Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận nêu và phân tích quan điểm của đảng về công tác dân vận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.88 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
----------------------------------------

TIỂU LUẬN
(điều kiện)
MÔN: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

NÊU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
DÂN VẬN HIỆN NAY

Họ tên học viên: Nguyen Van B
Mã số học viên: MP 22
Lớp: Cao học XDĐ & CQNN, hệ ………………

HÀ NỘI – 202…


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 03
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 03
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 03
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 04
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận ........................................................... 04
6. Kết cấu của tiểu luận ......................................................................................... 04
NỘI DUNG:


Chương 1: KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
HIỆN NAY ............................................................................................................ 05
1.1. Vị trí, vai trị của cơng tác dân vận .................................................................. 05
1.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng những năm qua ................................. 06
Chương 2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN HIỆN NAY
................................................................................................................................. 10
2.1. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ................ 10
2.2. Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi
ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hồ các lợi ích ... .................................... 11
2.3. Phương thức cơng tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng
Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh ... .......................................................... 12
2.4. Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng
viên, cơng chức, viên chức . .................................................................................. 13
2.5. Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ" thành quy chế, quy định ... ............................................................. 17
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 19
Chú thích .............................................................................................................. 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................................ 21


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân vận và công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản của Đảng, có ý nghĩa
chiến lược đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, góp phần quan trọng vào
việc củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc và là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của các cuộc cách mạng do Đảng
ta lãnh đạo.
Nhận thức vị trí và tầm quan trọng của cơng tác dân vận, trong các thời kỳ

cách mạng, Đảng ta đều có các chủ trương, nghị quyết chuyên đề về dân vận để
định hướng lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này, góp phần quan trọng vào huy
động, tập hợp các nguồn lực của nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách
mạng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội và sự phát
triển đất nước như ngày nay. Thực tiễn đó đã chứng minh tính đúng đắn cho khẳng
định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng” mà Người đã viết trong tác
phẩm “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật, số 120, Ngày 15-10-1949
Để góp phần tìm hiểu vai trị quan trọng của công tác dân vận của Đảng, tôi
chọn chủ đề: “Nêu và phân tích quan điểm của Đảng về cơng tác dân vận hiện
nay” làm bài tiểu luận (điều kiện) của mình cho mơn học: “Cơng tác dân vận của
Đảng trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận: Trên cơ sở khái quát vai trị quan trọng và thực
trạng cơng tác dân vận của Đảng, tiểu luận phân tích làm rõ nội dung những quan
điểm của Đảng về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận: Làm rõ nội dung những quan điểm của Đảng về
công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


4

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu nội dung cơ bản những
quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những nội dung cơ bản những
quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về dân vận và công tác dân
vận để thực hiện nhiệm vụ của tiểu luận.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương
pháp lịch sử, phân tích để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên về vai trị, tầm quan trọng của cơng tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo để từ đó thực hiện tốt hơn trách nhiệm cơng tác dân vận của mình
trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Việc nhận thức đúng và đầy đủ quan điểm, chủ trương
của Đảng vầ công tác dân dân vận trong giai đoạn hiện nay sẽ giúp các cấp ủy đảng,
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên làm tốt hơn công tác dân vận theo chức
trách của mình, góp phần thực hiện đúng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực, củng cố mối quan hệ chặt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay và từng bước hiện thực hóa mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” ở nước ta.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, chú thích, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung tiểu luận gồm 2 chương, 7 tiết.


5

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
1.1. Vị trí, vai trị của cơng tác dân vận
Dân vận và công tác dân vận là một trong những mặt cơng tác cơ bản của
Đảng, góp phần quan trọng vào việc tăng cường sức mạnh lực lượng cách mạng, bảo
vệ Đảng, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận

lịng dân” vững chắc.
Dân vận và cơng tác dân vận thực chất là hoạt động giáo dục, thuyết phục, vận
động nhân dân tự giác tham gia những cơng việc ích nước, lợi dân - tức là làm những
việc cách mạng cần và nhân dân cần. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minhvà Đảng ta đều khẳng định: cách mạng là sự nghiệp tự giác
của hàng triệu triệu quần chúng. Để có hành động tự giác đó của quần chúng thì phải
tổ chức, tập hợp quần chúng, phải hướng dẫn quần chúng làm cách mạng - tức là
phải làm tốt công tác dân vận. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng” (1).
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15 tháng 10 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: Dân vận là: "Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân
khơng để sót một người dân nào; góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những
công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đồn thể đã giao cho” (2).
Như vậy, đối tượng của công tác dân vận là nhân dân, bao gồm các giai cấp,
tầng lớp dân cư trong xã hội, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, người ở nông thôn
hay thành, già hay trẻ, trai hay gái - vì tất cả họ đều là con Lạc, cháu Hồng. Mặt
khác, tuy nhu cầu, lợi ích, sở thích và phong tục, tập quán của các giai cấp, tầng lớp
nhân dân rất khác nhau, đa dạng và thay đổi, nhưng đa số trong số họ đều có những
ước muốn chung là mong muốn dược có cuộc sống ấm no, tự do, đất phát triển và
cường thịnh.


6

Do đó, để huy động và phát huy sức mạnh của dân, theo Bác Hồ, Đảng phải
làm tốt công tác dân vận, tức phải đi sâu nghiên cứu, phân tích mọi mặt trong sự biến
đổi trong nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, mặt mạnh, mặt hạn chế của họ để
có nội dung, phương thức cơng tác dân vận thích hợp, khai thác được tiềm năng, thế
mạnh của nhân dân cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển đất nước. Đặc biệt, Chủ

tịch Hồ Chí Minh cịn căn dặn: bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến
nhân dân và cùng nhân dân xây dựng chương trình, kế họach rồi động viên nhân dân
thực hiện.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện kế họach, phải thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, động viên, giúp đở và khuyến khích nhân dân; đảm bảo sự cơng bằng và
bình đẳng giữa các giai cấp, dân tộc và tầng lóp dân cư trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc, trong việc đóng góp và hưởng thụ thành quả của
sự tăng trưởng và phát triển đất nước. Đó là cội nguồn bảo đảm sự đồn kết giai cấp,
dân tộc, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sức mạnh quốc gia và thắng
lợi của mọi cuộc cách mạng.
Thực tế cho thấy: nếu thành quả phát triển kinh tế - xã hội chỉ đem lại lợi ích
cho vùng này, dân tộc này, nhưng lại gây tác hại cho vùng khác, dân tộc khác thì có
thể dẫn đến xung đột dân tộc, sắc tộc, gây bất ổn định chính trị - xã hội quốc gia.
Đây cũng là cơ hội để các phần tử xấu trong nước kích động chống phá và các thế
lực phản động, thù địch bên ngoài lấy cớ để can thiệp vào công việc nội hay thực
hiện một xâm lược bằng những thức khác nhau.
1.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng những năm qua
Thấm nhuần tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua các thời kỳ
cách mạng, Đảng ta đều có nhiều nghị quyết chuyên đề để định hướng lãnh đạo, chỉ
đạo đối với công tác dân vận như: Về vận động các giới, giai tầng xã hội; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quy chế
cơng tác dân vận của hệ thống chính trị; tăng cường công tác dân vận của các cơ
quan nhà nước và chính quyền các cấp; phát huy vai trị nhân dân tham gia góp ý,
giám sát, phản biện góp phần xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng Đảng, hệ


7

thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân ... Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) đã ban hành

Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 03-6-2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
25) tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của công tác dân vận, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hội nhập,
phát triển nhanh và bền vững đất nước. Có thể nói, đây là hệ thống những chủ
trương chỉ đạo rất quan trọng đối với công tác dân vận. Các chủ trương này, đặc biệt
là nghị quyết 25 đã được các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng quán triệt, tổ
chức thực hiện, với nhiều cách làm hay, sáng tạo và mang lại hiệu quả thiết thực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nội dung và phương thức công tác dân vận ngày
càng được đổi mới, bám sát tình hình thực tiễn, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng,
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Nội dung cơng tác dân vận gắn
với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và đặc điểm địa bàn; được tiến hành
có trọng tâm, trọng điểm, hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với yêu cầu thực
tiễn. Các cấp đã tích cực đẩy mạnh cơng tác tun truyền, vận động nhân dân thực
hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế
hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. v.v.
Thông qua công tác dân vận, nhân dân đã nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để
chống phá cách mạng nước ta. Phong trào Thi đua “Dân vận khéo” được đẩy mạnh,
gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng
những việc làm thiết thực, ngày càng đi vào chiều sâu; nhiều mơ hình hiệu quả, có
sức lan tỏa, tạo động lực, cổ vũ, động viên đơng đảo nhân dân hưởng ứng, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, củng cố quốc
phịng, an ninh trên từng địa bàn.
Cơng tác dân vận đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị ở các địa
phương, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, hiệu lực


8


quản lý, điều hành của chính quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể các địa
phương, đơn vị. Đội ngũ cán bộ dân vận đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương phối hợp thực hiện tốt cơng tác quốc phòng - an ninh, xây dựng “thế trận
lòng dân”, khu vực phòng thủ vững chắc, v.v. Trên cơ sở đó, niềm tin của nhân dân
với Đảng, chế độ được củng cố, tăng cường; kinh tế - xã hội từng bước phát triển
vững chắc; đời sống của nhân dân khơng ngừng được cải thiện, nâng cao; chính trị,
quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố và giữ vững; công tác đối
ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân và hội
nhập quốc tế được đẩy mạnh, vị thế nước ta ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của một số cấp
ủy, chính quyền các cấp vẫn còn những hạn chế, cần khắc phục. Việc quán triệt,
nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân
vận chưa sâu sắc; chưa dự báo, nắm bắt đầy đủ những diễn biến, tâm tư, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp. Cơng tác kiểm tra,
sơ kết, tổng kết chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, một số bức xúc kéo dài chưa được
giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi cịn hình thức hoặc bị vi
phạm, ... gây tâm lý dồn nén, tích tụ bức xúc trong nhân dân; một bộ phận nhân dân
bị các thế lực thù địch, đối tượng cực đoan lợi dụng kích động, gây ra nhiều vụ việc
phức tạp, tạo “điểm nóng” về an ninh trật tự.
Trong khi đó, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ
lãnh đạo, quản lý cịn thiếu gương mẫu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, xa dân, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Phương pháp vận
động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối tượng, nhất là đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ, thanh niên, đồng bào có tơn giáo, v.v.
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân vận chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Sự phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội cùng
với tệ quan liêu, tham nhũng, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân là thách thức



9

không nhỏ đối với công tác dân vận và mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với
Đảng.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là: (1) Một số cấp ủy
đảng chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị của cơng tác dân vận; chưa thấy hết
trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên còn xa dân, chưa gắn với cơ sở, do vậy chưa hiểu hết tâm tư
nguyện vọng của nhân dân. Một số cán bộ đảng viên do ngại làm, hoặc chưa tự giác
làm công tác dân vận, chưa thực sự gương mẫu, nịng cốt tham gia sinh hoạt đồn
thể. (2) Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm được đổi mới,
chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn. (3) Tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận, đồn thể chính trị - xã hội ở một số cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò
lãnh đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên
truyền vận động nhân dân. Một số ngành, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ quan
điểm của Đảng về công tác dân, chưa thực hiện tốt công tác dân vận theo Chỉ thị số
18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước,
chính quyền với Mặt trận, đồn thể chưa chặt chẽ; chưa phát huy tốt vai trò và tạo
điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội và các hội
quần chúng tham gia giám sát việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội. (4) Phương pháp
vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là đối với
đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo đạo. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận, đồn thể chưa đáp ứng yêu cầu.
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, những bài học kinh nghiệm quan
trọng trong công tác dân vận của Đảng được ghi nhận, đánh giá là: toàn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng,
xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất

nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Trong mọi công việc của Đảng và Nhà
nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin
tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ


10

mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đó cũng chính là
những nội dung cốt lõi trong tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN HIỆN NAY
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực
có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng tạo ra nhiều cơ hội mới cho phát triển,
nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mới cho cơng tác dân vận, như: vấn đề
việc làm, phân hoá giàu - nghèo giữa các vùng và trong nội bộ các tầng lớp dân cư,
các tệ nạn xã hội ... diễn biến phức tạp, đe doạ những chuẩn mực đạo đức và phong
tục tập quá tốt đẹp của dân tộc. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “dân
tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, những sơ hở, yếu kém trong quản lý, phát
triển kinh tế - xã hội của ta để xuyên tạc, vu khống, chống phá Đảng, Nhà nước, đẩy
mạnh chiến lược “Diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ; kích động, lơi kéo, chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc, chia rẽ mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang với nhân dân. Tình trạng suy thóai
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm giảm lịng tin của nhân dân đối
với cán bộ, đảng viên, sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền một số nơi.
v.v. Tình hình này là những thách thức đối với nước ta trong những năm tới nói
chunhg và cơng tác dân vận nói riêng.
Do vậy, thời gian tới, đòi hỏi Đảng phải hết sức quan tâm tăng cường, nâng

cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác dân vận; kiên quyết khắc phục thiếu sót,
chủ động và giải quyết kịp thời những bức xúc chính đáng của nhân dân. Để làm
được điều này, cần thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về công tác dân vận.
2.1. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;


11

nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ
Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, bao trùm trong quá trình tiến hành công
tác dân vận của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kế

thừa và phát triển

tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống của cha ơng về vai trị của quần
chúng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước thể hiện qua bài học "lấy dân làm
gốc", Đảng chỉ là người lãnh đạo, còn sự nghiệp cách mạng là của nhân dân. Quán
triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và qua thực tiễn sinh động của
cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định quan điểm này và nâng lên thành bài
học lớn: "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đồn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”

(3)

.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân
dân; trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”

(4)

. Đại

hội lần thứ XIII của Đảng đúc rút bài học kinh nghiệm quý báu: Trong mọi công
việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc";
thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực
hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Sức mạnh của nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển
Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Có như vậy nhân dân
mới tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng.
2.2. Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,


12

đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hồ các lợi ích; quyền lợi
phải đi đơi với nghĩa vụ cơng dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân;
huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân
thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh
Từ xưa đến nay, lợi ích ln gắn liền với hoạt động của con người. Con người
hành động là vì lợi ích. Chính lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội lại

với nhau và là cái thúc đẩy người ta đấu tranh giành lấy. Phát triển tư tưởng của
Mác và Ăngghen, Lênin nhấn mạnh: lợi ích là cái

kích thích hành vi của con

người, là động lực để phát triển sản xuất, thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cấp, là động
lực để phát triển xã hội. Như vậy, động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân
dân chính là lợi ích. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ
phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
(5)

. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường

lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tơn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm
tồn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (6).
Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: đưa hạnh phúc của nhân dân trở thành
mục tiêu trong hoạt động của Đảng, với các quan điểm "khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc", "lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu", "nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân". Vì vậy,
trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, phải giải quyết tốt các mối
quan hệ về lợi ích: lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội và cộng đồng; lợi ích
của địa phương, đơn vị, của các ngành với lợi ích chung của đất nước. Trong đó, lợi
ích cá nhân là động lực trực tiếp, gắn chặt quyền lợi với nghĩa vụ, trách nhiệm công
dân; khắc phục tư tưởng chỉ thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ công dân và ngược
lại.
2.3. Phương thức công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác



13

xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức phải
gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo
Công tác dân vận là một nội dung của cơng tác xây dựng Đảng vì thế phương
thức lãnh đạo công tác dân vận phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh là nhân
tố quan trọng nhất, quyết định nhất đến hiệu quả công tác dân vận. Mọi quan điểm,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc,
những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân, không
đùn đẩy, kéo dài tạo tâm lý trông chờ, mất niềm tin trong dân, tạo kẻ hở để các phần
tử xấu, thế lực phản động kích động, lơi kéo chống phá Đảng và Nhà nước, hình
thành các “điểm nóng” về chính trị - xã hội.
Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là những người trực tiếp làm công tác dân
vận phải tự mình phải rèn luyện và giúp nhau rèn luyện để có phong cách: “Trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, để “nghe dân nói, nói
dân hiểu, làm dân tin”; phải “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm, chứ khơng phải chỉ nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng
tay vào việc”. Riêng cán bộ cơng tác ở vùng dân tộc cịn phải thực hiện tốt phương
châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc, qua đó mà làm
gương cho quần chúng. Muốn vậy, như cố Tổng Bí thư Đổ Mười đã nói: phải bớt
người ngồi bàn giấy, phải năng động xuống cơ sở để sát dân, phải đi xuống từng
hộ, từng thơn xóm, từng làng xã, phường, thống kê xem tình hình đời sống của dân
ra sao, nhu cầu họ cần gì, cái già dân làm, cái gì địa phương giải quyết, cái gì các
ngành trung ương, Đảng, Nhà nước giải quyết ... Nghĩ là làm công tác dân vận thì
phải sâu sát cơ sở, sát dân, gần dân, hiểu dân, nắm bắt được hơi thở của dân, rồi

nghe dân nói, nói dân hiểu, hướng dẫn dân hành động cách mạng. Nhưng, tuyệt đối


14

khơng được theo đi quần chúng. Có như vậy, Đảng ta mới là Đảng của nhân
dân, của toàn dân tộc, Nhà nước ta mới thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
2.4. Cơng tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán
bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân,
cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ
chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành cơng tác dân vận. Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đồn thể và tất cả các hội viên của
các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận" (7). Nghị
quyết Hội nghị Trung ương tám khoá VI ghi rõ: "Mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên
nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình"

(8)

. Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục khẳng
định: "Cơng tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng
viên, cơng chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, các đoàn thể nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực
hiện, Mặt trận và đồn thể làm tham mưu và nòng cốt"

(9)

. Như vậy, lực lượng làm


công tác dân vận bao gồm:
Trước hết, trách nhiệm làm công tác dân vận của Đảng. Đây trước hết là
trách nhiệm, là nhiệm vụ chiến lược quan trọng của Đảng. Bởi vì, tồn bộ sức mạnh
của Đảng khơng chỉ từ bản thân Đảng mà còn bắt nguồn từ mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo cả hệ thống chính trị và tồn
xã hội tiến hành cơng tác dân vận, vừa là lực lượng trực tiếp vận động, lôi cuốn, tổ
chức nhân dân. Các tổ chức đảng phải lấy việc vận động và chăm lo lợi ích của nhân
dân làm một nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình. Mọi cán bộ, đảng viên
phải làm công tác dân vận, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và vận động nhân dân thực hiện theo chức trách của
mình.
Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức,
hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về cơng tác dân vận; có cơ chế


15

phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Đổi mới nội dung, phương tuyên truyền, vận
động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thơng tin đại chúng, mạng xã hội theo
hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an
ninh” (10).
Các cấp, các ngành cần động viên các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng; phát huy mọi tiềm
năng, trí tuệ trong nhân dân đóng góp cho đất nước; biểu dương, nhân rộng các điển
hình tiên tiến trong phong trào thi đua. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “thực
hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”. Rà sốt bổ sung và thực hiện Quy chế

cơng tác dân vận của hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính
quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp ...” (11).
Thứ hai, trách nhiệm của bộ máy nhà nước làm công tác dân vận. Nhà nước
ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó liên hệ chặt chẽ với dân thuộc về bản
chất của Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phải làm tốt công tác dân vận.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp
phải thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật;
tạo mơi trường thuận lợi cho nhân dân làm ăn. Bộ máy nhà nước các cấp đều phải
nêu cao tinh thần phục vụ và ý thức trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó với nhân
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức nhà nước đều
phải làm công tác dân vận theo chức trách của mình; đẩy mạnh việc cải cách hành
chính, khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch... trong cán bộ, công chức khi
thực thi nhiệm vụ. Nhà nước phải phối hợp và tạo điều kiện để phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, quyền giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước.


16

Thứ ba, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân làm
cơng tác dân vận.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là đội quân chủ lực của công tác
dân vận, là sợi dây nối liền Đảng với các tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc là cơ
sở chính trị - xã hội của chính quyền nhân dân, là liên minh chính trị rộng lớn của
các đồn thể nhân dân, các tơn giáo, các giai cấp, các tầng lớp xã hội thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc, tạo sức mạnh toàn dân thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh". Các đồn thể nhân dân là lực
lượng nòng cốt và trực tiếp, đội quân chủ lực trong phong trào quần chúng.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy hơn nữa vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; củng cố bộ máy tổ chức và đổi mới
phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, nhất là ở cơ sở, thể chế hoá
các quy định của Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụtrong thời kỳ mới. Thực hiện
nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận, đồn
thể và chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng theo hướng sát cơ sở, thực
chất, hiệu quả hơn. Chú trọng công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số,
đồng bào tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngồi. Đa dạng hố các hình thức tổ
chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với biến đổi cơ cấu xã hội và
sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội,
phối hợp với chính quyền các cấp và các cơ quan quản lý nhà nước ngày càng thực
hiện tốt hơn tính minh bạch và thơng tin cho nhân dân và xã hội các vấn đề nguồn
lực, sử dụng nguồn lực và kiểm sốt tính hiệu quả của sử dụng các nguồn lực xã hội.


17

Tăng cường công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội với các cơ quan nhà nước trong lắng nghe, tiếp thu, giải trình ý
kiến của nhân dân; kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chủ trương, đường lối của
Đảng liên quan đến đời sống nhân dân, giải quyết kịp thời, hiệu quả những điểm
nóng, phức tạp trong cộng đồng dân cư.
2.5. Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ
thống chính trị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ chiến sỹ lực
lượng vũ trang thực hiện cơng tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân
phải đa dạng, phong phú, khoa học, hiệu quả
Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại, cơ cấu xã hội - giai cấp,
xã hội - dân cư và cơ cấu ngành nghề có sự thay đổi lớn mang tính chất khơng thuần
nhất, kéo theo sự đa dạng về nhu cầu, lợi ích của xã hội, có sự phát triển nhiều nhu
cầu mới, phong phú, đa dạng, nên các hình thức tập hợp nhân dân cũng phải đa
dạng. Khơng những vậy, tuy trình độ dân trí của nhân dân được nâng cao, nhưng
vẫn cịn sự chênh lệch về trình độ chính trị, văn hố trong các tầng lớp nhân dân nên
phải có các hình thức tập hợp ở các cấp độ khác nhau cho phù hợp từng loại đối
tượng. Có như vậy mới phát huy được khả năng sáng tạo, phong phú của tất cả các
tầng lớp nhân dân. Hệ thống tổ chức cũng phải linh hoạt, phong phú, khoa học, hiệu
quả.
Nhà nước cần có chính sách cụ thể để tạo điều kiện vật chất và pháp lý cho
các đồn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả. Nhà nước tiếp tục thể chế hoá quy
định để các tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận.
Các cơ quan thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong xây dựng cơ chế nắm tình
hình, giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị, đề xuất chính đáng của nhân
dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt phương châm “Dân biết,


18

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tăng cường kiểm tra,
đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg, ngày 16-5-2016 của Thủ tướng
Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính

nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”, coi đó là một tiêu chí đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ hằng năm của từng cơ quan, đơn vị.

KẾT LUẬN
Đồng hành cùng lịch sử cách mạng dân tộc, công tác dân vận luôn là một bộ
phận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng.


19

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta ln quán triệt quan điểm “dân là gốc”, “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân”, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, động
lực của cách mạng và xác định công tác dân vận là vấn đề có tính chiến lược, ... nội
dung và phương thức cơng tác dân vận ngày càng được đổi mới, bám sát tình hình
thực tiễn, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân. Nhờ đó, các phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “Dân
vận khéo” được đẩy mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu, cổ vũ, động viên đông đảo
nhân dân hưởng ứng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn. Trên cơ sở đó, niềm tin
của nhân dân với Đảng, chế độ được củng cố, tăng cường; kinh tế - xã hội từng
bước phát triển vững chắc; đời sống của nhân dân khơng ngừng được cải thiện, nâng
cao; chính trị, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố và giữ
vững; vị thế nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có
những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; thời cơ, thuận lợi và khó khăn,
thách thức đan xen, tác động ảnh hưởng có mặt bất lợi đến tâm tư, quyền và lợi ích
của nhân dân.
Trong bối cảnh trên, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng phải coi
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, tạo được sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn vậy, các cấp ủy đảng tiếp tục
quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo công tác dân vận do Hội nghị
Trung ương 7 khóa XI và Đại hội XIII của Đảng đề ra. Đó là cội nguồn tạo nên sức mạnh
của Đảng và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5,
tr.700;


20

(2) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5,
tr.698;
(3) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.6,
tr.232;
(4) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t. 8, tr. 276;
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.169;
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.173;
(7) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.5, Nxb CTQG, H., 2000, tr.699;
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa VI, Nxb ST, H., 1990, tr.12;
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr.41;
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, t1, Hà Nội, 2021, tr.191;
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XIII, t1, Hà Nội, 2021, tr.193;

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 5, tập 6, tập 8;


21

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
XIII, tập 1, Nxb CTQG, H;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa VI, Nxb ST, H, 1990;
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2013;
5. Bùi Thị Minh Hồi: “Cơng tác Dân vận của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh - Tự hào và trách nhiệm trên chặng đường mới”;
6. Trương Thị Mai: “Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Giá trị
lý luận và thực tiễn cho công tác dân vận hiện nay”;
7. Phạm Thị Thanh Trà “Tiếp tục đổi mới và tăng cường cơng tác dân vận
chính quyền theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”;
8. Tài liệu môn học” Công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay
(dùng cho vác lớo cao học);
9. Bài giảng của giảng viên học phần “Công tác dân vận của Đảng trong
giai đoạn hiện nay”, lớp Cao học không chuyên K27, ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước tỉnh Sóc Trăng.



×