Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học vận DỤNG QUAN điểm TOÀN DIỆN TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.07 KB, 19 trang )

3

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc, phương pháp luận
khoa học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của phép biện chứng
duy vật. Cơ sở lý luận của nó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Quan điểm
toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta
phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu
tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng đó với sự vật,
hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều và phải nắm được đâu
là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh
sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản
chất thành cái bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc
bản chất của sự vật, hiện tượng. Việc nhận thức đúng đắn, bảo vệ và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt là quan điểm toàn diện trong phép biện
chứng duy vật đã và đang trở thành một nhiệm vụ chính trị cấp bách. Trước năm
1986, do nhận thức và vận dụng chưa đúng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất bại to lớn như sự
sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
còn ở Việt Nam đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về kinh tế xã hội.
Trước tình hình đó, với thái độ là “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi
chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong đó có Phép biện chứng duy vật mà đặc biệt là quan điểm toàn diện
để làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và thực hiện thắng lợi


công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,công bằng,
văn minh.


4

NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT – CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng và đặc điểm của
phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát
triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển của
khoa học và thực tiễn. Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương
pháp biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với
ba hình thức lịch sử của nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm
và phép biện chứng duy vật.
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện
chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện
tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.
Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa
phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức
này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người
hoàn thiện là Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy
nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội
dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song theo họ biện chứng ở
đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép
ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ

điển Đức, khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát, nghiên cứu
quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng trên quan điểm duy vật, thì
tất yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật
được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa


5

những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện
chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát
triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là các nguyên lý có ý nghĩa khái quát
nhất trong phép biện chứng duy vật. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng
ta rút ra được quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể, từ nguyên lý về
sự phát triển chúng ta rút ra được quan điểm phát triển. Những quan điểm này có
tính chất là phương pháp luận khoa học trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Còn các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là
sự cụ thể hóa các nguyên lý trên. Cụ thể: Ba quy luật bao gồm: quy luật chuyển
hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; quy
luật phủ định của phủ định; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Sáu cặp phạm trù bao gồm: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất; nguyên nhân và
kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng;
khả năng và hiện thực. Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ
ra cách thức của sự phát triển; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự phát triển thì quy luật quy
luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển đó, và cái mới

sẽ ra đời thay thế cái cũ, tiến bộ hơn cái cũ. Các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật định hướng việc nghiên cứu những quy luật đặc thù của khoa học
chuyên ngành và đến lượt mình, các quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới
chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù. Mối
quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản với các quy luật đặc thù tạo nên cơ sở
khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học
chuyên ngành. Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, các phạm trù, quy
luật cơ bản đó là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến – cơ sở lý luận của quan điểm
toàn diện trong phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, những quá
trình khác nhau. Vậy, giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn


6

nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ
qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó. Những người theo quan điểm siêu
hình cho rằng, các sự vật và hiện tượng tồn tại tách rời nhau, cái này bên cạnh cái
kia; giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có
chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Trong số
những người theo quan điểm siêu hình cũng có người thừa nhận sự liên hệ và tính
đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Phương pháp này được phổ biến rộng rãi trước hết trong khoa học tự nhiên và sau
đó ảnh hưởng trong triết học Tây Âu suốt thế kỷ XVIIXVIII. Quan điểm trên đây
của phương pháp siêu hình đã dẫn đến những sai lầm về thế giới quan triết học,
dựng lên những ranh giới giả tạo giữa các sự vật và các hiện tượng. Vì vậy,
phương pháp siêu hình không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất,
cái mang tính quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện

tượng. Còn chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận rằng các sự vật, hiện tượng và các
quá trình khác nhau của thế giới tồn tại trong sự liên hệ qua lại. Nhưng theo
những nhà duy tâm thì cơ sở của sự liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện
tượng là cảm giác, ý thức, ý niệm, ý niệm tuyệt đối hay là các lực lượng siêu
nhiên. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở kế thừa các giá trị về
tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của nhân loại và tổng kết những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX, đã khái quát nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Theo quan điểm biện
chứng, thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá
trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt, vừa có sự liên hệ, tác động qua lại, thâm
nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Liên hệ theo quan điểm biện chứng là sự phụ
thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau và tác động qua lại với nhau. Trong phép
biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của
mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thí dụ: Mối liên hệ giữa điện tích dương và
điện tích âm trong một nguyên tử; mối liên hệ giữa các nguyên tử, giữa các phân
tử, giữa các vật thể; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu cơ; giữa sinh vật với môi
trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với tập
thể, cộng đồng; giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ phận của đời
sống xã hội; giữa tư duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận thức; giữa
các hình thái ý thức xã hội… Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các


7

mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Trong mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối liên hệ giữa các
mặt đối lập, mối liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và
cái riêng, bản chất và hiện tượng… Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa
tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến trong

phạm vi nhất định hoặc mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó mối liên hệ đặc thù là
sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Phép
biện chứng nói chung đều thừa nhận mối liên hệ phổ biến của những sự vật, hiện
tượng, quá trình cấu thành thế giới. Tuy vậy, khi nói về cơ sở của sự liên hệ phổ
biến, phép biện chứng duy tâm coi cơ sở của sự liên hệ là ở cảm giác (duy tâm
chủ quan), hay ở ý niệm tuyệt đối (duy tâm khách quan). Đó là những cách giải
thích một cách chủ quan, thần bí, không khoa học. Đứng trên quan điểm duy vật
khoa học, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, cơ sở của sự liên hệ là ở tính
thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng
chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Ngay cả tư tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của
chúng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
b. Tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan của các mối liên hệ Các sự vật, hiện tượng trong thế giới có
đa dạng, phong phú như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những hình thức
tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất. Theo quan điểm biện chứng duy vật, các
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Sự quy
định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc
trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con
người; con người chỉ có khả năng nhận thức được những mối liên hệ đó.
Tính phổ biến của các mối liên hệ Phép biện chứng duy vật khẳng định:
Không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô
lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn
tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Không
có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm
các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một



8

tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác,
tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là phổ
biến, nó không chỉ diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của sự vật, hiện
tượng. Ví dụ: Trong giới tự nhiên, giữa tự nhiên vô cơ và tự nhiên hữu cơ, giữa
động vật và thực vật có quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa các cá
nhân, các tập đoàn người, các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong tư duy quan
hệ giữa giai đoạn nhận thức cảm tính với giai đoạn nhận thức lý tính Ph.Ăngghen
chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ
thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau Việc các vật thể ấy đều có liên
hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác
động qua lại ấy chính là sự vận động.
Tính đa dạng của các mối liên hệ, quan điểm duy vật biện chứng không
chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ, mà còn chỉ ra tính
đa dạng của nó. Có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên ngoài. Có mối liên
hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên.
Có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối
liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ
bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực nào đó của thế giới. Có mối liên hệ
về thời gian trong quá trình lịch sử của sự vật, hiện tượng… Tính đa dạng của sự
liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính sự vật
và hiện tượng quy định. Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với
sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Chẳng hạn: sự vật, hiện tượng
nào cũng có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, nhưng vai trò của
chúng đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là khác nhau. Mối
liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối liên hệ bên ngoài
không có ý nghĩa quyết định, vả lại nó phải thông qua mối liên hệ bên trong mà
phát huy tác dụng đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dĩ nhiên

là sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa như vậy có thể diễn ra, hoặc do
thay đổi phạm vi bao quát qua xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của
chính sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn là cái ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ
này, nhưng lại là tất nhiên, khi xem xét trong mối quan hệ khác; vả lại trong quá
trình vận động, phát triển mối liên hệ ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành tất


9

nhiên và ngược lại. Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng
trên thế giới không những là vô cùng, vô tận mà còn rất phong phú, đa dạng và
phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ
được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy mà quá trình nhận thức và phân
loại sát đúng các mối liên hệ trong xã hội trở nên khó khăn hơn nhiều so với giới
tự nhiên. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những cơ sở, nền tảng
của phép biện chứng duy vật. Đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận của quan điểm
toàn diện một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
3. Nội dung và yêu cầu của quan điểm toàn diện trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn
Quan điểm toàn diện chính là ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ
nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Quan điểm này có nội dung là: phải nhìn thấy sự
vật như là một chỉnh thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong
bản thân sự vật hiện tượng và giữa sự vật hiện tượng đó với những sự vật hiện
tượng khác và với môi trường xung quanh; phải biết phân biệt các mối liên hệ,
phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, cơ bản nhất để từ đó hiểu rõ cái
bên trong, chủ yếu, tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện
có ý nghĩa hết sức to lớn trong cuộc sống của chúng ta, cả trong lĩnh vực nhận

thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc,
phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư cách là một nguyên tắc phương,
pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện thể
hiện ở một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, mối
liên hệ vốn có của nó. Sự vật, hiện tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng được
hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng với các sự vật,
hiện tượng khác. Vì vậy để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng không chỉ xem
xét bản thân nó, mà còn phải xem xét mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện
tượng khác. Khẳng định yêu cầu này, V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự
vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”, phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn


10

vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Chẳng hạn, kinh tế và chính trị tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Xem xét vấn đề chính trị mà không tính
đến các vấn đề kinh tế, hoặc ngược lại sẽ dẫn tới những sai lầm cực đoan. Dĩ
nhiên, như nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra sự vật, hiện tượng tồn tại
trong vô vàn mối liên hệ, do đó trong mỗi điều kiện lịch sử nhất định con người
không thể nhận thức được tất cả các mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự
vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Ý thức được điều đó,
chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật, coi
những tri thức đó là chân lý bất biến, tuyệt đối, không thể sữa đổi, bổ sung và
phát triển. Bởi vậy, trong cuộc sống đòi hỏi sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi
mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và cứng nhắc.
Hai là, Xem xét toàn diện tất cả các mối liên hệ của sự vật phải đánh giá
đúng vị trí, vai trò của chúng, tránh xem xét một cách dàn trải, bình quân. Sự vật

tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của các mối liên hệ không
“ngang bằng” nhau. Vì vậy, có xác định được vị trí, vai trò của các mối liên hệ
mới nhận thức được bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động,
phát triển của nó. Theo V.I.Lênin, phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý tất
cả các mặt của những mối liên quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẫu ở chổ
này, một mẫu ở chổ kia. Như vậy xem xét toàn diện nhưng không “bình quân,
dàn đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố,
từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất,
bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng. Chẳng
hạn, xã hội học trước khi triết học Mác xuất hiện, mới chỉ dừng lại ở sự mô tả các
mối liên hệ đa dạng, phong phú mà chưa xác định đươc vị trí, vai trò của chúng,
hoặc đánh giá sai vị trí, vai trò của chúng, nên chưa thể coi là một khoa học.
Trong cuộc sống thực tiễn chúng ta phải tìm nguyên nhân một hiện tượng, một vụ
việc nào đó, nếu chỉ dừng lại ở việc liệt kê một loạt nguyên nhân, mà chưa phân
loại được, chưa xác định nguyên nhân nào là cơ bản, chủ yếu, bên trong, bên
ngoài, khách quan, chủ quan … thì nhận thức còn rất hạn chế và thực tiễn sẽ gặp
nhiều khó khăn.
Ba là, Phải nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể của nó, trong tính nhiều
mặt và sự tác động qua lại quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau của chúng. Sự vật
trong thực tế tồn tại với tư cách như một chỉnh thể. Nó không phải là “tổng số


11

đơn giản” các mối liên hệ (mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, mối
liên hệ giữa các mặt của sự vật, các yếu tố cấu thành sự vật), mà là tổng số các
mối liên hệ hữu cơ, có sự tác động qua lại quy định, chi phối lẫn nhau. Có nhận
thức sự vật trong tính chỉnh thể thì mới nhận thức được sự vật, nhận thức được
bản chất của sự vật. Tuy nhiên, theo V.I.Lênin, chúng ta không thể làm được điều

đó hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng
không phạm sai lầm và cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó hoàn
toàn đầy đủ bởi trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng phải trải
qua nhiều giai đoạn tồn tại, phát triển khác nhau, trong mỗi giai đoạn đó không
phải lúc nào sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ tất cả các mối liên hệ bên trong và
bên ngoài của nó. Hơn nữa, tất cả những mối liên hệ ấy chỉ được phát hiện ra
trong những điều kiện nhất định. Và bản thân con người, những chủ thể nhận
thức với những phẩm chất và năng lực của mình luôn luôn bị chế ước bởi những
điều kiện xã hội lịch sử, do đó không thể bao quát được hết những mối liên hệ
bên trong và bên ngoài các sự vật, hiện tượng. Từ những yêu cầu trên cho thấy,
lôgíc của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự
vật, hiện tượng sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban
đầu về cái toàn thể đến nhận thức mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật,
hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liện hệ của sự vật, hiện tượng
và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản
chất của sự vật, hiện tượng. Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút
ra cách nhìn đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo V.I.Lênin vận dụng quan
điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ
giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”. Theo đó, muốn cải tạo
sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của
sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu
trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết. Quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Ảnh
hưởng lối tư duy của người sản xuất nhỏ, chúng ta hay mắc bệnh phiến diện trong
nhận thức và thực tiễn: chỉ nhận thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy
mặt khác, mối liên hệ khác, làm việc nọ, bỏ việc kia; nhận thức sự vật trong trạng
thái cô lập, giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ. Một biểu hiện của
bệnh phiến diện nữa đó là việc xem xét và giải quyết công việc một cách dàn đều,



12

bình quân, không thấy được vị trí, vai trò khác nhau của các mối liên hệ, không
xác định được trọng tâm, trọng điểm trong hoạt động. Quan điểm toàn diện cũng
hoàn toàn xa lại với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ
nghĩa chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những mối liên hệ
với nhau: coi những mối liên hệ là “ngang bằng” nhau, hoặc kết hợp những cái
mà về mặt khách quan không thể kết hợp được với nhau. Đi đôi với chủ nghĩa
chiết trung là thuật ngụy biện. Thuật ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách
có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ, coi cái không cơ bản là cái cơ bản,
cái không bản chất là cái bản chất. Chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện đều
là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét
các sự vật, hiện tượng. Trong thực tế lối tư duy chiết trung thường biểu hiện ở
những người có nhận thức mơ hồ về sự vật, những người thiếu chính kiến hoặc
những kẻ cơ hội chủ nghĩa. Còn thuật ngụy biện là thủ thuật của những người có
chủ đích, nhằm biện hộ cho những quan điểm, hành vi sai lầm, hoặc để xuyên tạc
một sự vật nào đó. Chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện có vẻ như toàn diện,
nhưng thực chất là đối lập với quan điểm toàn diện. Nói về sự khác nhau này,
V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa
chiết trung và ngụy biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách khách quan, nghĩa là
phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó,
thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của
thế giới”. Như vậy, trong mọi hoạt động cần quán triệt quan điểm toàn diện. Việc
nghiên cứu trong các nghành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại
phải trong mối quan hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện
tượng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh
vực xã hội, nguyên tắc toàn diện cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta bây giờ
không thể hiểu được bản chất một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những
mối liên hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác.

II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
1. Đặc điểm quá trình đổi mới ở nước ta
Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, có nhiều nước đã tiến hành
cải cách, cải tổ hay đổi mới cho phù hợp với những biến đổi to lớn trên thế giới.
Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã tiến hành đổi mới 30 năm nay.


13

Vài nét về khái niệm đổi mới ở Việt Nam Từ nữa cuối những năm 1980 đến nay,
khái niệm đổi mới được Đảng và Nhà nước ta sử dụng rất phổ biến trong các văn
kiện của mình, từ đó nó cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều công trình khoa
học, trở thành câu nói cửa miệng của người Việt Nam. Đặc biệt là một số sách
báo trên thế giới khi viết về Việt Nam đã để nguyên từ “đổi mới” mà không cần
dịch ra tiếng nước mình. Đổi mới tuy không phải là cách mạng xã hội, nhưng là
quá trình mang tính cách mạng, có ý nghĩa cách mạng nhằm tạo ra những bước
nhảy vọt trong sự phát triển đất nước và xây dựng mô hình phát triển mới. Với ý
nghĩa đó, khái niệm đổi mới không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm cải cách.
Tuy cải cách cũng tạo ra sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội,
nhưng chỉ tạo nên những biến đổi riêng lẽ, bộ phận. Còn đổi mới bao hàm cả nội
dung cải cách, thí dụ cải cách hành chính một nội dung của quá trình đổi mới ở
nước ta, nhưng đổi mới không chỉ là sự thay đổi riêng lẽ, bộ phận như cải cách,
mà là sự thay đổi toàn diện dẫn đến thay đổi mô hình phát triển. Tính toàn diện
của đổi mới thể hiện ở chổ từ đổi mới kinh tế là chủ yếu, phải đi đến đổi mới
chính trị, văn hóa, xã hội; đổi mới từ đường lối đến chính sách, từ chính sách đối
nội đến chính sách đối ngoại; từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới
hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đổi mới phải có sự gắn kết giữa nhiệm vụ
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt
với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự

phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định /ảo đảm cho
sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Trong quá trình đổi mới, Việt
Nam có tham khảo những bài học kinh nghiệm của cải tổ ở Liên Xô, cải cách ở
Đông Âu, Trung Quốc và các nước khác, nhưng không rập khuôn, áp dụng máy
móc, mà có những chủ trương và cách làm khác. Đặc điểm của quá trình đổi mới
ở Việt Nam cũng là ở đó. Tính tất yếu phải đổi mới ở Việt Nam.
Tính tất yếu của đổi mới ở Việt Nam có một số nét đặc thù sau đây:
Thứ nhất, do áp dụng một cách máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô
Viết vào Việt Nam mà nội dung của nó là không thừa nhận sản xuất hàng hóa và
cơ chế thị trường, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội
chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, coi thị trường là một
công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành
phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa bỏ sở
hữu tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công


14

nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn
ngoại viện của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Thi hành chế độ phân phối
theo lao động trên danh nghĩa nhưng trên thực tế là bình quân, cào bằng, ít quan
tâm đến lợi ích cá nhân. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp tràn lan tạo ra tâm lý
thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng động và tích cực
của người lao động. Mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nói trên
cần được thay thế bằng một mô hình khác. Đó là một trong những yêu cầu cấp
bách phải tiến hành đổi mới ở Việt Nam. Gắn liền với sai lầm áp dụng một cách
máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết vào Việt Nam là những khuyết điểm,
sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về
chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện,
đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội

chạy theo nguyện vọng chủ quan, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến
sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác cán bộ.
Thứ hai, xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nền
kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, lực lượng sản xuất ở trình độ rất thấp, lại
trải qua hàng chục năm chiến tranh mà hậu quả của nó còn để lại rất nặng nề.
Thêm vào đó là thiên tai liên tiếp xảy ra trong nhiều năm làm cho Việt Nam vốn
đã nghèo nàn và lạc hậu lại chồng chất thêm những khó khăn to lớn: GDP tính
theo bình quân đầu người vào diện thấp nhất thế giới; cơ sở vật chất – kỹ thuật
lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề; tuyệt đại bộ phận lao động là thủ công,
năng suất lao động rất thấp; đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đứng trước
tình hình đó, con người Việt Nam phải tìm cách để thoát khỏi thực tế khắc nghiệt
ấy, tự cứu lấy mình.
Thứ ba, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, điều kiện
quốc tế của sự phát triển đất nước có nhiều thay đổi. Nếu trước đây Việt Nam đã
nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa anh em đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, thì bây giờ viện trợ hào hiệp thời kháng chiến không còn. Hơn
nữa, Mỹ và một số nước phương Tây tiến hành bao vây, cấm vận Việt Nam hàng
thập kỷ, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Thêm vào đó, Việt Nam cùng
một lúc phải đối phó với hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và ở biên giới
phía Tây – Nam, đất nước thực chất chưa có hòa bình, buộc phải đầu tư quá lớn


15

cho quốc phòng, ảnh hưởng nhiều đến xây dựng kinh tế. Trong thời kỳ “Vấn đề
Campuchia” chưa được giải quyết, quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực và đa số các nước khác trở nên bất bình thường, thậm chí có lúc Việt
Nam gần như bị cô lập trên diễn đàn quốc tế. Trong hoàn cảnh như vậy, không có

con đường nào khác là phải thay đổi cách nghĩ, cách làm; thay đổi đường lối, chủ
trương; thay đổi chính sách đối nội và đối ngoại để thoát khỏi tình trạng khó khăn đó.
Thứ tư, các cuộc cải cách, cải tổ từ phía các nước cũng ảnh hưởng đến
quá trình đổi mới ở Việt Nam. Trước khi tiến hành cải cách, cải tổ, tất cả các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, do đó
phải tiến hành cải cách, cải tổ nhằm thoát khỏi tình trạng đó. Hội nghị toàn thể
của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (tháng 4 năm 1985) đã đề xướng công
cuộc cải tổ và được Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua. Trong
quá trình cải tổ, cùng với sai lầm về mô hình, Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà
nước Xô Viết đã mắc nhiều sai lầm về chủ trương và cách làm nên cải tổ không
thành công và dẫn đến Liên Xô tan rã và chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó bị sụp đổ.
Vào những thập niên cuối thế kỷ trước, nhiều cuộc cải cách ở các nước Đông Á,
đặc biệt ở Trung Quốc đã thành công, cũng có tác động to lớn đến công cuộc đổi
mới ở nước ta.
2. Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong phép biện chứng duy vật
vào quá trình đổi mới ở nước ta.
a. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở Việt Nam việc vận dụng quan điểm toàn diện trong phép biện chứng
duy vật vào công cuộc đổi mới ở nước ta được thực hiện một cách triệt để và hiệu
quả. Việc đổi mới đã được Đảng ta xác định trước hết là đổi mới về tư duy kinh
tế với quan điểm đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, lấy đổi mới kinh tế là
trọng tâm, đổi mới chính trị phải thận trọng từng bước. Kinh tế đất nước phát
triển, đưa nước ta thoát nghèo và vững chắc tiến lên con đường xã hội chủ
nghĩa.Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng xác định phải đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế.
Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình kinh
tế tổng quát của thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Từng bước hoàn



16

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập
môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển
kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,
hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có
tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới . Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng
miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều
kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền
kinh tế độ lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong
gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây
ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên
nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tếxã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai
đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD
gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân
đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/
người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê
giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn,
tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức
khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm

2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA
cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước
đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ
tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu
vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông


17

nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng
bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%), đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện.
b. Đổi mới về hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, nâng cao vai trò quản
lý của Nhà nước, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, chúng ta đã tiến hành đổi mới
chính trị mà thực chất là đổi mới hệ thống chính trị. “Thực chất của việc đổi mới
và kiện toàn hệ thống chính trị” là “thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa”. “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, thể
hiện quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Cần phải đổi mới hệ
thống chính trị để nhân dân thực sự thấy mình là “người có quyền” và các quyền
chính đáng, hợp pháp luôn được bảo vệ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây
dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và
phong cách công tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và
chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối,

bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo
điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan.
Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, khắc phực suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống âm mưu và hoạt
động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân.


18

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng
tổ chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực
hiện cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
Chú trọng kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên,
tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh
giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và
chính sách cán bộ). Đổi mới và tăng cường công tác dân vận; nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội.
Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; khẳng định nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công; phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã ban
hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật, luật
và pháp lệnh theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề
cao vai trò tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó
tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ
quan tư pháp và chính quyền địa phương các cấp.
Ở nước ta việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, là động lực của
sự ngiệp đổi mới. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa
bằng pháp luật,. được pháp luật bảo đảm.
c. Đổi mới trên lĩnh vực văn hoá- xã hội và con người.
Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính
sách và từng bước phát triển. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài
hòa với phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát


19

triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế
giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống
văn hóa, con người Việt Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ,
coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ
các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học
và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở. Phát triể mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp,

nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình
phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất
tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Nâng
cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên
cứu ứng dụng. Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ từng
bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính
sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời sống vật chất
của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh
và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới, giảm
tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu xây dựng
chương trình việc làm công.
d. Đổi mới đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Về đổi mới đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh: Những năm qua,
cùng với những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi mới đất nước, lĩnh vực
quốc phòng, an ninh nước ta luôn được Ðảng, Nhà nước, nhân dân chăm lo xây
dựng, củng cố. Vì vậy, tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận
an ninh nhân dân, công tác giáo dục quốc phòng ngày càng được tăng cường,
củng cố. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được xây dựng theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, thật sự xứng đáng là


20

lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Ðối với nước ta, quốc phòng là công cuộc giữ nước của quốc gia độc lập
có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là hoạt động của cả nước, lấy lực lượng vũ
trang làm nòng cốt nhằm giữ vững hòa bình, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi các
hoạt động chống phá của kẻ thù, đồng thời sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược dưới mọi hình thức, quy mô. Vì thế, xây dựng và đấu tranh quốc phòng luôn
thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp-nhân dân-dân tộc; mang đậm
dấu ấn của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới; phong
phú về nội dung, linh hoạt, sáng tạo về hình thức và phương pháp; tập trung,
thống nhất về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Quốc phòng toàn dânvà an ninh nhân dân là quan điểm cơ bản của Ðảng,
Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, xây dựng nền quốc phòng của đất
nước. Xác định đúng vị trí, vai trò quốc phòng phản ánh tầm nhìn chiến lược của
Ðảng về sự cần thiết phải tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, đồng thời chỉ
rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế...
Về đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đã phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa binh, độc lập, dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
KẾT LUẬN
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một
cách có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những
nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, trong đó có quan điểm toàn diện
là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định hướng tư tưởng và mang lại
cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo
thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.



21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 20
2. Các Văn kiện của Đảng: VI, VII, VIII, IX, X, XI
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin lý luận và vận dụng (Dùng cho đào tạo
chức danh cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch), Nxb TCCT, H.2008.
4. Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị, HN. 2006
5. Hoàng Chí Bảo, Bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, Nxb.CTQG, H.1998.
6. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác - Lênin
(tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. CTQG, H.2004.
7. Nguyễn Mạnh Hưởng, Chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng sự nghiệp đổi
mới của chúng ta, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4/2011.
8. Lê Hữu Nghĩa, Triết học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới xã hội,
Tạp chí Triết học, số 3/2001.
9. Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 29



×