ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
~~~~~~~***~~~~~~~
ĐỀ TÀI
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VÀ BẢN THÂN EM CĨ THỂ LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ
ĐẢNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI MÀ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA
ĐANG XÂY DỰNG
Giảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Thị Hoàn
Sinh viên thực hiện
: Vũ Thu Hằng
Mã sinh viên
: 19051076
Đơn vị
: QH-2019E KTQT CLC6
Học phần
: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã học phần
: 203_HIS1001 4
Hà Nội, tháng 8 năm 2021
MỤC LỤC
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1
PHẦN 2 VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành lập Đảng
cộng sản.
2
1.1 Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
2
1.2 Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
3
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tích
cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng vơ sản ở Việt
Nam.
4
2.1 Về tư tưởng
4
2.2 Về chính trị
6
2.3 Về tổ chức
7
3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
8
3.1 Hội nghị thành lập Đảng
8
3.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
9
PHẦN 3 LIÊN HỆ BẢN THÂN CĨ THỂ LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ ĐẢNG VÀ
BẢO VỆ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI MÀ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA ĐANG XÂY
DỰNG
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
“Tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền với sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam. Người đã có cơng lao to lớn trong việc sáng lập
và rèn luyện Đảng ta”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc, vị anh hùng dân tộc, người đã bôn ba cả đời khắp năm châu bốn biển để
tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Giữa lúc nước nhà đang
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước địi hỏi phải có một lực lượng lãnh
đạo và có một đường lối cách mạng đúng đắn, một lý luận soi đường. Tất cả đã
được giải quyết khi Đảng ra đời, đó thực sự là một bước ngoặt trọng đại trong
cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước,
thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thốt khỏi bần cùng, lạc hậu.
Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết,
thống nhất của toàn dân tộc có chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc
cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ
bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong
suốt 75 năm qua.
Quá trình vận động sáng lập Đảng là một quá trình đấu tranh và chuẩn bị
lâu dài, toàn diện của Nguyễn Ái Quốc và những người cách mạng Việt Nam.
Trong đó, người có vai trị hàng đầu, có tác động lớn nhất đến việc sáng lập
Đảng chính là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chính vì thế em đã lựa chọn đề tài “Phân
tích và chứng minh vai trò của Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam và liên hệ bản thân em có thể làm gì để bảo vệ Đảng và bảo vệ
chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng” để thấy rõ được sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh, người đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta.
1
PHẦN 2 VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam:
con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành lập Đảng cộng
sản.
1.1 Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp
ước Harmand (1883), Patenotre (1884), đầu hàng thực dân Pháp, song phong
trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra. Phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu
nhất cho thời kỳ này là phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa
Yên Thế (Bắc Giang), cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy,…Tuy nhiên các cuộc khởi
nghĩa này đều bị thực dân Pháp dập tắt trong biển máu. Thất bại của các phong
trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ
điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân
tộc Việt Nam.
Sang đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác
động của trào lưu dân chủ tư sản tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội
Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư
sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12/1927 -2/1930) đã tiếp tục
diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc Kỳ. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội
Châu, ông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để
đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mơ hình qn chủ
lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy Tân (1904), tổ chức phong trào Đơng Du
(1906-1908). Rồi sau đó về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội
(1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo đơng
chống Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công. Đại biểu xu
2
hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã
hội, động viên lịng yêu nước trong nhân dân, đả kích bọn phong kiến vua quan
thối nát, thực hiện chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối
đấu tranh vũ trang,…Hoạt động cách mạng của Phan Chu Trinh đã góp phần
thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên về phương pháp,
“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương,... điều đó là
sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủi lịng thương.”
Tất cả những phong trào trên đều thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và
lòng yêu nước của nhân dân ta nhưng cuối cùng đều thất bại. Sự thất bại đó biểu
lộ tính chất non yếu của cách mạng Việt Nam thời kỳ này. Vấn đề đặt ra lúc này:
cần phải tìm một con đường cứu nước khác với con đường phong kiến và con
đường dân chủ tư sản. Đó là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
1.2 Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Trong lúc hoàn cảnh đất nước đang đứng trước yêu cầu cấp thiết giải phóng
dân tộc, tháng 6-1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước,
giải phóng dân tộc. Gần mười nǎm bơn ba khắp các châu lục (1911-1920),
Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp...
quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân
với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Cuộc cách mạng tháng Mười
Nga thành công đã trực tiếp tác động đến quá trình tìm đường cứu nước của
Người.
Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái
Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “Bản yêu sách 8
điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và địi Chính phủ
Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “Bản yêu sách” đã gây tiếng vang
lớn đối với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp.
3
Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo. Người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường
giải phóng cho nhân dân Việt Nam, về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với
phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa MácLênin.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở
Tua,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương
thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức
giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận
mệnh các thuộc địa. Vì vậy, tơi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn".
Sự kiện này đánh dấu ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người - từ yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vơ sản “. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất là chủ nghĩa
Mác - Lênin, con đường cách mạng Việt Nam khơng có con đường nào khác là
con đường cách mạng vơ sản” Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã
đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với
khát vọng mang lại hịa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thơng điệp mang
giá trị vĩnh hằng, đó là những thơng điệp về hịa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc,
dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường
Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ cho hoạt động cách
mạng Việt Nam.
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tích cực
chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng vơ sản ở Việt Nam.
2.1 Về tư tưởng
4
Thời kỳ ở Pháp (1919-1923): Người xác định kẻ thù chính của nhân dân ta
Từ khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào vơ sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Năm 1921 Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa
khác như: Angiêri, Tuynidi, Marốc ... thành lập "Hội liên hiệp thuộc địa" để
tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922: ra báo “Le
Paria” (Người cùng khổ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ
nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.
Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính của tờ báo.
Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp
được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về
chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác
phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới
những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các
thuộc địa. “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ
sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào những nước thuộc địa”. Nguyễn
Ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân
là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở
các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã
góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc
với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh
chặt chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm
cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Đây là sự
chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có ý nghĩa rất quan trọng.
Vì giống như Lênin đã nói: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách
mệnh vận động”
Thời kỳ ở Liên Xô (1923-1924): Người tham gia hoạt động quốc tế và học
tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga.
5
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân lần thứ nhất (10/1923), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ
V (7/1924). Ở Liên Xơ, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân
tộc và thuộc địa Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế,
viết nhiều bài cho các báo "Sự Thật" - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản
Liên Xơ, tạp chí "Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc,
thông qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo mác xít Bác đã nêu rõ mối
quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trị của giai
cấp nơng dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan
trọng về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam.
2.2 Về chính trị
Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện thông qua việc hình thành các quan điểm
sau đây, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là cuốn “Đường cách mệnh”:
- Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ
thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên thế giới.
- Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới. Cách Mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau,
nhưng không phụ thuộc vào nhau.
- Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị
đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và
lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực
cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo các giai tầng
khác.
- Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng nắm vai trị
lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một
vài người, "công nông là gốc của cách mệnh; cịn học trị nhà bn nhỏ,
6
điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông". Cách mạng "là việc
chung của cả dân chúng chứ khơng phải là việc của một hai người". Vì
vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu
tranh từ thấp đến cao.
Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
truyền bá trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào cơng nhân và
phong trào u nước Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau này, các quan
điểm được phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị
của Đảng.
2.3 Về tổ chức
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng
với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên
Hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Và cũng thông qua hội này để truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Đến ngày 11/11/1924, Người
tới Quảng Châu và cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,...
sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) đã nêu bật được tầm
quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên với cơ
quan tuyên truyền của Hội là tờ báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý
nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm
thúc đầy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam. Chống lại những đường
lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản.
Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo con
đường Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng
trung thành, làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản sau này.
7
Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào
trong phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ
chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng.
Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng
Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài giảng ở
đây của Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”. Năm 1928,
Hội thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đầy sự phát triển
của phong trào cách mạng Việt Nam.
Những ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và các lớp
huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các phong
trào công nhân, phong trào yêu nước đưa lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và tơn
chỉ, mục đích đấu tranh của Hội vào các phong trào này. Chứng Tỏ: “Lập trường
cách mạng giải phóng dân tộc của vơ sản đã thắng lập trường cách mạng giải
phóng dân tộc của tư sản".
Có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm 1930 là những
đóng góp to lớn, vững chắc và là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn
Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc.
3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1 Hội nghị thành lập Đảng
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã
phát triển mạnh, địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất củamột đảng cách
mạng.
Tháng 6/1929, tại nhà số 213 Khâm Thiên - Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở
cộng sản ở miền Bắc đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng,
thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm và cử ra Ban
chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
8
An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929, đại hội tại Sài Gịn
để thơng qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban chấp hành Trung
ương Đảng.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã
tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Những đảng viên tiên tiến
của Tân Việt đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9/1929, những
người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh Đảng trịnh trọng
tun bố chính thức lập ra Đơng Dương Cộng sản Liên đồn.
Chỉ trong bốn tháng, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, chứng tỏ xu
thế thành lập Đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt
Nam. Tuy nhiên, dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây
dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam nhưng 3 tổ chức cộng sản trên hoạt động
phân tán, chia rẽ ảnh hướng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam, do đó yêu
cầu khẩn cấp lúc này là khắc phục nhược điểm đó thống nhất sự lãnh đạo đảm
bảo cho quá trìnhphát triển của cách mạng Việt Nam.
Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản Đông
Dương tài liệu “Về việc thành lập một Đảng cộng sản Đông Dương”, đồng thời
chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập Đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng
các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản
Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương,
Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. “Với tư cách là Phái viên của Quốc tế
Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách
mạng ở Đông Dương”, Người chủ động triệu tập “đại biểu của hai nhóm (Đơng
Dương và An Nam)” và chủ trì Hội Nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930.
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và
quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
9
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo ra.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) thể hiện bước phát
triển biện chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về
chất từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng
cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc.
3.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Phương hướng chiến lược: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Xác định con đường phát triển cho
cách mạng Việt Nam: phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn hoàn thành
cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau này) và
tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa (bỏ qua giai đoạn phát triển của chế
độ tư bản chủ nghĩa).
Nhiệm vụ cụ thể:
Về chính trị:
- Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập dân tộc.
- Đánh đổ địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho nơng dân.
- Lập chính phủ cơng nông binh, tổ chức quân đội công nông
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng quản lý;
tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
nghèo; bỏ sưu thuế, mở mang công nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ…
Về văn hóa – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền;
phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa…
Giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng: Giai cấp vơ sản giữ vai trị
lãnh đạo cách mạng thơng qua đơi tiên phong của mình là Đảng cộng sản Việt
Nam. Lực lượng cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản
dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ.
10
Đoàn kết quốc tế: Văn kiện Đảng đã xác định: “cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới”, phải đoàn kết chặt chẽ với phong trào
cách mạng thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới, nhất là giai cấp vơ sản Pháp.
Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị:
- Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và phương hướng phát
triển của cách mạng Việt Nam.
- Giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam.
- Nắm được ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm
qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ
của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
PHẦN 3 LIÊN HỆ BẢN THÂN CĨ THỂ LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ
ĐẢNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI MÀ ĐẢNG VÀ NHÂN
DÂN TA ĐANG XÂY DỰNG
Dù Bác đã cách xa chúng ta hơn 50 năm nhưng vai trò của Người đối với
Đảng và cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn là rất lớn. Tư tưởng của Người không
chỉ là kim chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà cịn đóng góp giáo
dục thế hệ thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ
nghĩa mà Người đã dày công vun đắp. Qua những gì đã chứng minh ở trên ta
thấy được rằng Người đóng vai trị rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong
những năm tháng chiến tranh cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân
ta vượt qua những khó khăn để dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc
đổi mới hôm nay, chúng ta đã tiến hành nhiều cải cách nhiều thay đổi để phù
hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn. Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung
thành theo con đường vô sản mà Người đã chọn.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thanh niên. Người cho
rằng thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời
là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng;
thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa,
11
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thanh niên là lực lượng cơ bản trong
bộ đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ
Tổ quốc; trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần
thanh niên có; việc gì khó có thanh niên. Là thanh niên em cũng góp sức mình
từ những việc nhỏ nhất để bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đang xây dựng:
Thứ nhất, phát huy tinh thần tự giác học tập, rèn luyện bản thân để góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, khơng để các thế lực thù địch, phần tử xấu lôi kéo, dụ dỗ
vào các hoạt động gây rối, biểu tình gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an
tồn xã hội, kiên quyết giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định để hội nhập và phát
triển đất nước.
Thứ hai, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức là việc cần thực hiện bền bỉ, “như
rửa mặt hằng ngày”. Và vấn đề quan trọng là mỗi người phải biết tự nhận thức
chính bản thân mình để từ đó khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh. Đó
chính là sự “tu thân”, việc đầu tiên cần làm để trở thành người “quân tử”. Và
điều đó cần thực hiện bền bỉ suốt đời. Bác đã chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không
phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. những quan điểm về việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của Bác vẫn còn
nguyên ý nghĩa, giá trị, là kim chỉ nam dẫn đường cho lớp thanh niên như chúng
em hiện nay. Khắc sâu bài học của Bác đã dạy em sẽ trở thành người có tư cách
đạo đức sáng trong, thật sự trở thành người cách mạng, thật tâm phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân và đồng thời, đem lại hạnh phúc cho chính bản thân
mình.
Thứ ba, chú trọng nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong khi tiếp xúc
thông tin; nắm vững và chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi
thông tin theo quy định của Hiến pháp, Luật Tiếp cận thông tin và Luật An ninh
mạng. Khi tham gia mạng xã hội cần nghiêm túc thực hiện điều lệ và quy định
12
kỷ luật của Ðảng, của tổ chức mà mình là thành viên, đồng thời thể hiện là công
dân gương mẫu.
Thứ tư, tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh chính trị,
đường lối của Đảng; đồng thời ln tỉnh táo, cảnh giác, chủ động phịng ngừa,
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động
chống phá của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, những phần
tử bất mãn. Tăng cường cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ; tỉnh táo, cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi phát ngôn, chia sẻ nhận định, đánh giá về vấn đề, sự kiện nào
đó.
Thứ năm, nhiệm vụ của cá nhân trong bảo vệ Đảng còn xuất phát từ
những hành động cụ thể gắn với công việc, cuộc sống hằng ngày; không xa hoa,
lãng phí, khơng gây mất đồn kết nội bộ. Tăng cường đăng tải những thơng tin
chính thống, lan tỏa những thông điệp tốt đẹp mỗi ngày, đồng thời phản biện lại
những thông tin sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch trên không gian
mạng.
Thứ sáu, bản thân phải luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; trung
thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nêu cao tinh thần yêu nước,
sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Quan tâm đến
đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời thực hiện tốt mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vận động mọi
người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chinh, T. (1980). Chủ tịch Hồ Chí Minh – Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời
đời. Hà Nội.
2. Dung, N. (2021). Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
4. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam . (n.d.).
5. Hùng, L. Q. (2020). Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hà Giang .
6. Vietnam+. (18 1, 2021). Vai trò sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
/>
14