Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

BÀI TẬP LỚN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề bài Chứng minh tinh tất yếu của độc lập dân tộc gắn liền với Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.14 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Chứng minh tinh tất yếu của độc lập dân tộc gắn liền với
Tư tưởng Hồ Chí Minh

Họ và tên SV: Trần Thị Hồng Hạnh
Mã SV: 11201382
Giảng viên: Lê Thị Hoa
Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh 12

Hà Nội , ngày 27 tháng 01 năm 2022
0


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển
sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, làm nảy sinh một trong những mâu thuẫn cơ
bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước
công nông đầu tiên trên thế giới tạo ra mâu thuẫn cơ bản mới của thời đại: giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội và mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Các nước đế
quốc rơi vào tình trạng phát triển khơng đồng đều, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn
giữa các nước đế quốc, bùng nổ các cuộc chiến tranh đế quốc. Chủ nghĩa tư bản
tăng cường bóc lột giai cấp cơng nhân và nhân dân chính quốc khiến mâu thuẫn


giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng tăng lên trên thế giới. Đồng thời,
sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước phát triển
mới trong sự nghiệp phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội, đặt ra nhiều vấn đề
mới trong quan hệ quốc tế. Nói về khoa học kỹ thuật, từ năm 1951 Hồ Chí Minh
đã nói “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng
hợn nhiều thế kỷ trước cộng lại về khoa học kỹ thuật”.
Giai đoạn 1: Hồ Chí Minh Vượt qua tư tưởng yêu nước, độc lập dân
tộc theo lập trường phong kiến, tư sản.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và dần nhận thấy sự bất cập của tư
tưởng yêu nước trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến: “trung quân, ái quốc”,
chống Pháp giúp vua (cần vương), để đi đến quan niệm mới: dân là dân nước,
nước là nước dân. Vì vậy Người đã sớm nhận thức được nguyên nhân thất bại
của chủ trương cứu nước dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản, những
nước “cùng máu đỏ da vàng”, do Phan bội Châu và các chí sĩ yêu nước trong
“Phong trào Đông Du” tiến hành.
1


Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản của
Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), tập trung ở chủ nghĩa Tam
dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn.
Người đã rất kính trọng Tơn Dật Tiên, sau này người đã chắt lọc những nhân tố
hợp lý, những quan điểm tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Nhưng qua việc quyết định
ra đi tìm đường cứu nước bằng cách đến nước Pháp, đến phương Tây, cái nôi của
chủ nghĩa tư bản, chứng tỏ Người chưa tin vào tư tưởng yêu nước và con đường
cứu nước đó.
Giai đoạn 2: Bước ngoặt lớn khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê.
Từ đây Người nhận thức được sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng dân
tộc trong thời đại mới được mở ra sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười: thời đại

quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cách mạng giải phóng
dân tộc phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Người đã chỉ ra: muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc phải tiến hành cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, cứu
dân. Đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩ xã hội, giai cấp vơ sản phải nắm lấy
ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng bước với phong trào
cách mạng vô sản thế giới....
Giai đoạn 3: Từ “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” đến độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: bình đẳng, tự quyết, đồn
kết giai cấp cơng nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn nhất là dựa trên lập trường cách mạng vô sản. Sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người rút ra được rằng:

2


- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải bảo đảm cho dân tộc đó quyền tự
quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mơ hình
phát triển độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Độc lập dân tộc phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển tồn diện,
có năng lực làm chủ.
- Độc lập dân tộc đói hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch
của dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần.
Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên ngun tắc tơn
trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới khơng có

chiến tranh, khơng có sự hồnh hành cái ác, của những sự tàn bạo và bất công,
bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự phải tiến
lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng gàn đời của
nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.

3


PHẦN 2: PHÂN TÍCH
A. CẤP ĐỘ 1: Q TRÌNH GIẢI PHĨNG DÂN TỘC VIỆT
NAM
I.

Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc:

1. Quan điểm trước đó của Quốc tế Cộng sản:
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn ln cho rằng: “Chỉ
có thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô
sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Ý kiến này đã giảm tính
chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa, làm cho phong trào cách mạng ở
các nước rơi vào tình trạng thối trào.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trị của cách mạng
thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng vơ sản ở chính quốc, Nguyễn Ái
Quốc lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản.
Người khẳng định: “…Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận

mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn
độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa…”, và nếu khinh thường
cách mạng ở thuộc địa tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được
liều thuốc vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê
4


bình những người cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa và
không thực hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; ngay cả
những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc
địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân
tộc phụ thuộc vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, coi phong trào giải
phóng dân tộc là “hậu bị quân” của cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Vận dụng cơng thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng dân
tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Cơng cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em”. Theo Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế quốc đều lấy ở các xứ
thuộc địa. Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vịi để minh họa cho chủ nghĩa tư
bản lúc bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào
đầu ở chính quốc, nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống của
thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh khơng cịn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi
phục và quay lại chống cách mạng chính quốc, điều đó khơng những gây tổn
thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà cịn khiến nó quen mùi,
hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ
ra rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng
mà khơng thể dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân
thuộc địa sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.

Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa
cùng với các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để.
Một mặt tấn cơng ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị đau
ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà của mình, tạo đà

5


cho cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng lợi. Sau khi mất nguồn sinh lực của
mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần dần bị suy giảm, lúc ấy cách mạng ở
chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng. Người khẳng định: Cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người anh em của mình ở chính
quốc trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn.
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng
sản nhận ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất cả các
nước và các dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu
tranh giành độc lập tự do của chính mình.

3. Lý giải cho sự hình thành tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
có sức bật thuận lợi vì:
● Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của chủ
nghĩa đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân thuộc địa vào khó khưn, túng
quẫn; Điều đó đã làm cho lịng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư
bản trong nhân dân thuộc địa vô cùng sâu sắc.
● Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn,
một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu
được giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có
thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.

● Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực sự
trở thành động lực giải phóng dân tộc.

6


4. Lý giải cho sự sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Có thể thấy rằng trong cơng cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa thì quan điểm : Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy
nhât, bất di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin.
Nhưng đến Hồ Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại.
Điều đó trước hết bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn của mỗi người. Khơng thể đi
so sánh giữa Hồ Chí Minh và Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng
yếu tố thời đại có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.
Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã
được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển
mạnh, bởi vậy, theo các ông, vận mệnh lồi người, tương lai của cách mạng giải
phóng dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận
của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản ở
chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở
các thuộc địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác “Vô sản tất cả các
nước liên hợp lại”, ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại”. Nhưng ông vẫn không nhận ra được cách mạng ở các
nước thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ
của các dân tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu


7


sắc chủ nghĩa đế quốc và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc
một phần quan trọng nằm ở thuộc địa. Mặt khác, so với những bậc tiền
bối đi trước, Người có điều kiện để đi nhiều nơi, từ Châu Á sang Châu
Âu, tới Châu Phi nên người có điều kiện tìm hiểu, tiếp cận cuộc sống ở
những mảnh đất đó chứ khơng phải chỉ gói gọn trong mỗi Châu Âu và
một phần Châu Á (nước Nga) như Lênin, Người nói: “Hiện nay nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước
thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Đây là điều quan trọng mà Hồ Chí Minh
bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: “CNTB là
một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một
cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn
giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ
cắt một vịi thơi, thì cái cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô
sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Bởi vậy,
vừa phải tiến hành đồng thời cach mạng ở chính quốc và ở thuộc địa.
Trên góc độ phê phán ấy, người đã nhìn ra được khả năng cách mạng của
các nước thuộc địa và đi đến khẳng định rằng: cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc.

5. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo về giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh:
● Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý
luận Mác – Lênin
● Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp


8


đỡ từ bên ngồi mà ln phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời
nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một
số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là
một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.

II.

Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Điểm xuất phát để ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là nhận thức

rõ và có niềm tin mạnh liệt vào sức mạnh của dân tộc. Đó là sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tư cường, truyền
thống đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
1. Hồ Chí Minh là người đã nói cơng khai về chủ nghĩa dân tộc.
Người viết “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã
gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết
phản đối... Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi
khóa làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật bản và làm vua Duy Tân mưu
tính khởi nghĩa năm 1971”.Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân ta, đồng thời cũng là của nhân
dân các nước thuộc địa đấu tranh với chủ nghĩa thực dân giảnh độc lập, tự do cho
dân tộc.


9


2. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của thời đại được hình
thành từng bước, thơng qua hoạt động thực tiễn và được tổng
kết thành lý luận.
Ra đi tìm đường cứu nước với thân phận người lao động, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức: “Dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột”. Vì vậy từ rất sớm, người đã kêu gọi: “Vì nền hịa bình thế giới, vì tự do
và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đồn kết lại và chống
bọn áp bức”. Người khảo sát chủ nghĩa đế quốc ngay tại sào huyệt của nó, Hồ
Chí Minh đã phát hiện và chỉ ra rằng: “cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở
thuộc địa,... họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, thì
cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của mình...”
Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở
đó “một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm
cách mạng mà Người hằng nung nấu”. Đó là bước chuyển lịch sử, từ người yêu
nước thành người cộng sản, nâng cao nhận thức của Người về sức mạnh của thời
đại: đó là sức mạnh của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản, sức mạnh kết hợp giữa
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, sức mạnh đồn kết
quốc tế.
Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi vào tổ chức và hoạt động. Người thành
lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, viết báo Le Paria; tích cực tham gia thành lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sát cách chiến đấu cùng những người cộng
sản và nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”....
Cùng với sự phát triển của lịch sử và thời đại, Hồ Chí Minh bổ sung thêm sức
mạnh của thời đại những nhân tố mới, đó là: sự hình thành và phát triển và sức
mạnh đồn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; là cuộc cách mạng khoa

học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố mới trong
sức mạnh của thời đại.

10


B. CẤP ĐỘ 2: XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:

1. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương đông qua
“thuyết đại đồng” của Nho giáo... Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách
mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác – Lênin lý tưởng
về một xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
tự do cho tất cả mọi người”. Khi đến nước Nga, Người đã thấy “Chính sách kinh
tế mới” của Lênin và những thành tựu bước đầu của nhân dân Xô Viết trên con
đường xây dựng một chế độ xã hội mới.
Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng
giải phóng dân tộc.
Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác con
đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng lồi
người. Người đã viết: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng nhân tồn thế gíơi”.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức.

Theo Hồ Chí Minh “Khơng có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét
những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ
xã hội chủ nghĩa”. Từ đó, Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn
là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người”.
11


Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và
con người Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan
dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiến tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân
văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản
về mặt văn hóa và giải phóng con người.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa
xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân
chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện
lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước
xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Một là, đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân
ta xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất,
ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ qt, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ

nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội
chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất
và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất
của chế độ xã hội tư bản, ở đó khơng thể có cơng bằng và dân chủ: nhà nước là

12


nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ
bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội.
Xây dựng xã hội “dân chủ, cơng bằng, văn minh” là q trình vơ cùng khó
khăn, gian khổ và lâu dài trong hồn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước còn
nghèo, đang phát triển, chưa có “nền đại cơng nghiệp” (điều kiện cần thiết để xây
dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã chỉ rõ), v.v.. Nhưng để trở thành xã hội xã
hội chủ nghĩa với những đặc trưng nêu trên, khơng có cách nào khác là toàn Đảng,
toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt
Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực
tiễn để thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công bằng”
và “văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hồn thiện nhà nước pháp quyền
với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v..
Hai là, xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội
là xã hội của lồi người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ
mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh
cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành
và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân
mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng

quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai trị chủ thể
của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên
chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân
13


chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội “do nhân dân
làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất nêu
trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Để có một
xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân
dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tơn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ.
Ba là, “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng
vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng
và phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực
hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ
sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện
đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản
xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất
mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lơ -gíc vận động

như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng
một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện
bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.

14


Bốn là, “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát
triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn
hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là
sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa
phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời
phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc
riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy, chính là
mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức mạnh thúc đẩy
xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế
thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát
triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc
dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã
hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và
nhân văn.
Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị
văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những
giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa là những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã
hội tương lai. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là

một xã hội đại đồng không tồn tại những bản sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ
nghĩa là một vườn hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa
các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát
huy, phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên
tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện
mạo văn hóa Việt Nam.

15


Năm là, “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những
giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực thể cao
nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và bí ẩn
gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và
khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới Người
- thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người đấu tranh
xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa, trình
độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình độ phát triển
người, của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con người
như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là khơng bao giờ thỏa mãn
với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do khơng chỉ bó hẹp
trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nơ dịch, kìm hãm về mặt xã hội.
Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ, tình cảm và năng lực
vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình. Sự phát triển tồn diện
con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa
chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng người nhất của khát vọng
con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát

triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần
thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt
tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao.
Sáu là, “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.

16


Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu tố
thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này đòi
hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh. “Bình
đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất
nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm
bình đẳng khơng chỉ cho cá nhân người cơng dân, mà cịn ở cấp độ cho tất cả các
cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội hiện đại, ở các
nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc cũng đang là
vấn đề nan giải. Mặt khác, “đồn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước trên thế giới đồn kết
lại (C.Mác); cịn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát một chân
lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.
Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bình
đẳng” và “đồn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển”. Tơn trọng và giúp nhau khơng chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực
sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của
từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát
triển. Đoàn kết tồn dân, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên
thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó
đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bảy là, “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao
và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng
pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?

17


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất
nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy,
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đó
và khơng ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp,
đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân khơng thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản
chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng
xã hội chủ nghĩa.
Tám là, “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc
gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội

chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất
hịa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những
thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn q trình phát
triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”,
“phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hịa đồng theo bản chất trí tuệ và tình

18


cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều thể
hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
a. Mục tiêu:
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, độ chính trị phải do nhân dân lao động làm chủ.
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân
chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng
đó khơng tách rời nhau, mà ln ln đi đơi với nhau. Một mặt, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của
nhân dân: mặt khác. tại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản
động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và
biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng , củng cố các hình thức
dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập
pháp, hành phap và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã
hội chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững
mạnh. Nền kinh tế đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông

nghiệp hiện đại khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa
tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải
thiện.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển tồn diện các ngành,
trong đó những ngành chủ yếu là cơng nghiệp, nơng nghiệp, thương nghiệp,
trong đó "cơng nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà".

19


Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề được Hồ Chí Minh rất quan tâm.
Người đặc biệt nhấn mạnh: chế độ khốn là một trong những hình thức của sự
kết hợp lợi ích kinh tế.
- Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu
cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh
hoạt tinh thần của xã hội đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng phát triển giáo
dục, nâng cao dân trí xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện
nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải tri lành mạnh, bài trừ
mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu.
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người khẳng định:
"phải xã hội chu nghĩa về nội dung". Để có một nền văn hóa như thế ta phải
phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của
thế giới.
Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời
phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì khơng được xem nhẹ nâng
cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn ln nhắc nhở phải làm cho
văn hóa gắn liền với lao động sản xuất.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là
đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất cơng

cuộc xây dựng chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết mặt tư tưởng. Người cho rằng:
Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư
tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội.

20


Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách
mạng: đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện
để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy,
Hồ Chí Minh ln gắn tài năng với đạo đức. Theo Người. "có tài mà khơng có
đức là hỏng": dĩ nhiên, đức phải đi đơi với tài, nếu khơng có tài thi khơng thể
làm việc được. Như vậy, Người ln gắn phẩm chất chính trị với trình độ học
vấn, chun mơn, nghiệp vụ, trong đó "chính trị là tinh thần, chun mơn là thể
xác" Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi
người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài,
vừa "hồng" vừa "chuyên".
b.

Động lực:
Để thực hiện những mục tiêu đề ra, cần phát hiện những động lực và những

điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội
lực của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật
chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan

trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là cơng nơng - tri thức. Hồ Chí Minh thường xun quan tâm đến lợi ích chính đáng,
thiết thân của họ: đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân
dân và từng cá nhân.
- Xem con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực
quan trọng nhất.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân (sức
mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng). Người cho rằng, khơng có chế
độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ
xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng,

21


sức lao động sáng tạo của nhân dân - đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực
quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy,
tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ
cán bộ. công chức các cấp từ trung ương tới địa phương.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản
xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi
người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với
kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa
học, giáo dục coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự
phát triển. Làm thế nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức
mạnh và khơng ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đã là

hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
- Ngoài các động lực bên trong theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được
với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu
nước phải gắn liên với chủ nghĩa quốc tế-của giai cấp công nhân, phải
sử dụng tới những thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ bên
cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. Người còn
lưu ý cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có
của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ., xơ cứng, không

22


có sức hấp dẫn đó là chủ nghĩa cá nhân và Người coi nó là "bệnh mẹ" đẻ ra
hàng loạt bệnh khác, đó là tham ơ, lãng phí, quan liêu... mà Người gọi đó là :
"giặc nội xâm"; đó là các căn bệnh chia rẽ bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, chủ
quan, bảo thủ, giáo điều,...
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định
nhất. ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế Người thường đề cao tinh thần
độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn luôn chú trọng tranh thủ
sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo
thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở
bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, chung sống hịa bình và phát triển.
II.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1.


Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ

về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới,
xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4). Trong đó, “nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mối quan tâm hàng đầu chủa Hồ Chí
Minh là làm sao cho Đảng khơng mắc các bệnh quan liêu, xa dân, thối hóa biến
chất, làm mất lịng tin của dân, suy giảm năn lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời
phải chú trọng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vũng mạnh và
hoạt động hiệu quả, thực sự lkaf nhà nước của dân, do dân và vì dân.
23


Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên
CNXH rất toàn diện.
Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu chốt,
tăng năng suất lao động trên cơ sở cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, cùng với
thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế,
ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên
cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản
xuất.
Trên lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống

nhất, nịng cốt là liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhằm khơng ngừng tăng cường khối đại đồn kết dân tộc vì sự nghiệp xây
dựng CNXH.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học,
đại chúng và mấu chốt của văn hóa là xây dựng con người có đạo đức cách mạng,
con người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, tồn tâm
tồn ý phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng xây dựng nền văn
hóa mới, lối sống mới. Về xã hội, thực hiện sự phân phối theo lao động, thi hành
chính sách xã hội vì tồn dân, bình đẳng.
Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào phát triển
con người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là động của sự
phát triển xã hội.

24


×