và khát vọng -> chiến tranh gian khổ tàn khốc
nhưng không thể làm mất đi vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch của người lính
2. 4 câu sau:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ (1)
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh (2)
Áo bào thay chiếu anh về đất (3)
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (4)”
* (1) :
- Những từ Hán Việt gợi không khí trang trọng, cổ kính “biên cương” “viễn xứ” . Đây
là nơi biên giới xa xôi heo hút, hoang lạnh, có biết bao chàng trai đã ph ải nằm l ại
nơi này. Linh hồn các anh quẩn quanh bên nền đất cơ quạnh, khơng hương khói
quanh năm.
- Nhà thơ nhìn thẳng vào hiện thực khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết
không hề né tránh. Những nấm mồ hoang lạnh, vô danh nằm rải rác trên đường
hành quân, nhưng sự thật đó khơng thể làm chùn bước chân người lính.
- Câu thơ khơng làm cho người đọc bị nhấn chìm vào cảm giác bi thương, bi luỵ mà
nó được nâng lên = lí tưởng của tih thần lãng mạn. Có cuộc chiến tranh nào khơng
có những mất mát, hi sinh, những lần từ biệt chia ly. QD đem cái tàn khốc ấy vào
thơ, nó ngời lên nét đẹp hào hùng của những người lính TT năm xưa.
* (2): Sự hi sinh của người lính vang lên như 1 lời thề.
- Bước ra chiến trường đầy lửa đạn, nhiều người lính đã hi sinh khi tuổi đời cịn
trẻ, giữa lúc cuộc đời đang ở độ tươi xanh phơi phới “đời xanh” -> cách nói hốn dụ.
- Thế nhưng trong hồn cảnh khắc nghiệt ấy âm thưởng câu thơ nghe thật điên
tình, xen lẫn trong đó là sự coi thường cái chết “chẳng tiếc” vang lên chắc nịch
mang về bất cần, ngạo nghễ.
- Tuổi trẻ với biết bao mơ ước, hi vọng nhưng người lính lại chẳng tiếc cho bản
thân mình. Phải chăng ở họ cái máu anh hùng thời đại đã ngấm sâu, in đậm trong

tâm trí, trong dịng máu lạc hồng mấy nghìn năm lịch sử, bởi trong họ chỉ có 1 đi ều
tâm niệm đó là Tổ quốc.
- Chết vì Tổ quốc là cái chết lí tưởng, có cái chết nào cao quý thiêng liêng h ơn thế
-> Người lính cụ Hồ vừa tốt lên qua vẻ đẹp thời đại đồng thời qua nét cổ kính thời
xưa
* (3): Cách nói bi tráng lệ về sự hi sinh của người lính, đề cập đến sự thật khắc
nghiệt là những người chiến sĩ sống thiếu thốn và khi ra đi cũng như vậy.
- Chiếc chiếu nhàu rách hay manh áo bạc phếch vì sương gió đã từng đi theo người
lính đi ra chiến trường, giờ đây đã trở thành tấm áo bào của lịng thành kính, ti ễn
đưa những người con trở về đất mẹ.
- “anh về đất” cách nói giảm nói tránh, làm vơi bớt đau thương làm cho hình ảnh
thơ bi mà khơng luỵ
- Họ trở về với đất mẹ nên cái chết hố thành bất tử, nó làm cho “ Những cuộc đời
đã hố núi sơng ta” (Nguyễn Khoa Điềm)
* (4): Khép lại bằng âm hưởng hào hùng của sông Mã tiễn đưa linh hồn tử sĩ.


- Các anh ra đi chẳng có tiếng trống tiếng kèn đưa tiễn nhưng lại có khúc nhạc kì vĩ
của thiên nhiên chiêu hồn tử sĩ.
- Chữ “gầm” được trao cho sông Mã quả là đắc địa, trở thành tiếng khóc thương của
thiên nhiên, đưa linh hồn người lính vào cõi trường cửu, đồng thời nâng sự hi sinh
của họ lên tầm vóc sử thi. Sự ra đi bi tráng như vậy rất cần 1 cuộc tiễn đưa lớn lao
như vậy.
=> Tiểu Kết 8 Câu Thơ:
- Kết tinh vẻ đẹp của những người lính TT : gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng vẫn
hào hùng, bi tráng, hào hoa.
- Phảng phất vẻ đẹp của những trang anh hùng cổ kính, vừa là nét đẹp chung của
những người lính VN thời kì chống Pháp.
- Kết hợp cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
IV. Đoạn 4 (4 câu cuối) : Lời thề gắn bó với Tây Tiến.

“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xi”
- 2 câu đầu :
+ Tái hiện khơng khí hào hùng của 1 thời, những chàng trai Hà Thành tình nguyện
ra đi vì Tổ quốc khơng hẹn ngày trở lại “không hẹn ước”
+ Đây là ý niệm chung của những người lính đồng thời cũng là ý niệm của cả 1 thế
hệ, qua đó ta vơ cùng cảm phục, xót xa về những người lính vệ quốc. Mùa xn ấy
đã ra đi và đã không trở về.
- 2 câu sau:
+ Mùa xuân ấy là thời gian những người anh hùng ấy ra đi với lời thề quyết chiến
quyết thắng, nó cũng được hiểu là thời điểm thành lập đơn vị Tây Tiến (1947).
Hoặc cũng có thể hiểu đó là tuổi trẻ, song dù hiểu theo hiểu theo cách nào thì mùa
xuân ấy cũng trở thành thời điểm lịch sử 1 đi không trở lại.
+ Câu cuối là ý nguyện của những người lính, cùng đồng hành với quân dân Lào
chống Pháp. Họ quyết tâm thể hiện lí tưởng đến cùng cho dù ngã xuống trên đường
hành quân thì những linh hồn ấy vẫn đi và sống cùng đồng đội.
=> Tiểu Kết: 4 câu cuối vừa là tiếng nói ân tình với đơn vị cũ, đồng thời đó cũng là
lời thề của đoàn binh TT năm xưa.



×