Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Có thể làm đồng bộ điều kiện lao động thông qua bộ quy tắc ứng xử lao động không? nhận thức đối với...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.1 MB, 15 trang )

CO THE LAM DONG BO DIEU KIEN
LAO DONG THONG QUA BO QUY TAC
UNG xU LAO DONG KHONG?
NHAN THUC DOI VGI VIET NAM
TỪ MỘT SỐ NƯỚC DONG NAM A
Angie Ngọc Trần*

1. GIỚI THIỆU
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới của Việt

Nam, cơng nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu, đặc biệt thể hiện trong

các ngành giày dép, dệt, may mặc sử dụng nhiễu lao động, tiếp tục đóng

một vai trị rất quan trọng. Rõ ràng là tồn cầu hóa làm cho thế giới trở nên

nhỏ bé hơn và linh hoạt hơn vì lợi ích của tư bản toàn cầu; tuy nhiên, thách

thức hiện nay là tồn cầu hóa cũng cần làm cho cuộc sống của những người
cơng nhân sản xuất hàng hóa cho nên kinh tế tồn cầu trở nên tốt đẹp hơn.

Trên tính thần đó, bối cảnh của bài viết này là vai trị đang tăng lên

của xã hội dân sự tồn cầu, thể hiện qua nhận thức của người tiêu dùng.

Xã hội
sự địi hỏi phải có những thay đối trong q trình sản xuất
nhằm cải thiện điều kiện của người công nhân và môi trường. Trách nhiệm
đạo lý với người tiêu dùng ngày càng tăng từ giữa những năm 90 cho thấy

mối quan tâm toàn cầu này, Thực trạng phơi bày về điều kiện lao động


tại các xí nghiệp ở Mỹ và trên thế giới vào giữa những năm

1990 đã dẫn

đến áp lực từ cơng chúng. Chính nhờ áp lực này đã tạo ra trào lưu về Trách

nhiệm Xã hội Công ty (CSR) khi các tập đoàn sốt sắng đầu tư vào nỗ lực

quan hệ cơng (PR) của họ để đối phó với sự phản đối kịch liệt của công
chúng. Do vậy, trào lưu chung này đã dẫn đến những chiến lược kiểm toán
và giám sát các tiêu chuẩn

lao động và điều kiện làm việc, với các loại Bộ

Quy tắc Ứng xử (COC) và một số để xuất gần đây, bao gồm cả hệ thống

Tiêu chuẩn Lao động Đồng bộ CRLS).

CSR mà biểu hiện của nó là dưới dạng các loại Bộ Quy tắc Ứng xử
(COC) sẽ cải thiện điều kiện của người cơng nhân tại các nước đang phát
* Phó Giáo sự, Dai hoc Monterey Bay, bang California. My.
593


VIỆT NAM HỌC - KY YEU HOI THAO GUGc TE LAN THUS HAI
triển như mong

muốn

tới mức độ nào? Và, nó phục vụ cho lợi ích của các


Cơng ty đa quốc gia (MNCs) tới mức độ thế nào?

Mới được tiếp cận đến hệ thống COC chung này, Việt Nam có thể tiếp

thu một vài nhận xét hữu ích từ kinh nghiệm của những cơng nhân tại Thái

Lan và Phi-líp-pin. Họ là những người đã tham gia vào hệ thống toàn cầu
này cách đây nhiều năm. Các kết quả thu được qua hai trường hợp nghiên

cứu này bao gồm:

Thứ nhất, các MNGs tiếp tục thu lợi nhiều hơn người công nhân do việc
chuyển giao trách nhiệm và chỉ phí thực hiện COC sang các nhà cung cấp
bản địa/nội địa; thứ hai, bản chất bóc lột của hệ thống hợp đồng bao thầu

tồn câu đã phủ định một số nguyên tắc căn bản của COC, như khơng có
lao động cưỡng bức; tiền lương khá, giờ làm việc và những điều kiện lao
động khác; và tự do lập hội và thoả ước tập thể.

II. HỆ THỐNG HỢP ĐỒNG BAO THẦU TOÀN CẦU VÀ SỰ RA DOI CUA BO
QUY TẮC ỨNG XỬ
Có bằng chứng cho rằng một số nguyên tắc cơ bản của COC không

được ủng hộ, nếu khơng muốn nói là phủ nhận, bởi chính những đặc điểm

của hệ thống hợp đồng bao thầu toàn cầu.

Trước tiên, đặc điểm tỉnh vi và xảo quyệt làm suy yếu COC là chế độ
hợp đồng bao thầu đa cấp và phi tập trung hoá sản xuất thành mạng lưới


các chuỗi cung cấp đa tầng?2), Những mạng lưới này ngăn cản trách nhiệm

cia COC, vì nhiều cơng ty mua/MNGs thường thay đổi nước và nhà cung cấp
nội địa khi họ thấy cơ hội phải giảm chỉ phí hay lương lao động nói riêng.

Thứ hai, sự tồn tại dai dẳng va phinh ra trong &bu ực pbi kết cấu có
thể che mất chính những người mà COC muốn bảo vệ. Về căn bản, COC
chỉ quy định bảo vệ công nhân ở nhà máy, chứ không ở nhà. Điều này đã
loại bỏ những người công nhân may vá tại nhà, chủ yếu là phụ nữ; những
nghệ

nhân

làm gỗ, đá, kim

loại hoặc

nhựa bằng

máy

móc

thơ sơ; những

người bán rong hàng hố trên đường phố, những nhà phân phối lớn, v.v...

Sự cạnh tranh từ các MNC và từ việc nhập khẩu các sản phẩm cũ từ các
nước phát triển có thể đẩy các nhà sản xuất nội địa thiếu nguồn lực vào

khu vực phi kết cấu và có thể gia tăng sự cạnh tranh giữa họ với nhau.

Điều này làm giảm đi hơn nữa trách nhiệm xã hội đối với điểu kiện của
người công nhân.

Thứ ba, có bằng chứng rõ ràng là các MNC đã có thể chuyển việc giám

sát chất lượng của cổ sản phẩm lẫn điều kiện lao động việc làm sang cho

các nhà sản xuất/nhà cung cấp bản địa?, Các MNC với khả năng thương

lượng tốt đã chuyển giao có hiệu quả trách nhiệm giám sát củng chi phi
thực hiện COC sang cho các nhà cung cấp bản địa.
594


CO THE LAM DONG BO DIEU KIEN LAO DONG THONG QUA BO GUY TAC UNG XU...
Thứ tư, tồn cầu hóa tư bản, được thể hiện ở nhiều tập đoàn tự do, đã

làm cho thế giới trở nên nhỏ bé hơn và an tồn hơn đối với các nhà đầu
tu, nhưng

những

cơng

nhân

bản


địa lại khơng

có được

tự do và bảo

vệ

như vậy. Vì vậy, để giải quyết mối quan ngại rất hiện thực này với cơng
nhân, đã có nhiều nỗ lực nhằm gắn vấn đề thương mại với các tiêu chuẩn
về lao động và môi trường bằng việc bổ sung điều bboẩn xã bội (social

clause) vào các hiệp định thương mại. Việc bổ sung điều khoản xã hội

này vào các hiệp định thương mại đã trở thành một vấn dé kiện tụng đối
với các nước đang phát triển (Phương Nam). Phương Nam có hai quan
điểm chính®),

II. BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ VÀ THÁCH THỨC THỰC HIỆN
Hầu hết COC để cập đến mười tiêu chuẩn lao động. Những tiêu chuẩn
này được chuyển thể từ 5 công ước cốt lõi của Tổ chức Lao động Quốc tế

(ILO) la: tuan tht pháp luật lao động bản địa/nội địa; an toàn và sức khỏe
nghề nghiệp; tự do lập hội; quấy rối và lạm dụng; thỏa ước tập thể; không
phân biệt trong việc làm; trả lương tối thiểu và trợ cấp; lao động cưỡng

bức; giờ làm việc; và lao động trẻ em®6),

Hầu hết các bộ quy tắc được xác lập theo các ưu đãi và cơ chế định


hướng thị trường, nhưng không phải tất cả các bộ quy tắc đều thông qua
quyền thỏa ước tập thể hay thành lập công đồn. Cơng ty Sảø xuất Đơ
trang điểm tồn Tbế giới (WRAP) khơng cơng khai thừa nhận quyền này.

Ngồi ra, khơng phải tất cả các bộ quy tắc đều chấp nhận quan điểm
“gpưíc lương đủ sống” cao hơn mức lương tối thiểu; lương đủ sống nhằm
trang trải các chỉ phí về thực phẩm, nhà ở và quần áo. Tuy nhiên, bộ quy
tắc SA8000 thừa nhận quan điểm đó và ủng hộ có quỹ tiết kiệm gia đình
ở mức khiêm tốn”), Vé vấn đề giám sát độc lập, chỉ có tổ chức do sinh

viên khởi xướng, 7ổ bợp Quyền Cơng nbán, khơng có đại diện cơng ty
trong ban giám sát),
Tuy nhiên, có các để xuất khác nhau tranh cãi về việc áp dụng đồng
loạt các tiêu chuẩn lao động trong các bối cảnh phát triển đất nước khác
nhau; thay vào đó họ tán thành các bên liên quan có vai trị trong quá

trình xác định và đặt ra các tiêu chuẩn), Chúng xuất phát từ việc đặt ra
một số tiêu chuẩn mức lương tối thiểu quốc tế bắt buộc trên toàn thế giới
khiến các MNGCs không thể lũng đoạn (Ross and Chan); cho phép các nước

đang phát triển với nhận thức về những bức xúc và hoàn cảnh của bản
thân nước mình để xác định các tiêu chuẩn lao động quốc tế bằng mức

độ hợp tác toàn cầu tối thiểu; đến mơ hình Tiêu chuẩn Lao động Nâng
cao (RLS) cho phép quốc gia có vai trị trong việc xác định các tiêu chuẩn

lao động phù hợp với nhu cầu của công nhân và trình độ phát triển kinh

tế và sau đó là nâng cấp những tiêu chuẩn lao động này khi kinh tế phát
triển (Fung


et.al).

595


VIỆT NAM HỌC
- KỶ YÊU HỘI THẢO GUỒC TÈ LẦN THỨ HAI

Mơ hình RLS là một trong số những mơ hình phát triển nhất, dường như

đứng vững hơn ở mức độ quốc gia và doanh nghiệp, Nó chủ trương lơi kéo

tất cả các bên liên quan, trong đó có cơng nhân, doanh nghiệp, NGOs, Chính
phủ vào cuộc tranh luận cơng khai về điều kiện lao động toàn câu. Tương tự

như quan điểm của Basu, Fung et.al., chỉ trích các tiêu chuẩn đồng bộ mà có
lẽ ám chỉ ý đồ bảo hộ của các nước phát triển. Họ cho rằng các tiêu chuẩn
lao động của RLS phải được xuất phát từ việc thực thi tốt nhất tại nơi làm việc

trong điều kiện kinh tế tương tự và những tiêu chuẩn này từng giai đoạn phải
được điều chỉnh và nâng cấp khi điều kiện kinh tế-xã hội thay đổi theo thời

gian. Dựa trên cơ chế thị trường đặc biệt, dựa trên sự đánh giá rằng MNCs sẽ
cạnh tranh với nhau để có được hoạt động tốt nhất, RLS chủ trương xây dựng

hệ thống cấp độ công cộng (gồm các công ty “tốt” và để xuất đưa cơ sở dữ
liệu này đến tay tất cả các bên liên quan. Bốn nguyên tắc của RLS là minh

bạch, so sánh cạnh tranh, cải thiện không ngừng và trừng phạt.


Vấn để chính theo hầu hết các học giả và nhà hoạt động là vấn đề thực

hiện và tuân thủ. Trong Hội nghị thường niên gần đây diễn ra vào tháng
6-2004 (diễn ra cùng thời điểm bài viết, tổ chức ILO đánh giá lại vai trò
hàng đầu của mình trong việc thơng qua và giám sát tn thủ các tiêu
chuẩn lao động quốc tế (L8); xác định những vấn để cốt lõi và thảo luận
về ILS mới và sửa đổi. Rõ ràng rằng ILO duy trì quan hệ đối tác với những
đại diện của chính phủ, cơng nhân và ơng chủ trong tồn bộ q trình

này, Tuy nhiên có các học giả và nhà hoạt động cho rằng việc ILO phải
có trách nhiệm tạo ra tính hiệu
bảo vệ quyển của công nhân ở
bắt buộc tuân thủ các công ước
ban điều tiết và đưa ra các kế

lực của cơ chế ràng buộc quốc tế nhằm
các nước Phương Nam khơng có nghĩa là
của mình. Vì vậy họ để nghị thành lập Ủy
hoạch mà cho là có “sức mạnh” thực sự

khiến những tiêu chuẩn lao động này có hiệu lực1?, Hazis và Harvey để
xuất “kênh chuyên gia”; Ross & Chan gợi ý WTO nên có vai trị điều tiết;
Fung et.al (mơ hình RLS) gợi ý thành lập một ủy ban bao gồm

của chính

phủ,

các tổ chức


các liên đồn và các

chứng

nhận

xã hội phi chính

phủ;

đại diện

lao động,

tập đồn. Đặc biệt, mơ hình RLS ủng hộ các nghiệp

đồn đóng vai trị là giám sát viên bởi vì họ có hiểu biết tốt nhất vẻ điều

kiện làm việc và những nhu cầu của người công nhân, vì vậy có thể sẽ là
lực lượng có nhiều khả năng nhất tán thành lợi ích của người cơng nhân;
các giám sát viên của nghiệp đồn có thể tận dụng thông tin do RLS đưa

ra về hoạt động tốt nhất và tôi nhất ở một ngành công nghiệp nhằm thơng

báo và củng cố vị thế của mình trong việc bàn bạc tập thể9?),
IV. KINH NGHIEM CUA THAI LAN

Bằng chứng từ ngành công nghiệp đồ trang điểm và giày dép Thái Lan
cho thấy rằng hầu hết công nhân không hưởng lợi từ những bộ luật ứng


xử này do năm vấn để lớnd®,

596


CÓ THỂ LÀM ĐỒNG BỘ ĐIỀU KIEN LAD DONG THONG GUA BO QUY TAC UNG Xt...

Trước hết, những kiểu lao động áp bức mới hình thành trong quá trình

ký hợp đồng phụ toàn cầu và các COCs rất tổng quát sẽ khơng giúp đỡ
một cách thiết thực cho cơng nhânt®), Hệ thống ký hợp đồng phụ tồn

cầu bóc lột này hồn tồn bác bỏ việc bảo vệ cơng nhân

dù việc thanh toán hợp đồng



COC

đưa ra.

phụ được dựa trên số lượng bộ phận

án phẩm được thu thập chứ không phải bằng thời gian, và lương trả
theo
n phẩm được ấn định ở mức rất thấp, cơng nhân rốt cuộc chỉ nhận
được ít hơn mức lương tối thiểu. Công nhân phải làm việc rất vất vả để
hoàn thành chỉ tiêu do ban quản đốc đưa ra từ trước, vì vậy thời gian làm


việc ở mức độ vừa phải cam kết trong COC không được áp dụng đối với
họ. Tại cả các xí nghiệp giày dép và đồ trang điểm của Thái Lan, tình trạng

vi phạm an toàn và sức khỏe nghề nghiệp vẫn xảy ra.

Thứ hai, bản thân hầu hết các nhà sản xuất địa phương phải đối mặt

với sự thất thường bởi vì các MNCs lũng đoạn như Reebok, Nike va Adidas

khơng đưa ra cam kết lâu dài với họ và có thể chuyển đi và đặt đơn hàng
ở các nước khác có lao động rẻ. Thiếu các hợp đồng lao động thường xuyên,
những nhà cung cấp địa phương lại hạ thêm lương của cơng nhânG6),
Thứ

ba,



hiện

tượng

đẩy

trách

nhiệm

thực


hiện COC

từ các

MNCs

sang các nhà cung cấp hoặc sản xuất trong nước. Những nhà cung cấp
TháiLan, không

chỉ phải chịu toàn bộ sự thất thường của đơn đặt hàng mà

cịn phải gánh chi phí thực hiện và giám sát COC (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Vì vậy, những nhà cung cấp trong nước này sé lại giảm chỉ phí bằng cách
o ép thêm cơng nhân (dưới hình thức sản lượng) và trả họ mức lương thậm

chí thấp hon”),

Thứ tư, COC không bảo vệ quyền tự do hiệp hội hay bàn bạc tập thể

của công nhân Thái Lan, Công nhân Thái Lan phải đấu
được thành lập các hiệp hội doanh nghiệp (cơng đồn).
nhân đã thành lập Hiệp hội Cơng nhân Piyavat nhưng họ
với sự đàn áp công khai và không được phép hoạt động

tranh vất vả để
Năm 1981, công
lại phải đối mặt
để bảo vệ quyền


lợi của cơng nhânđ®), Cơng nhân tham gia đình cơng và/hoặc cơng tác hiệp
hội bị ghi vào danh sách đen trong tồn ngành và khơng thể tìm việc sau
khi bị sa thải. Năm 1996, nhà máy Piyavat đã đóng cửa và 730 cơng nhân
(những người hoạt động trong ban hiệp hội lao động) bị sa thải và không
được nhà máy khác thuê lại (800 công nhân không gia nhập hiệp hội được
chuyển đến nhà máy khác). Tại nhà máy may Par, công nhân Thái Lan
phải tiến hành cuộc đình cơng 9 ngày chí để địi thành lập hiệp hội doanh
nghiệp

và đòi được thừa nhận.

Thứ năm,

một trở ngại khác là nhận

được sự can thiệp của chính phú-

việc mà thỉnh thoảng phải mất vài tháng trước khi bất cứ sự giúp đỡ nào
đến được. Do không nhận được bất cứ sự bồi thường nào theo luật định,
công nhân bị sa thải của Piyavat đã biểu tĩnh 48 ngày trước Tòa nhà Quốc

597


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÊU HỘI THẢO QUỒC TỀ LẦN THỨ HAI
hội trước khi nhận

được

một


số sự trợ giúp từ Bộ Lao động

và Phúc

lợi

Xã hội. Đồng thời trong suốt cuộc đình cơng, khơng có sự giúp đỡ hay
phúc đáp từ Reebok. Hơn thế nữa, sau khi giải quyết, toàn bộ thành viên
cũ của Ủy ban hiệp hội gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc bởi vì Tổ

hợp Wongpaitoon đã gửi chỉ tiết các hoạt động của hiệp hội tới tất cả các
nhà sản xuất trong ngành. Do vậy, toàn bộ vụ việc này đã khiến công
nhân trong ngành đồ trang điểm và giày dép không dám thành lập các
hiệp hội hay thậm chí khơng gia nhập vào những hiệp hội này vì lo sợ

bị báo thù”, Đồng thời, khi cơng nhân May Par đình cơng do những vi
phạm

lao động,

cho tới tận 5 tháng sau, Bộ Lao động và Phúc

vẫn khơng có sự can thiệp nào.

lợi Xã hội

V. KINH NGHIEM CUA PHILIPIN
Cần phải làm rõ mâu thuẫn giữa những báo cáo của chính phủ với


những nghiên cứu do các nhóm hiệp hội và lao động tiến hành ở Philipin.
Với việc chú ý cao độ tới điểu kiện của các xí nghiệp trên tồn thế giới,
chính phủ Philipin trong một vài năm qua đã nhóm một số bên liên quan

bao gồm Bộ Lao động và Việc làm Philipin (DOLE), ILO và ADB để giải
quyết những vấn đề lao động (đáng chú ý là khơng có các nhóm lao động
địa phương).

Những báo cáo từ các cơ quan của chính phủ thể hiện viễn cảnh sáng

sủa. Đầu năm 2002, ILO và ADB đã gặp gỡ ở Manila và nhấn mạnh tới mối

liên hệ giữa việc cải thiện tiêu chuẩn lao động với phát triển bền vững(20),
Năm 2003, DOLE đã đưa ra các biện pháp và chiến lược nhiều hướng nhằm

tăng tính hiệu lực của các tiêu chuẩn lao động thông qua Khuôn khổ chấp
hành Lao động Quốc gia (NLEF)GĐ, Theo Bộ trưởng Lao động và Việc làm,

Bà Patricia Sto.Tomas, NLEF đã cải thiện điều kiện của công nhân và tránh

tai nạn tại nơi làm việc22, Hơn thế nữa, có bằng chứng về sự phối hợp
giữa chính quyền địa phương và ngành cơng nghiệp nhằm giám sát và điều
chỉnh tiêu chuẩn lao động mặc dù chưa thể biết và khơng chắc chắn về

lợi ích đối với công nhân),

Tuy nhiên, thực tế lại khác hơn nhiều. Nghiên cứu tồn diện năm

về 202


doanh

nghiệp

(81

doanh

nghiệp

may

mặc



121

doanh

2002

nghiệp

khơng phải may mặc) ở các khu kinh tế của Philipin (bao gồm cả các khu
kinh tế trong khu vực Clark) cho thấy tình trạng vi phạm phổ biến các tiêu
chuẩn quốc tế tối thiểu về điều kiện làm việc, theo tiêu chuẩn chính của ILO,

luật và các qui định của Philipin và bộ qui tắc ứng xử riêng của tập đoàn(29,


Những lĩnh vực có vi phạm nghiêm trọng nhất là: vi phạm các qui định

của quốc gia về trang thiết bị vệ sinh, u câu nghiêm ngặt và vơ nhân
tính đối với việc sử dụng nhà vệ sinh (hầu như 100% doanh nghiệp)), vị
phạm tiêu chuẩn về an toàn và sức khỏe (96% tổng số doanh nghiệp); làm
598


CO THE LAM ĐỒNG BỘ ĐIỀU KIEN LAO DONG THONG QUA BO QUY TẮC ỨNG XỬ...

thêm giờ bắt buộc mà khơng được trả lương hoặc tra ít (39% tổng số doanh
nghiệp); khơng trả lương vì nghỉ đẻ (28% tổng số doanh nghiệp); có hành

vi phân biệt giới, đặc biệt đối với nữ thành viên cơng đồn dưới dạng nghỉ
việc bất buộc mà khơng trả lương khi có thai, giới hạn thời gian sau khi

sinh, trả lương thấp hơn và quấy rối tình dục(26),

Về vấn để tự do hiệp hội và bàn bạc tập thể, ban quản đốc của hầu

hết 202 doanh nghiệp được điều tra đều có hành động cơng khai ngăn cản

cơng đồn tổ chức, sử dụng các biện pháp đe dọa, quấy nhiễu, dọa dẫm,
chuyển chỗ làm và sa thải các cán bộ cơng đồn và những người hoạt
động. Cơng đồn

viên bị đe dọa đóng cửa nhà máy và bị ngăn

cần tại hầu


ác doanh nghiệp được khảo sát. Chủ lao động bằng biện pháp quấy
nhiễu, đuổi việc, chuyển chỗ làm, giáng chức và thậm chí sa thải, trừng trị

những cơng đồn viên và những nữ cán bộ cơng đồn2?,

Tương tự như trường hợp của Thái Lan, một hình thức lao động cưỡng

bức mới đó là ¿vi tbêm bắt buộc trong hệ thống hợp đồng phụ toàn cầuhệ thống luôn luôn không được bồi thường và thường gây ra những vụ tai
nạn tại phân xưởng và nguy hiểm cho sức khỏe. Để đáp ứng đơn đặt hàng

xuất khẩu và thời hạn nộp hàng, nhiều công ty Philipin kể cả những công
ty trong khu kinh tế áp dụng biện pháp kéo dài thời gian làm thêm bắt
buộc, nhiều lần còn trả cơng ít. Hoạt động này đã diễn ra trong nhiều năm

mặc dù có sự kiểm tra lao động sát sao. Có trường hợp cơng nhân bị bắt

uống thuốc (thuốc Duromine Phentermine và nước tăng lực Extra Joss) giúp

họ tỉnh táo suốt 24 giờ để làm việc ngoài giờ (các thuốc này đã làm tăng

huyết áp, mất ngủ và bệnh táo bón)28, Nhiều cơng nhân được báo cáo là

mất chi và ngón tay, ngất vì đói và mệt và bị xảy thai do làm việc ngồi
giờ. Sổ chấm cơng của họ được lưu tại công ty để tránh việc họ bỏ làm
ngồi giờ; nếu họ khơng làm việc ngồi giờ họ có thể bị mất việc trong

những ngày tiếp theo),

VI. NHỮNG GỢI Ý TỪ TRƯỜNG HỢP CỦA THÁI LAN VÀ PHILIPIN


Những nhận xét và gợi ý dưới đây có liên quan ti Vit Namâđ;
1. Nu cỏc nh sn xut a phương ủng hộ và hợp tác với Chính phủ

thì CĨOC có thể có hiệu quả.

2. Chiến dịch giáo dục cơ bản cân phải thông tin cho công nhân về
quyền lợi của họ, các tiêu chuẩn lao động và sự bảo vệ của pháp luật trong

COC,

vì vậy họ có thể u cầu nhận được những quyền lợi này.

3. Chi phí thực hiện tồn bộ những u cầu của COC,

chi phí giám sát cần phải được cả các MNCs
phương chia sẻ theo tỷ lệ tương xứng.

cơ sở hạ tầng và

và các nhà cung cấp địa
599


VIỆT NAM HỌC - KỲ YÊU HỘI THẢO QUỖC TẼ LẦN THỨ HAI

4. Các nhà sản xuất địa phương cần u cầu những hợp đồng dài hạn

từ các

MNCs


vì vậy

họ mới

có được

sự đảm

bảo

việc làm hoặc

đơn

đặt

hàng. Thiếu sự chắc chắn về việc làm hoặc đơn đặt hàng, các nhà sản xuất
địa phương sẽ lại càng cắt giảm lương hơn.

5. Các chiến dịch tiêu dùng mạnh và những cơ quan giám sát độc lập
đáng tin cậy như các nghiệp đoàn, cần phải tăng cường ý thức của người
tiêu dùng và cin dim bao COC được hoạt động.

6. Cần phải tăng sự liên hệ với các tổ chức cơng đồn quốc tế. Ví dụ,

các cơng đồn Thái Lan nhận được sự ủng hộ của tổ chức Mạng lưới Đồn
kết của Cơng nhân Châu Á-Thái Bình Dương trong cuộc đấu tranh của mình.

VII. NHAN THUC VỀ VIỆT NAM

Về vấn để thành lập hiệp hội và thảo luận tập thể, cơng nhân Việt Nam

có thuận lợi hơn so với công nhân Thái Lan và Philipin. Việc thành lập các
cơng đồn trong các cơng ty của Việt Nam là được phép, có thể thực hiện và

được bảo vệ tại nhà máy có số lượng cơng nhân nhất định, không như sự phân

biệt và quấy nhiễu gay gắt thường thấy ở trường hợp Thái Lan và Philipin.
Quan hệ giữa Nhà
cơng nhân, trái ngược
và Philipin. Tổng Liên
nhận vị trí độc lập và
với Đảng-Nhà

nước và Cơng đồn mang tính hợp tác vì lợi ích
với mối quan hệ đối lập trong trường hợp Thái
đoàn Lao động Việt Nam (VGCL) ngày càng
phối hợp của Cơng đồn trong mối quan hệ ba

của
Lan
thừa
bên

nước (do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đại diện) và

các nhà quản lý hoặc chủ sở hữu (nhà nước và tư nhân) trong nền kinh tế
dựa trên thị trường với việc Văn

phịng


Thương

mại và Cơng

Nam (VCCI) ra đời đại diện cho lợi ích tư nhân),

nghiệp

Việt

Tơi nhận thấy mối quan hệ công tác gần gũi giữa các cấp khác nhau

của VGCL (Trung ương, Tỉnh và Doanh nghiệp), các sở Lao động - Thương
binh và Xã hội địa phương, và ban quần lý cơng ty nhằm xem xét các cuộc
đình cơng lao động vì lợi ích của cơng nhân một cách đúng lúc. Cơng đồn
các cấp và các ủy ban nhân dân địa phương sẽ nhanh chóng xuống hiện
trường vụ đình công trong vài giờ hoặc vài ngày nhằm đại diện cho quyển
lợi của công nhân đối với chủ lao động (so với thời gian đình cơng lâu hơn
nhiều và kéo dài tới vài tháng trong trường hợp của Thái và Philipin). Cac

cấp VGCL khác nhau cũng làm việc với ban quản lý của các EPZs và khu

công nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp lao động”.
Do được ILO, Ngân hàng Thế giới và

các học giả khác thừa nhận, Luật

lao động Việt Nam tiến bộ và tuân thủ các công ước của ILO3?), Hơn thế
nữa, ILO và

Ngân hàng Thế giới cũng thừa nhận vai trị tích cực của VGCL

trong việc đẩy mạnh

tơn trọng các tiêu chuẩn

lao động

và thực hiện CĨC,

và đặc biệt trong việc bàn bạc tập thểỞ?, Mới tham gia vào hệ thống COC

600


CÓ THỂ LÀM ĐỒNG BỘ DIEU KIEN LAD DONG THONG QUA BO GUY TAC UNG XU...

toàn cầu, Việt Nam đã bắt đầu áp dụng những bộ qui tắc ứng xử trong

cơng nghiệp®5),

Về kinh phí thực hiện CĨOC, những nhà cung cấp Việt Nam cũng phải
chịu tồn bộ chỉ phí liên quan tới việc thực thi các loại COC

khác nhau. Vì

vậy một lần nữa, các MNCs tích cực đẩy các chi phí của việc giám sát và

tuân thủ các tiêu chuẩn lao động cho nhà cung cấp địa phương và thay bằng


tập trung vào nỗ lực PR của mình nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Điều này rõ
ràng ưu ái cho các cơng ty lớn có uy tín có thể tận dụng đội ngũ nhân viên
trong nước tiến hành các cuộc kiểm tra, trong khi các cơng ty nhỏ hơn khơng

có nguồn lực để làm như vậy. Nhìn chung, các nhà sản xuất hoặc các nhà
cung cấp cần phải gánh hai loại phí: đầu tiên là pbí chứng nhận cho một

trong nhiều bộ luật của COC (như SA8000, WRAP, FLA và ETD lên tới từ 600
đến 10.000 USD tùy thuộc vào quy mô kinh doanh và vào đạo luật nào; thứ

hai, chỉ phí zâng cấp cơ sở bạ tầng, đào tạo cán bộ, tham vấn và thay đổi
trong các hệ thống quản lý cùng các chỉ phí khác nhằm giúp cơng ty tuân
thủ những bộ luật này (lên tới hàng chục nghìn đơ-la)Ư9, Hơn thế nữa, các
khách

hàng tập đồn khác nhau có thể yêu cầu những loại COC

khác nhau,

dẫn đến các nhà cung cấp Việt Nam phải đối mặt với những đòi hỏi của các
COC khác nhau. Điều này phù hợp với những lời phàn nàn mà tôi được nghe

trong chuyến thăm một số nhà máy vào năm 2003.
Những

nhận

xét sơ bộ và những cuộc phỏng

vấn trong thời gian tôi


nghiên cứu năm 2003 cho thấy lợi thế của các công ty lớn so với các công

ty nhỏ hơn trong việc thực hiện COC. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu hơn cần
phải xem

xét tới mức

những tiêu chuẩn lao động

này thực sự làm lợi cho

bản thân người công nhân, nhất là nữ công nhân chiếm đa số trong lực

lượng lao động của ngành giày dép, may mặc, dệt sử dụng nhiều lao động,
thậm chí tại các công ty đã được trao chứng chỉ COC. Những nhận xét sơ

bộ về sự chênh lệch quyền lực này phù hợp với nhận xét của ơng Nguyễn
Mạnh Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (MOLISA)S”.

VII. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG GỢI Ý SƠ BỘ
Xem xét từ thực trạng của Thái Lan và Philipin cũng như nhiều tài liệu

về COCs,

tơi có một số nhận xét và gợi ý sau:

Trước hết, để thực sự bảo vệ cơng nhân thì cần phải chỉ tiết hóa một

số ngun tắc chính của COC, vì chỉ có như vậy mới giải quyết trực tiếp

bản chất bóc lột của hệ thống hợp đồng phụ đa cấp độ. Những kiểu lao
động cưỡng bức mới như “làm thêm ép buộc” (đặc biệt trong nghiên cứu

về trường hợp Philipin đã dẫn tới những tai nạn thảm khốc và các biện
pháp phi nhân tính tại nhà máy) và tự bóc lột (cơng nhân làm càng nhiều

sản phẩm càng tốt để có thể kiếm đủ cái ăn) cần phải được công nhận
trong việc xác định nguyên tắc cơ bản này. Những

kiểu "lao động cưỡng
601


VIET NAM HOG - KY YEU HOI THAD QUOC TE LAN THU HAI

bức” mới này cũng tồn tại ở Việt Nam trong hệ thống hợp đồng phụ toàn
cầu. Trong những nghiên cứu trước đây, tôi nhận thấy rằng khi công nhân
được trả lương theo sản phẩm (việc kiểm tra chất lượng đã hồn thành và

được thơng qua) và khơng trả theo giờ làm, khi mức lương trả theo sản
phẩm rất thấp và khi họ phải chịu sự không ổn định của công việc do sự

thay đổi thất thường thường xuyên của đơn hàng, họ sẽ khơng muốn mất

việc vì khơng làm thêm giờ, Một gợi ý làm giảm bớt tình trạng này là
trả công nhân øc lương sống công bằng chứ khơng phải theo số lượng sẵn
phẩm vì thường khơng đạt mức lương tối thiểu. Cũng cần phải mở rộng
phạm

vi của các nguyên tắc CÓC tới mức cũng bảo dam cho những công


nhân tại nhà-những người cần cù làm việc tối ngày để sản xuất cho nền
kinh tế thế giới trong các điều kiện và tiền lương dưới mức bình thường.
Cũng cân thông tin và giáo dục công nhân về những nguyên tắc cơ bản
này của COC, vì vậy họ có thể u cầu địi hỏi quyển lợi và quyển của
mình như đã nói trong nghiên cứu tình huống Philipin.
Thứ hai, cần phải bàn bạc về một số kế boạcb chía sẻ cbỉ pbí giữa các

MNGs và nhà sản xuất hoặc cung cấp địa phương về hai loại phí như đã nêu
ở trên là phí chứng nhận và phí áp dụng. Các MNCs phải chia sẻ trách nhiệm

với nhà sản xuất hoặc cung cấp địa phương vì lợi ích chung, bởi vì người ta
nhận thấy rằng cơng nhân khỏe mạnh và vui vẻ sẽ làm việc tốt hơn với năng
suất cao hơn. Nếu không, cuối cùng người công nhân sẽ chịu những chỉ phí
này khi nhà cung cấp địa phương giảm chỉ phí bằng cắt lương, thậm chí cịn
nhiều hơn trong các trường hợp của Thái Lan và Philipin; điều này sẽ làm
thất bại mục tiêu dự định của tiêu chuẩn lao động đã thể hiện trong COC.

Thứ ba, cần phải có giám sát viên độc lập với khách hàng nước ngồi
và các MNCs như cơng đồn như đã nêu trong nghiên cứu tình huống của

Philipin và gợi ý của hệ thống RLS. Một ý kiến hay là đưa các cấp khác

nhau của VGCL tham gia vào kế hoạch giám sát như của các trường hợp
Thái Lan và Philipin, họ có mạng lưới và cơ cấu tồn diện nhất để phản

ứng hầu như ngay lập tức đối với những yêu cầu khẩn thiết của lao động
trên toàn Việt Nam. Họ biết làm thế nào để thương lượng có hiệu quả với
chú lao động và có thể chịu trách nhiệm trước cơng nhân. Hơn thế nữa,
vai trị giám sát này sẽ giúp các cơng đồn thúc đẩy vai trị độc lập của

mình hơn và có thể mở rộng vai trị tích cực của họ sang lĩnh vực tư nhân.
Thứ tư, chúng

ta có thể tận dụng

đặc điểm

riêng của hệ thống hợp

đồng phụ toàn cầu nhằm tăng sức mạnh của các giám sát viên ba bên: gắn
kết chặt chẽ khách hàng tập đoàn với nhà cung cấp địa phương trong chuỗi
sản xuất "rất đúng giờ” và yếu tố thời gian trong việc giao hàng nhanh va

kiểm kê nhỏ. Hệ thống cải thiện lao động đưa ra 3 nhận thức”;
1. Giám



cung cấp hoặc
kỳ vị trí nào.
602

viên có thể ngừng hoạt động kinh doanh tồn bộ chuỗi
ấn xuất bằng cách chấm dứt hoạt động kinh doanh tại bất


CO THE LAM ĐỒNG BỘ ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG THÔNG GUA BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ...
2. Giám

sát viên có thể buộc những


nhà bán lễ hoặc MNCs

chịu trách

nhiệm về hành vi của các nhà cung cấp địa phương bằng cách ép các
MNCs

ký “Hiệp định giám sát tuân tbử” mà trong đó họ có thể tán thành

giám sát và chia sẻ chỉ phí với những nhà cung cấp địa phương về việc
giám

sát và tuân thủ COC.

3. Những thành công trong việc thực hiện quy định về mơi trường có

thể áp dụng cho quy định về lao động. Giám sát viên hoặc người điều

phối tiến xa và xây dựng năng lực bằng cách hợp tác với các hiệp hội
công nghiệp, trao cho họ những sách bài tập để cập chỉ tiết các bước

đạt tới tiêu chuẩn

về môi trường và yêu cầu nhà

cung

cấp báo cáo


thường niên về những chất thải công nghiệp của họ trong cơ sở dữ liệu
có thể sử dụng được một cách cơng khai. Tồn bộ các bên liên quan có

thể tiếp cận nguồn thông tin chung này nhằm lột trần các công ty không

tuân thủ và buộc họ phải thay đổi và nâng cao hoạt động.

Từ những nghiên cứu tình huống so sánh của công nhân Thái Lan và
Philipin, chúng ta thu được nhận thức rộng lớn hơn về hiệu quả và ý nghĩa
của COC trong hệ thống hợp đồng phụ tồn cầu. Mặc dù Việt Nam có

thuận lợi trong mối quan hệ ba bên phối hợp (Nhà nước, công đoàn, chủ

lao động) nhưng họ cũng phải đối mặt với những thách thức giống như các
công nhân ở Philipin và Thái Lan. Vì vậy, Việt Nam nên liên hệ và liên

minh với các tổ chức và mạng lưới lao động láng giềng nhằm củng cố sức

mạnh lẫn nhau. Ví dụ, Thái Lan có nhiều nhóm bảo vệ lao động và NGO
mạnh như Chiến dịch Lao động Thái Lan tham gia vào việc tổ chức lao
động,

ủng hộ và giáo dục lao động,

vệ quyền lợi của cơng nhân),

đào tạo và tích cực ủng hộ việc bảo

Do vai trò của xã hội dân sự toàn cầu đang gia tăng và được thể hiện


qua ý thức đang lên của người tiêu dùng về điều kiện môi trường và lao
động nên cần phải tăng cường mối quan hệ ba bên của Việt Nam, trong
đó quyền lợi của người công nhân được đặt ở trung tâm. Hơn thế nữa,

hoạt động ủng hộ kết hợp với các tổ chức lao động quốc tế khác cần

được trực tiếp tới người tiêu dùng cuối cùng và duy trì việc bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng có đạo đức, nhờ vậy người tiêu dùng quốc tế cần gây
áp lực lên hành vi ứng xử của MNC. Mục đích cuối cùng là tồn bộ cơng
nhân

được

đối xử có nhân

tính và làm việc có tự trọng.

wne

CHÚ THÍCH
Archon

Fung,

Dara

O’Rourke

va Charles Sabel


nim

2001

Fung, và những người khác, tr. 7-8.
Trong các nghiên cứu trước đây, tơi có bàn tới việc các MNCs

đẩy trách nhiệm

(và chi ph0

Quần lý Chất lượng và nhiệm vụ giám sát cho những nhà sắn xuất nội hoặc địa phương. Angie
Ngọc

Trân,

năm

2001

và 2002.

603


VIET NAM HQC - KỶ YÊU HỘI THẢO GUỒC TÈ LẦN THỨ HAI
4. Pharis Harvey, va những người khác, 2003.

5. Thứ nhất, hai cường quốc, là Trung Quốc và Ấn Độ bác bỏ việc bổ sung này do cho rằng điều


khoản xã hội là thủ đoạn bảo hộ mà các nước phát triển sử dụng nhằm bảo vệ việc làm cho

cơng nhân của mình khỏi sự cạnh tranh ở các nước đang phát triển. Quan điểm thứ hai cho.
rằng vấn để thực sự khơng cịn là cạnh tranh bắc-nam nữa (đặc biệt trong những ngành công

nghiệp sử dụng nhiều lao động như da giày hay dệt may), ma 4 canh tranh nam-nam bdi vi
các nước đang phát triển cạnh tranh lẫn nhau khiến lương giảm, nợ lương, rủi ro về an toàn
và sức khỏe nghề nghiệp cao và thường trực. Robert J.S.Ross và Anita Chan, tháng 9-10/2002;
Vedi Hadiz

năm

2003,

tr 3-4.

6. William Douglas, 2001; Fung, và những người khác, tr. 17-18; Havey, va những người khác.
7. Douglas, tr. 10-11

8. Phần ứng đầu tiên đối với sự phản đối kịch liệt của người tiêu dùng tồn cầu là Hiệp hội Lao
động Cơng bằng ŒLA) do chính quyển Clinton thành lập vào
hội Quốc tế (SAI) xây dựng bộ luật SA8000 vào năm

năm 1996. Trách nhiệm Xã

1997; SA8000 được hình thành sau hệ

thống 1SO 9000 đảm bảo việc quản lý chất lượng trong sản xuất. Chiến dịch quần áo sạch


{CCC) là tập hợp liên minh các nhà hoạt động trên toàn châu Âu cấp giấy chứng nhận kiểm

tra, thu quỹ từ những doanh nghiệp thành viên và sau đó chỉ trả trực tiếp cho các tổ chức
giám sát. Năm 1999, Tổng Thư ký Kofi Annan đã phản đối các MNCs áp dụng tiêu chuẩn
nhân quyền, lao động và môi trường và theo dõi chúng trong các cơ sở sản xuất của mình
và đã tạo ra Chương trình nghị sự tồn cầu về COC gồm 9 ngun tắc. Liên hiệp Sinh viên
chống Xí nghiệp bóc lột công nhân tàn tệ-được thành lập bởi phong trào tuyên truyền sinh
viên vào năm 1998 đã phát triển Tổ hợp Quyển Cơng nhân (WRC) vào năm 2000 thơng qua
COC

chính thức nhằm

đảm bảo rằng các trường cao đẳng và đại học hạn chế sử dụng tên

và biểu tượng của mình cho giày dép và đồ trang điểm ngồi xí nghiệp. WRC đứng độc lập
khỏi các MNCs giày dép và đồ trang điểm và nó chỉ nằm dưới sự quản lý của các nhóm sinh
viên, nghiệp đồn và các NGOs. Năm 1998, Hiệp hội sản xuất đồ trang điểm Mỹ thành lập

một tổ chức là WRAP nhằm xây dựng COC của chính mình và để giám sát và chứng nhận

sự chấp thuận của các công ty may mặc (120 nhà máy năm 2000). Sáng kiến Thương mại
Đạo đức ŒTD là liên hiệp các doanh nghiệp, NGƯs, liên đồn nghiệp đồn và cơ quan tài
trợ của chính phủ Anh. Douglas, tr. 5
9. Fung, và những

người

khác; Kaushik

Basu,


2002

10. Fung, và những người khác, tr. 11, 19-29.

11. Mỗi nước có 4 thành viên bổ phiếu độc lập là: hai của chính phủ và một trong số cịn lại từ
phía cơng nhân và ơng chủ. Monica Evans, ILO-Luân Đôn, ngày 28-5-2004.

12. Fung,

và những

người

khác,

tr. 29-38;

Hadiz

trang 4-5; Harvey,

Basu;

Ross & Chan.

13. Fung, etal., trang 36-37; Phil Hay, Các nên kinh tế hoạt động tốt hơn trong thị trường lao động
được phối hợp; Tác động của tồn câu hóa thúc đẩy lợi ích về tiêu chuẩn lao động trên thế
giới, Ngân hàng Thế giới, tháng 2/2003.
14. Junya Yimprasert và Christopher Candland, tháng 12-2000.


15. Trong nhà máy đó, những nhà cung cấp Thái Lan phân phát các nguyên tắc của COC được
in trên những tấm thể ép nhựa xinh xắn với kích cỡ đút vừa túi nhưng những nguyên tắc này
lại chung chung và không rõ ràng đồng thời không để cập đến mức lương hay giờ làm việc

Yimprasert, và những người khác, tr. 9-11, 17.
16. Yimprasert, và những người khác, tr. 21.
17.Như trên, tr.

18.

13.

Nhà máy giày thể thao Piyavat là một bộ phận của Công ty trách nhiệm hữu hạn Cao su
Piyavat chuyên sản xuất giày thể thao cho Reebok và Converse. Là một trong những nhà sản

xuất đầu tiên của Tổ hợp Wongpaitoon, ban quản đốc của nhà máy vẫn rất lo sợ các nhà hoạt

động hiệp hội. Yimprasert, và những người khác, tr. l5

19. Yimprasert, và những người khác, tr. 18-20

20. Ngân hàng Phát triển châu Á, tháng 9-2000.

604


CĨ THỂ LÀM ĐỒNG BỘ ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG THƠNG GUA BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ...
21. Về nguyên tắc, ba biện pháp của NLEF nhằm thúc đẩy việc tuân thủ các tiêu chuẩn lao động


có vẻ hợp lý. Asia Pulse, tháng 7-2003

22.

Paưicia Sto.Tomas,

28-8-2003.

23. Sự tuân thủ của các
lên 83% năm

doanh nghiệp được cho là không cải thiện đáng kể, từ 82% năm 2002

2003.

Asia Pulse tháng 5-2004.

24, Đại hội Cơng đồn Phi-lip-pin (TUCP), Trung tâm Đoàn kết và Dự án chống các Xí nghiệp
bóc

lột cơng

nhân

của

USAID,

2002


25. Có bằng chứng cho thấy việc này đã dẫn tới sự bùng phát của sự lây nhiễm đường tiết niệu
(UTI) và một số vấn đề về thận của nhiều cơng nhân có thể dẫn tới áp lực máu cao và thậm

chí hỏng thận. Có lịch trình ra vào nhà vệ sinh vơ nhân tính (cứ 4 tiếng làm việc liên tục thì
được vào nhà vệ sinh một lần) và số lượng nhà vệ sinh không đủ đáp ứng với một số lượng
nhất định công nhân. Đại hội nghiệp đồn Phi-líp-pin, Đánh giá quyền lợi cơng nhân Phi-líp-

pin trong các xí nghiệp

bóc lột, Kế hoạch Chiến dịch chống các xí nghiệp bóc lột-Câu chuyện

bộ mặt con người,

CĐ lao động đang gây ra UTI tà những tấn đề uê thận,

18/1/2002,

hup://www.tucp.org.ph/index.htm,
26.

TUCP, Mbững gì mà
thang 11-2003.

ngudi phu nit phdi chiu dung trong cdc xí nghiép boc 16t lao d6éng,

11

27. Sách đã dẫn, Những gì mà người pbụ nữ pbải cbịu đựng trong các xí ngbiệp bóc lột lao động,
11 -11-2003.


28. Công ty đồ trang điểm đã cung cấp cho công nhân các loại thuốc gây nghiện trong thời gian
làm việc qua đêm (mặc dù trả rất ít cho tồn bộ công sức mà họ bỏ ra), TUCP,

quyền lợi công nhân tại các xí nghiệp Philipin, ngày 8-2-2003.
29. TUCP,

Đánh giá về quyền

lợi cơng nhân tại các xí nghiệp

bức, ngày 12-3-2003

30.
31.

Yimprasert,

và những

người

khác,

trang

thì của các công ty, trang 33-34.
Các

cuộc


phỏng

vấn

khác

nhau

vào

26-28,

năm

TUCP,

2003

Nhận

Đánh giá về

Philipin, Đây là lao động cưỡng
thức của công nhân UÊ sự tuân

với các đại diện của

Văn

phịng


ILO tại Hà

Nội, Cơng đồn Tổng Cơng ty Dệt May Quốc gia Việt Nam , Tổng Liên đoàn Lao động Việt

Nam, Vụ hợp tác Quốc tế (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) và Trung tâm Xúc tiến
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (VCCD.
32.

TMinh

"18 vụ đình cơng đồi hỏi quyển

lợi người lao động",

Báo

Người l4o động, ngày

14.2004.

33. Nigel Twose và những người khác, 2002. Theo một số nghiên cứu, các luật này thậm chí mạnh
hơn cả của Trung Quốc, Ross & Chan và Irene Norlund.
34.

Hay, Các nền kinh tế hoạt động tốt hơn trong thị trường lao động có phối hợp, 2003; Twose,
và nhứng

người


khác,

35. Diễm Anh, “SA8000:
27/5/2004,

4/4/2004.

36. Twose,

"SAI đã

tr. 3, 5

Các tiêu chuẩn nghĩa vụ xã hội trong các tập đoàn”, Báo /2o động, ngày

được

chấp

thuận

hoạt động

tại Việt Nam",

Báo

Agười ao động,

ngày


và những người khác, tr. 4.

37. Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội (MOLISA), phỏng vấn tại Hà Nội, tháng 10/2003.
38.

Angie

Ngọc

Trân,

2001

và 2002.

39.

Fung, và những người khác, tr.13-14

40. htttp://thailabour.org/index.html.

Mét vai trong số các tổ chức này được hình thành thơng qua

liên minh các hiệp hội trên cơ sở địa lý hơn

là ngành

cơng nghiệp.


Những

nhóm

hiệp hội

này hợp tác với nhau để ủng hộ lẫn nhau trong đấu tranh. Đồng thời, có10 liên đồn lao động

được tổ chức theo ngành cơng nghiệp (trong đó có liên đồn cơng nhân da, dệt, may) và 9
Đại hội Lao động ở Thái Lan

605


VIET NAM HOC - KỶ YÊU HỘI THẢO QUỐC TỀ LẦN THỨ HAI

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Basu Kaushik,

“Hướng tới tiêu chuẩn lao động quốc tế”, Tin nhanh trên mạng của

Ấn Độ, năm 2002.

2. Diem Anh

“SA8000: Tiêu chuẩn Trách nhiệm Xã hội trong các Tổng công ty”, Báo

Lao động, ngày 27-5-2004.


3. Douglas, William, ÐaÐ sách nbững
WW.neweccon.org, ngày 2-1-2001.
4, -Evan,

Monica,

ILO-Ludn dén,

ngày

người có tên tuổi trong Bộ Qui tắc ứng xử,

28-5-2004.

5. Fung, Archon, Dara O’Rourke va Charles Sabel, Chting ta cé thé xda bé nbitng xi
nghiép khai thdc cong nhdn tan té? trang 7-8, Boston: Beacon Press, 2001

6. Hadiz, Vedi, “Tồn cầu hóa và cuộc đấu tranh vì quyền lợi của cơng nhân: Quan
điểm của In-đơ-nê-xi-a bình luận về phát triển các cơ chế hiệu quả vì thực thi
quyền lợi lao động trong nền kinh tế toàn cầu”, Quỹ Quyền lợi lao động quốc tế,
Cơng nhân trong nền kính tế tồn cầu, Trung tâm
Murdoch, Ôxtrâylia, 2003.

nghiên cứu Châu Á, Đại học

7. Harvey, Pharis etal, “Phát triển hệ thống hiệu quả để thực thi quyền lợi lao động
trong nền kinh tế toàn cầu", Quỹ Quyền lợi lao động quốc tế, Ngân bang Thé giới,
tháng 2-2003.

8. Norlund, Irene “Dân chủ và Cơng đồn ở Việt Nam: Cưỡi Honda gài số thấp”, Tập

san Nghiên cứu Cbâu Á Copenhagen, tháng 11-1996,
9. Ross, Robert J.S và Anita Chan “Từ Bắc-Nam đến Nam-Nam: Gương mặt thật của
cạnh tranh toàn câu", Ban Quan hệ quốc tế, Ngoại giao, tháng 9-10/2002.
10. T.Minh “18 vụ đình cơng địi hỏi quyền lợi người lao động”, báo Mgười Lao động,
ngày 1-4-2004.
11.

-Tomas, Patricia Sto., “Điều kiện lao động được cải thiện dưới khuôn khổ tuân thủ
lao

động",

12. Tran,

Angie

Vụ

Lao

động



/>Ngoc,

“Hy

vọng giới của công


Việc
nhân

làm,
dệt Việt Nam:

ngày

28-8-2003,

Tái hội nhập

của

Việt Nam vào nền kinh tế thế giới”, trong Giới, Hộ gia đình, Nhà nước: Đổi mới ở
Việt Nam, Jayne Werner và Daniele Belanger (tái bản), bộ xuất bản Chương trình

Đơng

Nam

Á, NXB

Đại

học Cornell,

2002.

13. Tran, Angie Ngoc “Ký hợp đồng phụ toàn cầu và Cơng nhân nữ: Triển vọng so

ánh” trong Tồn cầu bóa uà Cbủ nghĩa xã bội Thế giới thứ ba: Cu ba uà Việt Nam,
Tuần báo Claes Brundenius và John, Houndmills, Basingstoke, Hampshire: PALGRAVE,
14. Twose,

2001.
Nigel, Amy

Luinstra và Ziba “Trách nhiệm

Xã hội chung ở Việt Nam:

Ngành

công nghiệp giày thể thao và các vấn để lao động”, Báo cáo Ngân bàng Tbế giới, 2002

15. Yimprasert, Junya và Christopher Candland, Độ quy tắc ứng xử của tập đồn có thổ
cải thiện tiêu chuẩn lao động? Minh chứng từ Ngành công nghiệp đồ trang điểm à
giày dép Tbái Lan, Tài trợ bởi Ủy ban Công nghiệp Cơ đốc Hồng Công và Trung
tâm quản lý nguồn lực châu Á, tháng 12-2003.

606


CÓ THỂ LÀM ĐỒNG BỘ ĐIỀU KIEN LAO DONG THONG QUA BO GUY TAC UNG XU...

CAC TAC GIA, BAO CAO VA BAO CHi DOAN THE
16. Asia Pulse “BO Philipin tim cách mở rộng các tiêu chuẩn lao động”, tháng 7-2003.
17. Asia Pulse "Các doanh nghiệp ở Philipin, Khu Clark áp dụng tiêu chuẩn lao động”,
tháng 5-2004.


18. Ngân hàng Phát triển châu Á, tháng 9-2002.
19.

Đại hội Cơng đồn Philipin (TUCP), Trung tâm đồn kết, Dự án chống các xí

nghiệp bóc lột công nhân USAID,

Nbận thức của công nbân tê uiệc tuân thủ các

tiêu chuẩn lao động cbính tà các bộ quy tắc tứng xử trong các bbu binh tế uà bbu
công nghiép chon loc & Philipin,

20. Đại hội Cơng đồn

2002.

Philipin (TUCP),

nghiệp bóc lột lao động của Philipin,

Đánh giá quyền

lợi của cơng nhân ở các xí

Cơng y sản xuất đơ trang điểm cấp thuốc gây

nghién cho công nhân kbi lam viéc qua dém (mac dit kbéng trả lương thich đáng

tới công sức của bọ), ngày 8-2-2003,


/>
21. Đại hội Cơng đồn Philipin (TUCP), Đánh giá quyền lợi của cơng nhân ở các xí
nghiệp bóc lột lao động của Philipin, Dự án Chiến dịch chống các xí nghiệp bóc lột
cơng nhân-Những câu chuyện bê ngồi có nhân tính, Các chỉ lao động đang gây ra

UTI tà các tấn đề 0ê thận ngày 18-1-2002,

/>
22. Đại hội Cơng đồn Philipin (TUCP), Đánh giá quyền lợi của cơng nhân ở các xí
nghiệp bóc lột lao động của Philipin, Đây chính là lao động cưỡng bức! ngầy 12-32003,

http//www.tucp.org.ph/index.html.

23. Đại hội Cơng đồn Philipin CTUCP), Đánh giá quyền lợi của cơng nhân ở các xí nghiệp
bóc lột lao động của Philipin, M»ững gì mà người pbụ nữ phải chịu đựng trong các xí
nghiép bóc lột lao động, ngày 11-11-2003, http:

607



×