Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

luận văn trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân, hoạt động của khai thác khoáng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.83 KB, 43 trang )

Luận văn trách nhiệm
bảo vệ môi trường
của tổ chức, cá nhân,
hoạt động của khai
thác khoáng sản
MỤC LỤC
Luận văn trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân, hoạt động của khai thác khoáng
sản 1
MỤC LỤC 2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời
sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân
tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối
với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm
vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển.
Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam
đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác,
đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con
người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó,
hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp
giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm
2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước… Và
ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong
đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động
khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi
trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết
quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành
pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách


nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong
quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn
nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động
khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ
môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề
ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật Việt nam về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác
khoáng sản với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính sách và pháp luật
mà Nhà nước ta đã đề ra nhằm phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tiếp đến
là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân có đạt được những kết
quả khả quan hay không. Mục đích cuối cùng của quá trình nghiên cứu là trang bị cho
mình những kiến thức hữu ích trrong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đồng thời, với vốn
hiểu biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục vụ cho công tác xây
dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm
bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản trên cơ sở các
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có
liên quan.
Trong nội dung đề tài nghiên cứu của mình người viết chủ yếu đề cập đến một
số loại khoáng sản như than, bauxite và cát trong quá trình khai thác ở một số nơi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp:
phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với
phương pháp phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của
Đảng trên tinh thần các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-
NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù

hợp với tình hình xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta.
5. Cấu trúc của đề tài
Để thuận tiện cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như tránh bỏ sót những vấn đề
quan trọng cần đề cập, người viết phân chia luận văn làm ba chương, bao gồm:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về môi trường và hoạt động khai thác khoáng
sản
Chương 2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức,
cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản
Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp bảo vệ môi trường hoạt động khai thác
khoáng sản
Qua đây người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể quý thầy cô
Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đặc biệt là thầy Kim Oanh Na – người đã tận tình
hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được của đề tài vẫn còn những thiếu sót nhất
định do người viết còn hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa
thuận lợi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng bạn đọc!

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
Để nghiên cứu thành công một vấn đề cụ thể trong khoa học pháp lý, thì việc
nghiên cứu vấn đề lý luận là một nền tảng vững chắc, làm cơ sở để nhận định luật thực
định, có phương hướng đề ra cách thức giải quyết những vấn đề cần hoàn thiện về mặt
pháp lý cũng như về thực tiễn một cách phù hợp nhất.
1.1 Khái quát về môi trường
1.1.1 Khái niệm môi trường
Thuật ngữ “môi trường” có thể được dùng trong rất nhiều các trường hợp khác
nhau như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường pháp lý,…Tất cả các
thuật ngữ trên đều có điểm chung là: “là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài
có một ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện nào đó”.

Môi trường theo nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan
hệ hay sinh vật ấy”
1
, là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh
hưởng đến sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”
2
, là “nơi chốn trong các nơi
chốn, nhưng có thể làm một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một
thời kỳ hay một xã hội”
3
.
Môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lý là một khái niệm được hiểu như là
như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là
những yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh con người. Khoản 1 điều 3 Luật Bảo vệ
môi trường được Quốc hội nước cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ hợp thứ
8 thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường “bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự sống, sản xuất, sự tồn tại
và phát triển của con người và sinh vật”.
1
Xem Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr 618
2
Xem American Heritage Dictionary, Boston, 1992
3
Trong quyển Môi trương và tài nguên Việt Nam,Nxb KH & KT Hà Nội, 1994
Theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm
trong mối quan hệ với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo
thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi
trường.
Như vậy bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong một môi trường

của nó. Tuy nhiên môi trường, cái mà loài người hiện nay phải đối mặt và nghiên cứu
bảo vệ nó là môi trường sống bao quanh con người.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh
học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con
người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả không khí, động, thực vật, đất,nước…
Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn
nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng cần cho sản xuất, tiêu thụ và
là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh để giải trí, làm cho cuộc
sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người với người, đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định… Ở các cấp khác nhau như: Liên Hiệp Quốc,
hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm,
các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của
con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự
phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và
phát triển
4
.
1.1.2 Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa.
Dưới góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó những yếu
tố hóa học, lý học của nó thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô
nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật
lí, hóa học, sinh học mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe
của con người, các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Dưới góc độ pháp lý.
ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành môi trường không phù hợp với tiêu
chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (khoản 6 điều 3 Luật
bảo vệ môi trường năm 2005).

Có thể thấy điểm chung nhất giữa các định nghĩa nêu trên về ô nhiễm môi
trường là chúng đều đề cập đến sự biến đổi các thành phần môi trường theo hướng xấu,
4
/>gây bất lợi cho con người và sinh vật. Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc
năng lượng vào môi trường đến mức có thể gây hại đến sức của con người, đến sự phát
triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân gây ô nhiễm
môi trường bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải
rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ,
bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng
độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con
người, sinh vật và vật liệu. Điều này có nghĩa là những nguyên tố tự nhiên nào đó do
sự tác động của con người dẫn đến nó bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi không còn
phù hợp với những tiêu chuẩn môi trường. Ví dụ như: Tại khu dân cư người ta tiến
hành đo đạc và phân tích hàm lượng khí SO
2
trong không khí thấy giá trị của nó là 0,5
mg/m
3
. Theo quy chuẩn Việt Nam (QCVN) 05:2009 của Bộ tài nguyên môi trường thì
giới hạn cho phép của thông số này là 0,3 mg/m
3
. Như vậy không khí khu dân cư đó đã
bị ô nhiễm khí SO
2
.
1.1.3 Khái niệm về bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động nhằm giữ cho môi trường

trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, ngăn chặn,
khắc phục những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai
thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên
5
.
Theo khoản 3 điều 6 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 có quy định: “Hoạt động
bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa,
hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thối, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”.
Thế giới ngày càng phát triển đã gây nên tác động xấu đến môi trường, làm cho
môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự
sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy vấn đề môi trường và phát triển đã trở thành
vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ
tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo
vệ môi trường, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ
5
/>công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước” đã chỉ rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề sống
còn của đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc
đấu tranh xóa đối giảm nghèo của mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ
xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường là “ngăn
ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở các nơi, những vùng đã
bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở
các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
1.1.4 Chức năng và vai trò của môi trường
1.1.4.1 Chức năng của môi trường

Môi trường là cái nôi sinh thành và phát triển của con người. Những yếu tố cấu
thành môi trường như không khí, nước, ánh sáng đều rất quan trọng đối với con người.
Không khí để thở, nước để ăn uống và sinh hoạt, không gian là nơi để con người sinh
sống… tất cả đều là những thành phần của môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự
tồn tại của con người. Sống trong môi trường, con người một mặt chịu ảnh hưởng của
nhân tố môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường và làm cho môi
trương biến đổi, sự ảnh hưởng của môi trường lại ảnh hưởng trở lại con người. Sự phát
triển kinh tế - xã hội, hay nói cách khác sự phát triển là một quá trình sử dụng các tài
nguyên sống và không sống để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống con người.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát triển
của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng sau:
- Thứ nhất: Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên
của con người. Chức năng đầu tiên của môi trường là nơi sinh sống và phát triển của xã
hội loài người. Với chức năng này môi trường là nơi cung cấp hệ sinh thái như yếu tố
vật chất cơ bản giúp sự tồn tại và phát triển của con người bao gồm không khí, nguồn
nước, đất, cây cối, rừng và sinh vật. Những yếu tố này bị tổn hại đến một mức độ nhất
định thì hậu quả của nó đe dọa đến sự sống của con người. Môi trường là không gian
sống, là khung cảnh lao động, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của con người.
- Thứ hai: Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối
tượng lao động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của
cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác không
thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai thác nhanh hơn mức độ tái
tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng đối với môi trường. Với
chức năng thứ hai này môi trường là nơi cung cấp nguyên liệu và năng lượng phục vụ
hoạt động sản xuất kinh tế và đời sống của con người. Để tồn tại và phát triển, con
người phải dựa vào các tài nguyên sẵn có trong tự nhiên và môi trường là nơi cung cấp
các yếu tố đó.
- Thứ ba: Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong
cuộc sống của con người và của quá trình sản xuất.

Trong quá trình sinh sống và phát triển xã hội, con người một mặt khai thác các
nguồn tài nguyên để sinh hoạt và sản xuất các loại hàng hóa khác nhau nhưng lại thải
vào môi trường các chất thải trong quá trình sinh hoạt và sản xuất.
1.1.4.2 Vai trò của môi trường đối với đời sống kinh tế - xã hội
Từ việc nhận thức chức năng của môi trường cho thấy môi trường có vai trò đặc
biệt đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Môi trường là không gian chứa đựng các cơ thể sống bao hàm xã hội loài người,
giới sinh vật (động vật và thực vật). Mỗi cơ thể sống không thể tồn tại ở ngoài môi
trường được. Vì vậy nói tới vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội điều đầu
tiên cần phải nhấn mạnh: Môi trường là không gian sống của mọi loài sinh vật (kể cả
con người),các loài sinh vật sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tiêu vong đều ở trong môi
trường. Nếu không gian môi trường trong sạch sẽ làm cho chất lượng cuộc sống được
nâng cao, mọi loài sinh vật sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển tốt, ngược lại nếu
không gian môi trường bị ô nhiễm, môi trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng của cuộc sống và như vậy sẽ cản trở sự phát triển bình thường của mọi loài
sinh vật, trong đó có xã hội loài người. Do đó bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường
trong sạch có tác dụng trực tiếp đến việc bảo tồn và duy trì sự sống của mọi sinh vật ở
trong môi trường.
Môi trường là nơi cung cấp các yếu tố cần thiết, các điều kiện cần thiết cho sự
sống của tất cả các loài sinh vật. Ăngghen nói “con người là sản phẩm của tự nhiên”,
con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát triển với môi trường tự nhiên,
vật chất trong cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí mà con
người hít thở, nước mà con người uống… cũng đều từ môi trường tự nhiên và thức ăn
của con người xét cho cùng cũng từ môi trường tự nhiên: lúa gạo, hoa màu, rau xanh,
trái cây đều mọc từ đất, tôm cá lớn lên từ ao nước sông, hồ, biển… Con người và môi
trường luôn thống nhất với nhau, sống trong môi trường con người một mặt chịu sự
ảnh hưởng của môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường làm cho
môi trường biến đổi, sự biến đổi của môi trường lại ảnh hưởng trở lại đối với con
người. Những thứ mà môi trường tự nhiên cung cấp cho con người bao gồm những thứ
có khả năng tái tạo được và những thứ không có khả năng không có khả năng tái tạo.

Vì vậy, để đảm bảo cho xã hội phát triển con người cần phải biết giữ gìn những nguồn
lực của tự nhiên để sử dụng lâu dài trong tương lai.
Môi trường là nơi diễn ra mọi quá trình lao động sản xuất, dù đó là sản xuất
công nghiệp hay nông nghiệp cũng đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Các
hoạt động văn hóa, xã hội, nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật… cũng phải dựa
vào môi trường, sử dụng các “chất liệu” do môi trường cung cấp.
Nói tóm lại mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con người
đều được tiến hành trong môi trường, đều dựa vào môi trường và sử dụng các yếu tố có
sẵn của môi trường. Xuất phát từ nhận thức đó chúng ta môi trường có vai trò to lớn,
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi loài sinh vật sống trong môi trường.
1.1.5 Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân tạo nên sự phát triển của
kinh tế - xã hội: đó là sự ra đời của máy móc, công cụ khoa học kỹ thuật, đó là sự
thông minh cùng với óc sáng tạo và khả năng lao động của con người… nhưng hơn tất
cả đó là môi trường. Tự bản thân máy móc, công cụ sẽ không phát huy tác dụng nếu
không có nguyên vật liệu, nhiên liệu; con người dù thông minh sáng tạo đến bao nhiêu
cũng sẽ không thể có không gian để tồn tại và sản xuất nếu không có môi trường.
Không thể tách sự phát triển kinh tế - xã hội khỏi môi trường, môi trường và phát triển
có mối quan hệ khăng khít với nhau. “Nếu không bảo vệ môi trường một cách chính
đáng, phát triển sẽ bị yếu dần. Ngược lại, không có phát triển, bảo vệ môi trường sẽ
thất bại”
6
.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh
thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng
cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu hướng chung của từng cá nhân và cả loài
người trong quá trình sống, giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt
chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên
nhân tạo nên các biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. triển kinh tế - xã hội
là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con

người sẽ phải khai thác môi trường, do vậy ở đây nảy sinh mâu thuẫn giữa việc phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Trong phạm vi một quốc gia, cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn tồn tại hai
hệ thống: Hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường. Hệ thống kinh tế - xã hội
cấu thành bởi các khâu: Sản xuất, lưu thông phân phối, tiêu thụ, tạo nên một dòng luân
chuyển nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải giữa các phần tử của hệ thống. Hệ
thống môi trường với các thành phần thiên nhiên và xã hội cùng tồn tại trên một địa
6
Xem Báo cáo phát triển thế giới 1992 của Ngân hàng thế giới
bàn với hệ thống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ hay mâu thuẫn đều được biểu hiện rất rõ
ràng.
Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ hệ thống môi trường. Đây là
một chức năng của môi trường: cung cấp nguyên, nhiên liệu cho cuộc sống con người.
Nếu vì phát triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không tái tạo
được hoặc khai thác quá khả năng phục hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ dẫn
tới không còn nguyên liệu, năng lượng, từ đó phải đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt
tiêu hệ thống kinh tế. Chất thải là thứ mà cuộc sống sinh hoạt của con người và các
hoạt động kinh tế thải ra môi trường nhều nhất. Hầu hết các phế thải đều độc hại đối
với sức khỏe và sinh mệnh con người, tác động xấu đến không khí, nước, đất, các nhân
tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên khác. Những chất độc hại đó làm tổn hại chất
lượng môi trường khiến cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động một cách bình
thường được.
Để cho sự phát triển được bền vững, việc xây dựng và phát triển kinh tế của đất
nước đòi hỏi mỗi quốc gia phải có tính toán, phải căn cứ vào tình hình tài nguyên và
trình độ phát triển của đất nước mà định ra chiến lược chung của quốc gia. Môi trường
và phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ khắng khít bền chặt và bao hàm cả mâu
thuẫn gay gắt. Vấn đề quan trọng là phải giải quyết được mâu thuẫn đó một cách hợp
lý và có lợi nhất.
1.2 Khái quát về hoạt động khai thác khoáng sản
1.2.1 Khái niệm về khoáng sản

Khoáng sản là những dạng vật chất rất gần gũi và đóng vai trò to lớn trong đời
sống con người như sắt, than đá, kẽm, vàng, dầu khí, nước khoáng thiên nhiên… Giá
trị to lớn của khoáng sản cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản tất yếu dẫn tới Nhà nước
quản lý khoáng sản bằng pháp luật.
Dưới góc độ pháp luật, khoáng sản được hiểu bao gồm các tài nguyên trong
lòng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích
ở thể rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có thể khai thác. Khoáng vật, khoáng
chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể được khai tác lại, cũng là khoáng sản (khoản
1 Điều 3 Luật khoáng sản 1996; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng
sản 2005).
Luật khoáng sản 2010 được Quốc hội thông qua ngảy 17 tháng 11 năm 2010 có
quy định như sau: “Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tự nhiên ở
thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt, bao gồm cả khoáng vật,
khoáng chất ở bãi thải của mỏ”.
1.2.1 Phân loại khoáng sản
Theo tính chất của công dụng, Khoáng sản được chia ra làm bốn nhóm: Khoáng
sản kim loại, khoáng sản phi kim, khoáng sản nhiên liệu và khoáng sản nước.
- Khoáng sản kim loại là những quặng, qua quá trình chế luyện, lấy ra kim loại
hoặc hợp chất của chúng, thuộc nhóm này gồm: Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim sắt
(sắt, Mangan, Crôm…); Nhóm kim lại cơ bản (Thiếc, Đồng, Chì, Kẽm…); Nhóm kim
loại nhẹ (Nhôm, Titan, Magiê…); Nhóm kim loại phóng xạ (Uran, thori, rađi) và nhóm
kim loại hiếm và đất hiếm.
- Khoáng sản phi kim là những quặng được sử dụng trực tiếp hoặc qua chế biến
để lấy ra đơn chất hoặc hợp chất không kim loại: nhóm khoáng sản hóa chất và phân
bón (lưu huỳnh, apatit, phôtphorit…); Nhóm nguyên liệu gốm sứ - chịu lửa (sét,
kaolin…) và nhóm nguyên liệu kiến trúc xây dựng (cát, đá vôi, đá hoa…).
- Khoáng sản nhiên liệu gồm các đá có nguồn gốc sinh vật (than bùn, than đá,
dầu…). Loại khoáng sản này ngoài việc làm chất đốt, khoáng sản nhiên liệu còn để sản
xuất ra hóa phẩm, dược phẩm và các thành phần khác (sợi nhân tạo, vật liệu khuôn

đúc.v.v…).
- Khoáng sản nước: Là các loại nước được dùng cho sinh hoạt và công nghiệp
như nước khoáng, bùn khoáng sử dụng trong y tế và sinh hoạt.
1.2.3 Khái niệm khai thác khoáng sản
Khai thác khoáng sản là hoạt động xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và
các hoạt động có liên quan trực tiếp nhằm thu hồi khoáng sản (khoản điều 3 Luật
khoáng sản 1996).
Theo Luật khoáng sản 2010 thì khai thác khoáng sản lả hoạt động nhằm thu hồi
khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, làm giàu và các hoạt động có liên
quan.
Đây là hoạt động được tiến hành sau khi đã có giấy phép khai thác khoáng sản
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu xây dựng cơ bản
(hay còn gọi là mở mỏ), khai thác bình thường theo công thức thiết kế, cho đến khi mỏ
mỏ kết thúc khai thác (đóng cửa mỏ - phục hồi môi trường).
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu do các
tổng công ty, công ty Nhà nước thực hiện tại các mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò bằng
nguồn vốn của Nhà nước như apatit, quặng sắt, than, đá vôi, sét làm nguyên liệu xi
măng, thiếc… với số lượng rất ít. Sau năm 1996 khi Luật khoáng sản được ban hành,
với chính sách đầu tư của Nhà nước, hoạt động khai thác đã phát triển nhanh cả về quy
mô và thành phần kinh tế tham gia hoạt động khoáng sản, nhất là trong vài năm trở lại
đây.
1.2.4 Vai trò của khoáng sản
Tuy không có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của loài như các thành
phần môi trường nước, đất và không khí… nhưng tài nguyên khoáng sản cũng là
những yếu tố hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự duy trì và phát triển xã hội. Xét
từ phương diện cá nhân, con người có thể tồn mà không cần đến tài nguyên khoáng
sản, nhưng trên bình diện chung thì một xã hội không thể phát triển bền vững và toàn
diện nếu không có bất kì một tài nguyên khoáng sản nào. Vai trò và tầm quan trọng của
khoáng sản được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Về phương diện kinh tế: Khoáng sản là nguồn nguyên liệu chính cho nhiều

ngành công nghiệp then chốt, như đá vôi dùng cho sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu
xây dựng; quặng sắt được dùng cho ngành luyện kim, cơ khí… Than đá, dầu mỏ, khí
gas… là những khoáng sản cung cấp năng lượng chủ yếu cho nhiều ngành kinh tế quan
trọng cũng như phục vụ sinh hoạt hằng ngày của con người, nước khoáng, nước nóng
thiên nhiên là những tài nguyên có giá trị cao trong việc bảo vệ sức khỏe con người,
đồng thời cũng là nguồn nguyên liệu đặc biệt đối với một số nghành công nghiệp.
Bản thân nghành công nghiệp khoáng sản là một nghành chiếm tỷ trọng cao
trong nền kinh tế của nhiều nước, như công nghiệp khai thác đồng ở Chilê, công
nghiệp than đá ở Ucraina, công nghiệp dầu mỏ ở Cooet, Irăc và Veneduela. Xuất khẩu
khoáng sản thường đem lại nguồn thu lớn cho các quốc gia, nhiều nước có nguồn thu
ngân sách chủ yếu là từ khai khoáng: Bruei, Cooet, Veneduela là những ví dụ điển
hình.
Về phương diện chính trị: Khoáng sản tạo cho các quốc gia có một vị trí quan
trọng trong giao lưu quốc tế. Nó góp phần không nhỏ vào việc làm tăng tính độc lập, tự
chủ của mỗi quốc gia. Thậm chí trong một số trường hợp, nó còn làm tăng các ảnh
hưởng về mặt chính trị của quốc gia này đối với quốc gia khác, các quốc gia không có
tài nguyên khoáng sản thường phụ thuộc rất nhiều về kinh tế cũng như chính trị đối với
các quốc gia có ưu thế trong vấn đề này.
Vai trò, tầm quan trọng của tài nguyên khoáng sản còn thể hiện trong các ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của các hoạt động khoáng sản tới môi trường xung
quanh. Thực tế cho thấy các ảnh hưởng của hoạt động khoáng sản tới các thành phần
môi trường khác như đất, nước, không khí, hệ sinh thái… thường rất nghiêm trọng.
Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của hoạt động khoáng sản là thường được tiến hành
trên quy môi rộng lớn, với số lượng khai thác nhiều, thời gian hoạt động kéo dài và
thường phải sử dụng nhiều phương tiện và hóa chất trợ giúp. Phạm vi và mức độ ảnh
hưởng tới môi trường càng nghiêm trọng khi đó là những hoạt động khai thác khoáng
sản độc hại.
1.3 Khai thác khoáng sản và tác động đến môi trường
1.3.1 Hiện trạng khai khoáng sản ở nước ta
Việt Nam là nước có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản. Cho đến nay ngành

Địa chất đã tìm kiếm, phát hiện hơn 5000 mỏ và điểm quặng của khoảng 60 loại
khoáng sản khác nhau. Một số khoáng sản đã được phát hiện và được khai thác từ rất
lâu như vàng, thiếc, chì, kẽm, than đá và các loại vật liệu xây dựng; số khác mới được
phát hiện và được khai thác như dầu khí, sắt đồng… Một số nơi, có những mỏ tập
trung như than ở Quảng Ninh, bôxit ở Tây Nguyên và apatit, đất hiếm ở miền Bắc.
+ Nhu cầu của cuộc sống đã tạo nên áp lực của việc khai thác khoáng sản
- Nhu cầu về vật liệu xây dựng:
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của ngành Xây dựng có bước đột phá
lớn, đòi hỏi khối lượng lớn khoáng sản, vật liệu xây dựng để đáp ứng. Vì vậy, hàng
loạt mỏ mới với các quy mô vừa và nhỏ được mở ra trên khắp mọi miền đất nước.
- Nhu cầu xuất khẩu khoáng sản:
Một số khoáng sản được khai thác chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu như: Quặng
ilmenit, chì-kẽm, crôm, thiếc, mangan, quặng sắt Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng
quặng thô, quặng tinh hoặc đã được chế biến thành kim loại. Nhu cầu xuất khẩu quặng
có xu hướng gia tăng trong đó có than sạch. Chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc, Nhật Bản và một số nước khác.
- Nhu cầu giải quyết công ăn việc làm:
Nước ta lực lượng lao động trẻ, khoẻ, phần lớn là lao động phổ thông, cần có
việc làm đang ngày càng gia tăng. Tài nguyên khoáng sản của nước ta phân bố trên
diện rộng, đa dạng, phong phú về chủng loại và nhu cầu đáp ứng cho thị trường ngày
một tăng, nên một bộ phận lớn lao động còn chưa có việc làm đã tham gia hoạt động
khai thác khoáng sản.
- Các nhu cầu khác:
Việc chuyển đổi cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường đã làm
xuất hiện nhiều thành phần kinh tế. Ngoài các doanh nghiệp nhà nước, còn có các
thành phần kinh tế khác. Trong số các doanh nghiệp được thành lập có nhiều doanh
nghiệp đăng ký ngành nghề kinh doanh liên quan đến hoạt động khoáng sản. Một lực
lượng khác là các tổ hợp kinh doanh, khai thác khoáng sản hình thành ở hầu hết các
huyện, xã. Lực lượng này chủ yếu tham gia kinh doanh, khai thác các loại khoáng sản
làm vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát, sỏi ), hình thức khai thác rất linh hoạt,

phong phú, theo mùa vụ…, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nguyên liệu khoáng sản cho
xây dựng tại địa phương.
Vì vậy, hiện nay việc khai thác khoáng sản đang được tiến hành rộng rãi ở các
địa phương. Bên cạnh việc đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển của đất nước,
các hoạt động này cũng góp phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm môi trường sống,
tác hại đến sức khoẻ của con người và sự phát triển bền vững của đất nước.
+ Các hình thức khai thác khoáng sản
- Khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp
Khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp đang từng bước được nâng cao về
năng lực công nghệ, thiết bị, quản lý. Hoạt động sản xuất, kinh doanh đã có sự gắn kết
chặt chẽ giữa mục tiêu lợi nhuận, kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ tài
nguyên khoáng sản. Do khả năng đầu tư còn hạn chế nên các mỏ khai thác quy mô
công nghiệp ở nước ta hiện chưa đồng đều về hiệu quả kinh tế, về việc chấp hành các
quy định của pháp luật về khoáng sản, về bảo vệ môi trường.
- Khai thác khoáng sản quy mô nhỏ, tận thu
Hình thức khai thác này đang diễn ra phổ biến ở hầu hết các địa phương trong
cả nước và tập trung chủ yếu vào các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng Ngoài ra
nhiều tỉnh còn khai thác than, quặng sắt, antimon, thiếc, chì, kẽm, bôxit, quặng ilmenit
dọc theo bờ biển để xuất khẩu. Do vốn đầu tư ít, khai thác bằng phương pháp thủ công
hoặc bán cơ giới là chính, nên trong quá trình khai thác đã làm ảnh hưởng đến môi
trường, cảnh quan.
- Khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản
Việc khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản, kéo theo các hậu quả nghiêm
trọng như tàn phá môi trường, làm thất thoát, lãng phí tài nguyên. Việc khai thác trái
phép tài nguyên khoáng sản gây hậu quả lớn đến môi trường, chủ yếu là nạn khai thác
vàng, sử dụng cyanur, hoá chất độc hại để thu hồi vàng đã diễn ra ở Quảng Nam, Lâm
Đồng, Đà Nẵng; khai thác chì, kẽm, thiếc, than ở các tỉnh miền núi phía Bắc; khai thác
quặng ilmenit dọc bờ biển, đã phá hoại các rừng cây chắn sóng, chắn gió, chắn cát ven
biển; khai thác cát, sỏi lòng sông gây xói lở bờ, đê, kè, ảnh hưởng các công trình giao
thông, gây ô nhiễm nguồn nước; khai thác đá vật liệu xây dựng phá hoại cảnh quan,

môi trường, gây ô nhiễm không khí.
1.3.2 Tác động của hoạt động khai thác khoáng sản đến môi trường
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động
khai thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất
nước. Ngành công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế của Việt Nam.
Trong những năm qua, hoạt động khai khoáng sản đã đóng góp tới 5,6% GDP.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, chúng ta cũng đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình khai thác mỏ phục vụ cho lợi ích của mình, con
người đã làm thay đổi môi trường xung quanh. Yếu tố chính gây tác động đến môi
trường là khai trường của các mỏ, bãi thải, khí độc hại, bụi và nước thải… làm phá vỡ
cân bằng điều kiện sinh thái, đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô
nhiễm nặng nề đối với môi trường và là vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và
chính trị của cộng đồng.
+ Ô nhiễm không khí, nước
Các hoạt động khai thác khoáng sản thường sinh ra bụi, nước thải với khối
lượng lớn, gây ô nhiễm không khí và nước.
Tác động hoá học của hoạt động khai thác khoáng sản tới nguồn nước: Sự phá
vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các
quá trình hoà tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo
khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý,
xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn
nước tự nhiên, là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần
hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ. Nước ở các mỏ than thường có hàm
lượng các ion kim loại nặng, á kim, các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ cao
hơn so với nước mặt và nước biển khu vực đối chứng và cao hơn TCVN từ 1-3 lần.
Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm đục
nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng vật nặng. Việc
khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg. Ngoài ra, các
nguyên tố kim loại nặng như asen, antimoan, các loại quặng sunfua, có thể rửa lũa hoà

tan vào nước. Vì vậy, ô nhiễm hoá học do khai thác và tuyển quặng vàng là nguy cơ
đáng lo ngại đối với nguồn nước sinh hoạt và nước nông nghiệp. Tại những khu vực
này, nước thường bị nhiễm bẩn bởi bùn sét, một số kim loại nặng và hợp chất độc như
Hg, As, Pb v.v mà nguyên nhân chính là do nước thải, chất thải rắn không được xử lý
đổ bừa bãi ra khai trường và khu vực tuyển quặng.
Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất phân bón và hoá chất
như đá vôi cho nguyên liệu xi măng, đá xây dựng các loại, sét, cát sỏi, apatit, đã gây
những tác động xấu đến môi trường như làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước. Nhìn
chung quy trình khai thác đá còn lạc hậu, không có hệ thống thu bụi, nhiều khí hàm
lượng bụi tại nơi làm việc lớn gấp 9 lần với tiêu chuẩn cho phép.
+ Ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên khác
Khai thác khoáng sản là quá trình con người bằng phương pháp khai thác lộ
thiên hoặc hầm lò đưa khoáng sản từ lòng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các
hình thức khai thác bao gồm: khai thác thủ công, khai thác quy mô nhỏ và khai thác
quy mô vừa.
Bất cứ hình thức khai thác khoáng sản nào cũng dẫn đến sự suy thoái môi
trường. Nghiêm trọng nhất là khai thác ở các vùng mỏ, đặc biệt là hoạt động của các
mỏ khai thác than, quặng và vật liệu xây dựng. Năm 2006 các mỏ than của Tập đoàn
Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m
3
đất đá và khoảng 70 triệu m
3
nước thải từ mỏ. Quá trình khai thác khoáng sản thường
qua ba bước: mở cửa mỏ, khai thác và đóng cửa mỏ. Như vậy, tất cả các công đoạn
khai thác đều tác động đến tài nguyên và môi trường đất. Hơn nữa, công nghệ khai thác
hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt các mỏ kim loại và các khu mỏ đang khai thác hầu hết
nằm ở vùng núi và trung du. Vì vậy, việc khai thác khoáng sản trước hết tác động đến
rừng và đất rừng xung quanh vùng mỏ.
Hoạt động khai thác khoáng sản là một trong những nguyên nhân làm giảm độ
che phủ do rừng cây bị chặt hạ, lớp phủ thực vật bị suy giảm. Hoạt động khai thác

khoáng sản cũng làm cho thực vật, động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt chủng do các
điều kiện sinh sống ở rừng cây, đồng cỏ và sông nước xấu đi. Một số loài thực vật bị
giảm số lượng, động vật phải di cư sang nơi khác.
Do đặc thù của khai thác mỏ là một hoạt động công nghiệp không giống các
hoạt động công nghiệp khác về nhiều mặt, như phải di dời một khối lượng lớn đất đá ra
khỏi lòng đất tạo nên một khoảng trống rất lớn và rất sâu. Một khối lượng lớn chất thải
rắn được hình thành do những vật liệu có ích thường chỉ chiếm một phần nhỏ của khối
lượng quặng được khai thác, dẫn đến khối lượng đất đá thải vượt khối lượng quặng
nằm trong lòng đất. Chất thải rắn, không sử dụng được cho các mục đích khác, đã tạo
nên trên bề mặt đất địa hình mấp mô, xen kẽ giữa các hố sâu và các đống đất, đá. Đặc
biệt ở những khu vực khai thác "thổ phỉ", tình hình còn khó khăn hơn nhiều. Một số
diện tích đất xung quanh các bãi thải quặng có thể bị bồi lấp do sạt lở, xói mòn của đất
đá từ các bãi thải, gây thoái hoá lớp đất mặt. Việc đổ bỏ đất đá thải tạo tiền đề cho mưa
lũ bồi lấp các sông suối, các thung lũng và đồng ruộng phía chân bãi thải và các khu
vực lân cận. Khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng thấp,
vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ
thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội.
Tóm lại: Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra rất nhiều tác động xấu
đến môi trường xung quanh, nhưng có thể nói tóm lại trong một số tác động như sau:
sử dụng chưa thực sự có hiệu quả các nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến cảnh
quan và hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn, làm ảnh hưởng đến
nguồn nước, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, gây tiếng ồn và chấn
động; gây ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn của người lao động.
1.3.3 Sự cần thiết bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
Xuất phát từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường, cùng với việc
phân tích sự tác động của hoạt động khai thác khoáng sản đến mối trường cho thấy môi
trường trong hoạt động này bị ảnh hưởng rất lớn, do đó đòi hỏi cần phải bảo vệ môi
trường trong hoạt động này là vệc làm hết sức cần thiết.
Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản là sử dụng tổng hợp
các biện pháp nhằm giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác

động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục tình trạng ô nhiễm,
suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, đồng
thời góp phần khai thác, sử dụng hợp lý, tài nguyên khoáng sản.
Bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản không chỉ nhằm bảo vệ các thành
phần môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản mà còn phải giữ gìn trữ lượng,
chất lượng khoáng sản với tư cách là một thành phần môi trường quan trọng bảo đảm
cho sự phát triển của con người, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà trữ lượng
khoáng sản đang suy giảm và hầu hết không tái tạo lại được, đồng thời nhu cầu sử
dụng khoáng sản của con người ngày càng lớn.
1.4 Khái quát chính sách bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng
sản
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã thành công trong nhiều lĩnh vực, giữ
gìn ổn định về chính trị; kinh tế phát triển với tốc độ cao liên tục trong nhiều năm; xây
dựng xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, văn minh hơn, môi trường được
bảo vệ và cải thiện, nhờ đó quá trình phát triển của Việt Nam được đánh giá là theo
hướng bền vững. Đạt được những thành công ban đầu nói trên, chính là nhờ Đảng và
Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường đúng đắn, tiếp thu
kinh nghiệm của các nước đi trước, tinh hoa của thời đại, đặc biệt là chính sách môi
trường được thiết kế với thực tiễn sinh động của Việt Nam.
Vấn đề bảo vệ môi trường được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá
trình phát triển. Vì vậy, vấn đề này đã được văn kiện các kỳ đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) liên tục đề cập đến. Văn kiện đã định ra các quan điểm, giải pháp
phù hợp, kịp thời, đặc bệt đại hội lần IX ĐCSVN đã nêu rõ chủ trương phát triển trong
thời gian tới là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, đặt mục tiêu môi trường
cũng quan trọng như tăng trưởng kinh tế và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đánh giá một cách khách quan
các nguy cơ và thách thức đối với môi trường, đề ra các quan điểm, mục tiêu cụ thể và
các giải pháp hết sức quan trọng nhằm bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trong

tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại đất nước.
Tiếp theo là quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc
phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020. Chiến lược xác định các thách thức đối với môi trường Việt Nam trong
những năm tới là: Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết; thách thức
trong việc lựa chọn các lợi ích phát triển kinh tế và môi trường; cơ sở hạ tầng yếu kém,
lạc hậu; gia tăng dân số, di dân và đói nghèo; nhận thức về môi trường còn thấp; tổ
chức và năng lực quản lý chưa đáp ứng yêu cầu; hội nhập kinh tế quốc tế và tác động
của các vần đề môi trường khu vực và toàn cầu.
Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ với bảo vệ môi
trường; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội; phòng ngừa là chủ yếu và bảo
vệ môi trường phải kết hợp giữa nội lực và hợp tác quốc tế, chiến lược đặt ra mục tiêu
đến năm 2010 là hạn chế tốc độ gia tăng ô nhiễm và định hướng mục tiêu đến 2020 là
ngăn chặn về cơ bản tốc độ gia tăng ô nhiễm, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức ổn
định và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về môi trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa.
Những giải pháp chiến lược then chốt được lựa chọn bao gồm: Nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý Nhà nước; pháp luật về bảo vệ môi trường; áp
dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường; tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường; đẩy
mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ
môi trường.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
Trong chương này người viết tập chung phân tích một số trách nhiệm mà tổ chức,
cá nhân khai thác khoáng sản phải thực hiện như: lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường; cam kết bảo vệ môi trường; lập các dự án cải tạo, phục hồi môi trường; ký quỹ
cải tạo, phục hồi môi trường, tuân thủ các quy định về quản lý chất thải; nghĩa vụ về tài
chính và một số trách nhiệm pháp lý mà tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về

bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam
2.1 Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trong việc bảo
vệ môi trường
Khoáng sản là tài nguyên không thể tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc
gia, chính vì vậy khoáng sản phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết
kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Để khuyến khích tổ chức, cá nhân bảo vệ, sử dung có hiệu quả mọi tài nguyên khoáng
sản của đất nước trong hoạt động khai khoáng sản nói chung và hoạt động khai thác
khoáng sản nói riêng, đồng thời bảo vệ được môi trường. Bên cạnh quyền và nghĩa vụ
mà luật đã quy định thì tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản còn có một số
trách nhiệm như sau:
2.1.1 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong báo cáo
đánh giá tác động môi trường
Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản muốn được cấp phép khai thác, ngoài báo
cáo nghiên cứu khả thi, luận chứng kinh tế, kĩ thuật về môi trường, thì phải có báo cáo
đánh giá tác động môi trường được phê duyệt.
Theo quy định tại khoản 20 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực ngày
01/7/2006 thì: “Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là việc phân tích, dự báo các tác
động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi
trường khi triển khai dự án đó”. Qua quy định này ta có thể nhận thấy:
- Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nếu muốn thực hiện dự án có thể gây ảnh hưởng đến
môi trường đều phải thực hiện phân tích và đánh giá tác động môi trường và phải đề
xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường.
- ĐTM không phải là một nghĩa vụ mang tính hình thức, tức là không phải chỉ là
một điều kiện giấy tờ cần phải có cho việc phê duyệt một dự án mà nó là một nghĩa vụ
mang tính chất nội dung.
Như vậy việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho các nhà đầu tư chủ động
lựa chọn những phương án khả thi về kinh tế và kĩ thuật trong kế hoạch phát triển kinh
tế, bảo vệ môi trường của mình. Đồng thời đây là cách thức để cơ quan có thẩm quyền

để kiểm soát các hoạt ảnh hưởng đến môi trường hiệu quả nhất.
Hiện nay việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày
28/02/2008 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006
ngày 9/8/2006 của Chính phủ; Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8/12/2008 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Theo quy định thì tổ chức, cá nhân là chủ dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập
báo cáo đánh giá tác động môi trường (sau đây gọi là chủ dự án) tự tiến hành hoặc thuê
tổ chức tư vấn có đủ điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất – kỹ thuật cần
thiết để tiến hành đánh giá tác động môi trường và lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Chủ dự án gửi văn bản thông báo về các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề
môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án và đề nghị Ủy ban nhân dân,
Ủy ban mặt trận tổ quốc cấp xã đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án tham
gia ý kiến (theo quy định tại khoản 2 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT); chủ dự
án gửi hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tấc động môi trường đến Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh (theo quy định tại khoản 3 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT),
thời điểm gửi hồ sơ đề nghị thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường của các
dự án được quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 21/2008/NĐ-CP (trường hợp hồ
sơ chưa hợp lệ, trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhân được hồ sơ,
cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm thông báo để chủ dự án bổ sung hoàn chỉnh).
Một bản báo đánh giá tác động môi trường muốn được phê duyệt phải đảm bảo các nội
dung sau (quy định tại điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2005 và phụ lục 4 thông tư
05/2008/TT-BTNMT):
- Liệt kê tên công trình và mô tả chi tiết các công trình trong dự án (không gian,
thời gian, khối lượng thi công, công nghệ vận hành…) cũng như mô tả cho cả dự án.
- Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận.
kèm với đánh giá chi tiết tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực

hiện. Việc đánh giá trên phải trung thực, khách quan nhằm giúp cơ quan thẩm định biết
mức độ nhạy cảm và sức chịu tải của môi trường nơi có dự án cũng như các thành phần
môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chị tác động của dự án, bên cạnh những đánh giá
trên người lập báo cáo còn phải nêu dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình
gây ra.
- Biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường, phòng ngừa,
ứng phó sự cố môi trường và những biện pháp này phải đảm bảo tính khả thi.
- Cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường xuyên suốt từ khi xây dựng
cho đến suốt quá trình vận hành công trình.
- Danh mục công trình, chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường
trong quá trình triển khai thực hiện.
- Dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường trong
tổng dự toán kinh phí của dự án.
- Ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã và đại diện dân cư nơi thực hiện dự án (tổng
hợp cả ý kiến đồng ý và không đồng ý về việc triển khai dự án tại địa phương hay việc
triển khai biện pháp bảo vệ môi trường mà chủ công trình đưa ra).
- Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá.
Để lập được báo cáo tác động môi trường đầy đủ với những nội dung trên, người
lập báo cáo cần qua những bước tìm hiểu rõ rãng và có tầm nhìn sâu, rộng về vấn đề
bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ môi trường nơi có dự án sẽ tiến hành.
Đánh giá giá tác động môi trường là một trong những giải pháp quan trọng trong
quản lý ô nhiễm công nghiệp, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa ô nhiễm do các
hoạt động sản xuất gây ra. Thấy được vai trò to lớn của việc đánh giá tác động nên nhà
làm luật đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong
thời gian qua thì vấn đề đánh giá tác động môi trường không được chủ các dự án đầu tư
quan tâm, Mặc dù đa số tất cả các dự án đầu tư đều thực hiện công tác đánh giá tác
động môi trường, nhưng hầu hết chỉ dùng để đối phó, để dự án được thông qua nên họ
chỉ làm qua loa, chú trọng làm cho đủ thủ tục chứ không quan tâm đến những tác động
và nguy cơ môi trường thực sự, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm quy định về đánh
giá tác động gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Đánh giá tác động môi trường là việc làm hữu ích, có ý nghĩa thiết thực đối với
các hoạt động phát triển. Tuy nhiên do ĐTM là một quá trình nghiên cứu, phân tích
tổng hợp phức tạp, đòi hỏi chuyên gia kinh nghiệm, tốn kém về thời gian, kinh phí. Vì
vậy đối với các dự án phát triển việc ĐTM đầy đủ chỉ tiến hành đối với các dự án phát
triển quan trọng, còn đối với các dự án ít quan trọng hơn thì không được quan tâm
đúng mức.
Sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt thì chủ dự án có
trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án về nội dung quyết
định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; niêm yết công khai địa điểm
thực hiện dự án về các loại chất thải, cộng nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải
các giải pháp bảo vệ môi trường để cộng đồng dân cư biết, kiểm tra, giám sát; thực
hiện đúng, đầy đủ các nội dung bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động
môi trường và các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động; thông
báo cho cơ quan phê duyệt báo cáo tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận việc đã
thực hiện các nội dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh
giá tác động môi trường; chỉ được đưa công trình vào sử dụng sau khi đã được cơ quan
có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đầy đủ yêu cầu quy định trên (theo
quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và khoản 11 mục III
Thông tư 05/2008/TT-BTNMT).
2.1.2 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong cam kết
bảo vệ môi trường
Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng không thuộc đối tượng lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường có trách nhiệm lập bản cam kết bảo vệ môi trường để đăng ký với
Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy quyền xem xét, xác
nhận.
Theo tinh thần của Điều 24 Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 21/2008/NĐ-CP
thì các dự án hoạt động khai thác khoáng sản sau đây phải lập bản cam kết bảo vệ môi
trường (CKBVMT):
- Dự án khai thác khoáng sản (trên đất liền) làm vật liệu xây dựng có công suất
khai thác dưới 50.000m

3
/năm.
- Dự án khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp mặt bằng có công suất khai thác
dưới 100.000m
3
/năm.
- Dự án khai thác, nạo vét tận thu khoáng sản lòng sông làm vật liệu xây dựng có
công suất khai thác dưới 50.000m
3
/năm.
- Dự án khai thác khoáng sản rắn (không sử dụng hóa chất) có khối lượng mỏ
(bao gồm khoáng sản và đất đá thải) dưới 100.000m
3
/năm.
Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường phải bảo đảm
theo đúng quy định
7
, bao gồm các nội dung chính sau:
7
Phục lục 24
Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường
(Ban hành kèm theo thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường)
+ Thông tin chung: Tên Dự án; tên cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; địa chỉ liên
hệ của cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp Chủ
dự án; phương tiện liên lạc với cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án;
+ Địa điểm thực hiện dự án;
+ Quy mô sản xuất, kinh doanh;
+ Nhu cầu nguyên, nhiên liệu sử dụng;
+ Các tác động môi trường: Các loại chất thải phát sinh; các tác động khác;

+ Biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực: Xử lý chất thải; giảm thiểu các tác động
khác;
+ Các công trình xử lý môi trường, chương trình giám sát môi trường: Các công
trình xử lý môi trường; chương trình giám sát môi trường;
+ Cam kết thực hiện.
Chủ dự án có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường đến
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện) nơi có dự án hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thuộc huyện (sau đây
gọi chung là cấp xã) được ủy quyền để đăng ký và cấp giấy xác nhận. Thời điểm đăng
ký bản cam kết bảo vệ môi trường là trước khi xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản.
Sau khi bản cam kết bảo vệ môi trường đã được xác nhận thì tổ chức, cá nhân
khai thác khoáng sản có trách nhiệm thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã ghi
trong bản cảm kết bảo vệ môi trường.
2.1.3 Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết
bị, vật liệu thân thiện với môi trường
Một trong những đặc điểm của hoạt động khai thác khoáng sản là thường gây ảnh
hưởng rất lớn tới môi trường và sức khỏe của người lao động cũng như người dân vùng
lân cận. Vì vậy, để bảo vệ môi trường và sức khỏe con người cũng như đảm bảo hoạt
động khai thác khoáng sản được thực hiện có hiệu quả, an toàn, tiết kiệm thì mọi tổ
chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật
liệu phù hợp, thân thiện với môi trường.
Theo khoản 1 Điều 16 Luật khoáng sản 1996 có hiệu thi hành 01/9/1996 thì: “Tổ
chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu và thực
hiện các quy định khác của Luật bảo vệ môi trường để hạn chế tối đa tác động xấu đến
các thành phần môi trường; thực hiện việc phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai sau
khi kết thúc từng giai đoạn hoặc toàn bộ hoạt động khoáng sản”.
Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công
nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.
Theo đề án này, ngành khai khoáng ưu tiên lựa chọn thiết bị, công nghệ mới theo
hướng sản xuất sạch với các tiêu chí cao, ít tiêu hao nguyên, nhiên liệu, an toàn và thân

thiện với môi trường sinh thái; áp dụng ngay từ đầu công nghệ hiện đại, có trình độ cơ
giới hóa và tự động hóa cao đối với các mỏ mới xây dựng có quy mô lớn. Khoa học và
công nghệ trở thành lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường. Trong công nghệ khai thác lộ
thiên, phấn đấu đến năm 2015 đạt trình độ cơ giới hóa các công đoạn sản xuất ngang
tầm của khu vực và đến 2025 đạt trình độ thế giới, công nghệ thông tin được áp dụng
phổ biến trong quản lý sản xuất kinh doanh, quản trị tài nguyên ở những mỏ lớn, tiến
tới giảm tới tối đa lao động phổ thông ở những mỏ nhỏ và vừa; trong công nghệ khai
thác hầm lò, phấn đấu áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, chấm dứt tình trạng khai thác thủ
công (Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa
công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm
2025”).
Trong thời gian qua tình trạng chảy máu tài nguyên do công nghệ khai thác lạc
hậu diễn ra khá phổ biến. Vì lợi ích cục bộ, trước mắt, các cơ sở khai thác ngại đầu tư
công nghệ, thiết bị tiên tiến, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu sử dụng thủ công, lợi
dụng nhân công rẻ để kiếm lợi cao, không quan tâm đến các chỉ tiêu kỹ thuật, đã làm
thất thoát một khối lượng lớn tài nguyên trong hoạt động này. Theo kết quả của Viện
Tư vấn phát triển, tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác còn rất cao như khai
thác than hầm lò tổn thất là 40 – 60%, khai thác apatit 26 – 43%, quặng kim loại 15 –
30% Thiết nghĩ đã đến lúc các nhà quản lý của nước ta cần xiết chặt về vấn đề cấp
giấy phép hoạt động khai thác, kiểm tra năng lực khai thác khoáng sản của các tổ chức,
cá nhân. Bên cạnh đó cần có một số chính sách lớn như: Khuyến kích các doanh
nghiệp có năng lực vốn, thiết bị đầu tư vào lĩnh vực khoáng sản; hỗ trợ vốn để các tổ
chức, cá nhân cải tiến công nghê, kĩ thuật; tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn
lực Khoa học và công nghệ từ bên ngoài… Có như vậy mới khắc phục được tình trạng
chảy máu tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản trong khai thác nói riêng.
2.1.4 Thực hiện các quy định về quản lý chất thải
2.1.4.1 Quản lý nước thải
Hoạt động khai thác khoáng sản, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho hầu
hết các công đoạn sản xuất, đồng thời lượng nước thải ra môi trường làm ảnh hưởng

đến nguồn nước xung quanh khu vực khai thác cũng đáng kể. Do đó chủ thể tiến hành
hành khai thác khoáng sản phải tuân thủ các quy định về quản lý nước thải, thu gom và
xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi
trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan

×