Họ và tên:
Môn học:
Lớp:
Số báo danh: 01
Đề bài: Nêu quan điểm của ÉmileDukheim, Kar Marx, Max Weber về tôn
giáo và từ đó rút ra những hiểu biết của cá nhân về môn học này?
Bài làm :
I/ Quan điểm của Emile Dukheim về tôn giáo:
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu nền tảng nào xây dựng nên lập trường về
tôn giáo của EsmileDukheim:
Émile Durkheim (1858-1917) là một nhà xã hội học có nhiều ảnh hưởng,
đặc biệt trên lĩnh vực xã hội học tôn giáo.Quan niệm của ông về tôn giáo chủ yếu
được đặt trên nền tảng của một nhà xã hội học.Đối với các nhà nghiên cứu xã hội
về các hiện tượng tôn giáo, điều mà họ thường quan tâm không phải để chứng
minh một hiện tượng tôn giáo nào đó đúng hay sai, cho bằng đánh giá những ảnh
hưởng của tôn giáo ấy lên cá nhân và xã hội.
Émile Durkheim, giáo sư đại học Sorbonne, đặc biệt nhấn mạnh đến quyền
lực ưu việt của xã hội vượt quá tất cả các thành viên hợp sức hình thành. Ông xem
xã hội như một hệ thống phức tạp gồm nhiều bộ phận tương thuộc vẫn còn ổn định
tương đối qua thời gian dài.Thậm chí, Durkheim còn nhìn nhận xã hội ‘giống như
thần’ so với những cá thể là các tín đồ của mình.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đương thời, nhà xã hội học người Pháp này
nhận thấy tôn giáo đang giảm dần tác dụng của nó, đặc biệt so với thời kỳ trung cổ
khi mà tôn giáo có những tác động rất lớn giúp hợp nhất Châu Âu. Chính mối bận
tâm này đã khiến ông bắt tay vào việc nghiên cứu tôn giáo ngõ hầu có thể tìm ra
lời giải đáp cho câu hỏi rất cấp thiết: “Có phải tôn giáo suy tàn đồng nghĩa với xã
hội tan rã?”
Lập trường về tôn giáo của Émile Durkheim
a. Tôn giáo là sự thánh thiêng hóa thực tại và đời sống con người
1
Émile Durkheim nhận diện các hiện tượng tôn giáo qua ba đặc tính căn bản
sau: niềm tin, lễ nghi và giáo hội. Trước hết, nghi thức chỉ có thể được xác định và
phân biệt với những thực hành thường nhật của con người, bằng bản chất đặc biệt
của đối tượng niềm tin.Chính trong niềm tin mà bản chất của đối tượng được biểu
hiện. Khi bàn về niềm tin, ông cho rằng các tôn giáo dù đơn giản hay phức tạp luôn
có cùng điểm chungở điểm phân loại sự vật. Sự vật thường được phân biệt nhau
thành hai thế giới khác biệt được biết với hai tên gọi: “trần tục” (profain) và
“thiêng liêng” (sacred). Những gì được hiểu là trần tục bao hàm tất cả mọi thứ
thông thường của đời sống. Trái lại, những vật thiêng liêng ám chỉ những gì được
định cho là phi thường, tạo cảm giác kính sợ hay sùng kính. Đây chính là nền tảng
cho niềm tin tôn giáo trong lịch sử con người. Các vật thiêng (vật tổ) ấy không
những ám chỉ về thượng đế hay ma quỷ mà còn dùng cho bất kể vật nào, miễn sao
nó được con người gán thêm cái thiêng liêng vào. Cuối cùng, Durkheim cho thấy
ranh giới giữa tôn giáo và ma thuật rất mong manh do bởi cả hai đều giống nhau ở
hai đặc tính: niềm tin và nghi thức. Chính vì vậy, ông cho rằng tính liên kết trong
giáo hội là đặc tính thứ ba, một điểm quan trọng giúp phân biệt tôn giáo với ma
thuật. Thực tế, các tôn giáo luôn bao hàm một cộng đồng chung giúp gắn bó những
tín đồ của nó qua những nghi thức được cử hành chung với nhau. Ba đặc tính này
đã được Durkheim hệ thống qua định nghĩa sau đây:
“Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và những
thực hành liên quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là được tách biệt, cấm
đoán.Những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng
đồng tinh thần, được gọi là giáo hội.”
b. Vai trò ưu việt của xã hội trên tôn giáo
Émile Durkheim nhìn nhận hoạt động của tập thể chính là yếu tố quan trọng
chi phối đời sống tôn giáo. Khi đề cập đến vấn đề này, Durkheim đưa ra lý do để lý
giải cho vai trò ưu việt của phụng tự trong tôn giáo. Ông cho rằng xã hội chủ yếu là
do có sự hợp tác giữa các thành viên và nó chỉ cho thấy nó hoạt động tốt khi các cá
nhân tụ họp và cùng nhau hoạt động. Ngay cả các ý nghĩa và tâm tình tập thể thì
2
cũng nhờ những phong trào biểu thị chúng từ bên ngoài. Theo cách nhìn nhận này,
hoạt động là yếu tố chi phối đời sống tôn giáo với lý do là nó bắt nguồn từ xã hội.
Thứ đến, Durkheim cho thấy lý tưởng tôn giáo chỉ là là sản phẩm của đời
sống xã hội.Lý tưởng tôn giáo sở dĩ được hình thành là vì khi đạt đến một mức độ
nào đó, đời sống tập thể sẽ khơi dậy tư duy tôn giáo.Nói cách khác, quá trình hình
thành lý tưởng không có gì là thần bí vì chúng bị phụ thuộc vào các điều kiện mà
con người có thể tri nhận.Một cách cụ thể, đây chỉ là một sản phẩm của đời sống
xã hội. Sở dĩ có thể kết luận như vậy là do đời sống tập thể sẽ khiến cho đạo đức
được đề cao và sau đó được diễn dịch thành lý tưởng. Lý tưởng này được phác họa
trong một đời sống mới, hay một thế giới chỉ hiện hữu trong tư duy con người
nhưng được gán cho một phẩm vị thần thiêng nào đó.
Lý tưởng niềm tin tôn giáo không chỉ có nền tảng từ xã hội mà còn là lý
tưởng của tập thể. Lý tưởng tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội vì khả năng bẩm sinh
con người không thể tạo ra lý tưởng. Đúng hơn, con người hình dung ra lý tưởng
nhờ thâu nhận trong lớp học của đời sống tập thể. Chính xã hội đã truyền cho con
người ý thức phải hướng lên một thế giới lý tưởng. Có thể nói, thế giới mới này
chính là do xã hội dựng lên khi tự xây dựng chính nó. Nói cách khác, một xã hội
không khi nào tự tạo ra chính mình mà không đồng thời tạo ra lý tưởng của nó; thế
nên tôn giáo đang diễn tả chính lý tưởng xã hội.
c. Những tác động mang tính xã hội của tôn giáo
Trước hết, tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sự liên
kết trong xã hội. Thật vậy, nhờ có các giá trị và tiêu chuẩn chung mà tôn giáo thúc
đẩy rất mạnh tinh thần đoàn kết các thành viên trong xã hội. Đúng hơn, sự đoàn kết
mà tôn giáo tạo ra là sự đoàn kết dựa trên niềm tin.Trong các xã hội thô sơ, vật tổ
là biểu tượng hữu hình của sự đoàn kết này. Durkheim cho rằng các ràng buộc tôn
giáo thường tốt hơn so với các thế lực khác ở tính liên kết các cá nhân trong xã hội,
mặc dầu các loại hình ngoài xã hội khác cũng có phần đóng góp đáng kể, đặc biệt
là tinh thần dân tộc.
Tôn giáo không chỉ đóng vai trò đoàn kết mà còn mang tính kiểm soát xã
hội.Mỗi xã hội đều có những phương cách khác nhau thúc đẩy tính tuân thủ trong
3
xã hội. Thực tế, có rất nhiều tiêu chuẩn văn hóa quan trọng đã được niềm tin tôn
giáo ban cho tính hợp pháp thiêng liêng. Tôn giáo mang tính kiểm soát trong
những trường hợp khi mà những người cầm quyền tự mình hay được thừa nhận
quyền hành cai trị như quyền của thần thánh.
Ngoài ra, tôn giáo còn có vai trò rất lớn trong việc tạo ra ý nghĩa và mục
đích cho đời sống con người. Cuộc sống đầy dẫy những đau khổ có thể khiến cho
con người đánh mất sự kiên nhẫn và đi đến tuyệt vọng. Vai trò của tôn giáo với
niềm tin vào một thế giới thần thiêng có tác dụng tạo ra cảm giác anủi và giải thoát
con người. Với sự trợ lực của niềm tin tôn giáo, con người được nâng đỡ để có thể
tiếp tục hy vọng hơn vào cuộc sống cũng như được tiếp thêm sức mạnh để vượt
qua những đau khổ trong cuộc đời.
3. Nhận định về lập trường tôn giáo của Émile Durkheim
a. Điểm mạnh
Durkheim tuy quan niệm thần tính nơi các tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội
và do con người gán cho các sự vật, nhưng ít ra ông cũng có cái nhìn tích cực về
tôn giáo.
Durkheim có một nhận định khá gần với tôn giáo khi đưa ra ba đặc tính căn
bản của một tôn giáo dựa trên niềm tin, nghi thức và cộng đoàn.
Durkheim nhấn mạnh tôn giáo ở khía cạnh ‘hoạt động’ cộng đồng qua
những nghi thức cũng giúp phản tỉnh cho thái độ sống đạo mang tính ‘hình thức’
nhưng thiếu chiều sâu.
Tính liên kết trong niềm tin là một ưu điểm không chỉ trong các tôn giáo mà
còn trong các tổ chức xã hội, khi các thành viên cùng chung chia một niềm tin nào
đó.
Durkheim phần nào đã đúng khi cho thấy có một mối liên hệ rất gần giữa
tôn giáo và văn hóa.Phải nói rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tôn giáo và văn
hóa.
b. Điểm yếu
4
Khi đặt nền tảng xã hội học để đánh giá về tôn giáo, Émile Durkheim đã giới
hạn tôn giáo ở tính ‘hiệu quả’ đối với xã hội thay vì nhìn sâu vào bản chất của tôn
giáo.
Trong quan điểm của mình, Durkheim đặt ưu thế quyền lực xã hội lên hàng
đầu, lên trên cả tôn giáo và cá nhân, thậm chí hy sinh cá thể cho tập thể.
Việc Durkheim đồng hóa lý tưởng xã hội với lý tưởng tôn giáo là một điều
không ổn, mặc dù cả hai cùng có lý tưởng nhưng thực ra chúng hoàn toàn biệt lập.
Durkheim thậm chí nâng văn hóa thành tôn giáo, nhưng tôn giáo hoàn toàn
có thể được diễn tả qua văn hóa.
Mẫu nghiên cứu về tôn giáo của Durkheim quá bó hẹp trong các tôn giáo thô
sơ nên không thể lột tả hết được các đặc điểm đa dạng được diễn tả trong các tôn
giáo khác.
Émile Durkheim đặt mình trong truyền thống thực chứng, có nghĩa là anh ta
nghĩ về nghiên cứu của ông về xã hội như quan công minh và khoa học.Ông đã
quan tâm sâu sắc trong các vấn đề của những tổ chức xã hội phức hợp hiện đại với
nhau.Tôn giáo, ông lập luận, là một biểu hiện của sự gắn kết xã hội.
Trong các nghiên cứu thực địa đã dẫn đến hình thức tiểu nổi tiếng của ông
về tôn giáo Life, Durkheim, một người Pháp thế tục, xem xét dữ liệu nhân chủng
học người Úc bản địa. Lãi suất cơ bản của mình là tìm hiểu các hình thức cơ bản
của đời sống tôn giáo cho tất cả các xã hội.Trong hình thức tiểu, Durkheim cho
rằng các totems các thổ dân tôn kính thực sự là biểu hiện của quan niệm riêng của
họ về chính xã hội.Điều này không chỉ đúng cho các thổ dân, ông lập luận, nhưng
cho tất cả các xã hội.
Tôn giáo, cho Durkheim, không phải là "tưởng tượng", mặc dù ông không
tước đoạt những gì nhiều người tín hữu tìm thấy điều cần thiết. Tôn giáo là rất thực
tế; nó là một biểu hiện của chính xã hội, và thực sự, không có xã hội mà không có
tôn giáo.Chúng tôi cảm nhận như là cá nhân một lực lượng lớn hơn mình, đó là
cuộc sống xã hội của chúng ta, và cho nhận thức rằng một khuôn mặt siêu
nhiên.Sau đó chúng tôi thể hiện bản thân tôn giáo trong nhóm, mà đối với
Durkheim làm cho sức mạnh lớn hơn tượng trưng.Tôn giáo là một biểu hiện của ý
5
thức tập thể của chúng tôi, đó là sự hợp nhất của tất cả các ý thức cá nhân của
chúng tôi, sau đó tạo ra một thực tế của riêng mình.
Theo đó, sau đó, những xã hội phức tạp hơn, chẳng hạn như các thổ dân Úc,
có hệ thống tôn giáo ít phức tạp, liên quan đến totems kết hợp với các gia tộc cụ
thể.Các phức tạp hơn một xã hội cụ thể, phức tạp hơn các hệ thống tôn giáo là.Khi
xã hội tiếp xúc với các xã hội khác, có một xu hướng cho các hệ thống tôn giáo để
nhấn mạnh phổ quát đến một mức độ lớn hơn và lớn hơn. Tuy nhiên, như phân
công lao động làm cho các cá nhân có vẻ quan trọng hơn (một chủ đề mà
Durkheim đối xử rộng rãi trong Sư đoàn nổi tiếng của ông về lao động trong xã
hội), các hệ thống tôn giáo ngày càng tập trung vào sự cứu rỗi cá nhân và lương
tâm.
Định nghĩa về tôn giáo của Durkheim, từ hình thức tiểu, như sau: "Một tôn
giáo là một hệ thống thống nhất của niềm tin và thực hành liên quan đến những
điều thiêng liêng, đó là để nói, mọi thứ để riêng ra và bị cấm - niềm tin và thực
hành đoàn kết thành một cộng đồng đạo đức duy nhất gọi là Giáo Hội, tất cả những
người tuân thủ chúng. " (Marx, giới thiệu) Đây là một định nghĩa chức năng của
tôn giáo, nghĩa là nó giải thích những gì tôn giáo nào trong đời sống xã hội: về cơ
bản, nó thống nhất xã hội. Durkheim định nghĩa tôn giáo như là một sự phân biệt
rõ ràng giữa thiêng liêng và trần tục, trong hiệu ứng này có thể được song song với
sự phân biệt giữa Thiên Chúa và con người.
II/ Đánh giá cá nhân :
Xã hội học tôn giáo là nghiên cứu của các tín ngưỡng, tập quán và hình thức
tổ chức tôn giáo sử dụng các công cụ và phương pháp của môn xã hội học.Điều tra
Mục tiêu này có thể bao gồm việc sử dụng cả hai phương pháp định lượng (khảo
sát, thăm dò, phân tích nhân khẩu học và điều tra dân số) và phương pháp tiếp cận
định tính như quan sát tham dự phỏng vấn, và phân tích các tài liệu lưu trữ, lịch sử
và phim tài liệu.
Xã hội học học hiện đại bắt đầu với việc phân tích các tôn giáo năm 1897
nghiên cứu Émile Durkheim của tỷ lệ tự sát trong các quần thể Công Giáo và Tin
Lành, một công việc nền tảng của nghiên cứu xã hội mà phục vụ để phân biệt xã
6
hội học từ những lĩnh vực khác, chẳng hạn như tâm lý. Các tác phẩm của Karl
Marx và Max Weber nhấn mạnh mối quan hệ giữa tôn giáo và cơ cấu kinh tế, xã
hội của xã hội.Cuộc tranh luận đương đại đã tập trung vào các vấn đề như thế tục
hóa, tôn giáo dân sự, và các sự cố kết của tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa và
đa văn hóa.Xã hội học đương đại của tôn giáo cũng có thể bao gồm xã hội học
không tôn giáo (ví dụ, trong việc phân tích các hệ thống niềm tin nhân bản thế tục).
Xã hội học về tôn giáo được phân biệt với triết lý của tôn giáo trong đó nó
không đặt ra để đánh giá tính hợp lệ của niềm tin tôn giáo.Quá trình so sánh nhiều
giáo điều mâu thuẫn có thể yêu cầu những gì Peter L. Berger đã mô tả như vốn có
"chủ nghĩa vô thần phương pháp luận".Trong khi đó, xã hội học về tôn giáo rộng
rãi khác với thần học trong giả thờ ơ với những siêu nhiên, các nhà lý thuyết có xu
hướng thừa nhận reification văn hóa xã hội thực hành tôn giáo.
Lịch sử và sự liên quan
Cổ điển, các nhà lý thuyết xã hội học chuyên đề của cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20 như Durkheim, Weber, và Marx đã rất quan tâm đến tôn giáo và ảnh
hưởng của nó đối với xã hội. Giống như những người của Plato và Aristotle từ Hy
Lạp cổ đại, và giác ngộ triết gia từ ngày 17 đến thế kỷ 19, những ý tưởng ấn định
bởi các nhà xã hội học tiếp tục được kiểm tra ngày hôm nay. Nhiều nhà xã hội học
nổi bật gần đây của tôn giáo bao gồm Peter L. Berger, Robert N. Bellah, Thomas
Luckmann, Rodney Stark, William Sims Bainbridge, Robert Wuthnow, Christian
Smith, và Bryan R. Wilson.
Durkheim, Marx và Weber đã rất phức tạp và phát triển lý thuyết về bản chất
và ảnh hưởng của tôn giáo. Trong số này, Durkheim và Weber thường khó hiểu,
đặc biệt là trong ánh sáng của thiếu bối cảnh và các ví dụ trong các văn bản chính
của họ. Tôn giáo được coi là một biến xã hội cực kỳ quan trọng trong công việc
của cả ba.
Karl Marx
"Marx là sản phẩm của sự giác ngộ, ôm gọi của nó để thay thế đức tin bằng
lý trí và tôn giáo của khoa học." Mặc dù ảnh hưởng của ông sau này, Karl Marx đã
không xem công việc của mình như là một phản ứng có đạo đức hay ý thức hệ đến
7
thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản ( như hầu hết các nhà bình luận sau này có). Những
nỗ lực của ông, trong tâm trí của mình, chỉ dựa vào những gì có thể được gọi là
khoa học ứng dụng. Marx đã thấy mình là xã hội học làm trung tính về mặt đạo
đức và lý thuyết kinh tế vì lợi ích của phát triển con người. Như Christiano nói,
"Marx đã không tin vào khoa học vì lợi ích của khoa học ... ông tin rằng ông cũng
đã tiến một lý thuyết mà sẽ ... là một công cụ hữu ích ... [trong] thực một biến động
cách mạng của hệ thống tư bản chủ nghĩa trong lợi của chủ nghĩa xã hội." (124)
Như vậy, mấu chốt của lập luận của ông là con người được hướng dẫn tốt nhất bởi
lý do. Tôn giáo, Marx tổ chức, là một trở ngại đáng kể với lý do, vốn che sự thật và
làm lạc lối theo.Như chúng ta sau này sẽ thấy, Marx coi sự tha hóa như trung tâm
của sự bất bình đẳng xã hội. Phản đề để chuyển nhượng này là tự do. Vì vậy, để
truyền bá tự do có nghĩa là để trình bày cá nhân với sự thật và cung cấp cho họ một
lựa chọn chấp nhận hoặc từ chối nó. Trong này, "Marx không bao giờ gợi ý rằng
tôn giáo phải bị cấm." (Christiano 126)
Trung tâm của lý thuyết Marx là tình hình kinh tế áp bức, trong đó ông cư
ngụ.Với sự nổi lên của nền công nghiệp châu Âu, Marx và đồng nghiệp của ông
Friedrich Engels đã chứng kiến và phản ứng với sự tăng trưởng của những gì ông
gọi là "giá trị thặng dư". View của Marx về chủ nghĩa tư bản đã thấy nhà tư bản
giàu càng giàu hơn và người lao động của họ nhận được nghèo hơn (khoảng cách,
khai thác, là "giá trị thặng dư"). Không chỉ là những công nhân bị bóc lột, nhưng
trong quá trình đó họ đã được tiếp tục tách ra từ các sản phẩm mà họ đã giúp tạo
ra. Bởi đơn giản là bán công việc của họ cho tiền lương, "công nhân đồng thời bị
mất kết nối với các đối tượng lao động và trở thành đối tượng bản thân người lao
động được giảm giá đến mức độ của một hàng hóa -. Một điều ..." (Ibid 125) Từ sự
cụ này đi kèm sự xa lánh.Các công nhân thường được dẫn dắt để tin rằng người đó
là một công cụ thay thế, và xa lánh đến điểm cực kỳ bất mãn.Ở đây, trong mắt của
Marx, tôn giáo bước vào.Chủ nghĩa tư bản sử dụng xu hướng của chúng ta đối với
tôn giáo như là một công cụ hoặc bộ máy nhà nước ý thức hệ để biện minh cho sự
tha hóa này. Kitô giáo dạy rằng những người thu thập của cải và quyền lực trong
cuộc sống này sẽ gần như chắc chắn không được khen thưởng tiếp theo ("nó là khó
8
khăn hơn cho một người giàu vào Nước Trời hơn là cho một con lạc đà đi qua con
mắt của một kim ... ") trong khi những người bị áp bức và đói nghèo trong cuộc
sống này, trong khi tu luyện tài sản tinh thần của họ, sẽ được khen thưởng trong
vương quốc của Thiên Chúa. Như vậy câu nói nổi tiếng của Marx - "tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân", vì nó giúp làm dịu họ và dulls giác quan của họ đến nỗi
đau của sự áp bức. Một số học giả gần đây đã lưu ý rằng đây là một mâu thuẫn
(hoặc biện chứng) ẩn dụ, ám chỉ đến tôn giáo như cả một biểu hiện của đau khổ và
một cuộc biểu tình chống lại sự đau khổ
Trong xã hội học, Weber sử dụng thuật ngữ tiếng Đức "Verstehen" để mô tả
phương pháp của ông giải thích về ý định và bối cảnh của hành động của con
người. Weber không phải là một nhà thực chứng - trong ý nghĩa rằng ông không tin
rằng chúng ta có thể tìm ra "sự kiện" trong xã hội học có thể liên kết nhân quả.
Mặc dù ông tin rằng một số báo cáo tổng quát về đời sống xã hội có thể được thực
hiện, anh không quan tâm đến yêu cầu thực chứng cứng, nhưng thay vì trong các
mối liên kết và trình tự, trong câu chuyện lịch sử và các trường hợp cụ thể.
Weber lập luận để làm cho ý nghĩa của hành động tôn giáo theo cách riêng
của nó. Một nhóm tôn giáo, cá nhân bị ảnh hưởng bởi tất cả mọi thứ, anh nói,
nhưng nếu họ yêu cầu để được diễn xuất trong các danh tôn giáo, chúng ta nên cố
gắng hiểu quan điểm của họ trên cơ sở tôn giáo đầu tiên.Weber cho tôn giáo tín
dụng cho hình ảnh của một người trên thế giới, và hình ảnh này của thế giới có thể
ảnh hưởng đến quan điểm của họ về lợi ích của họ, và cuối cùng chúng quyết định
hành động.
Đối với Weber, tôn giáo được hiểu tốt nhất vì nó đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho theodicy và cứu độ học. Con người đang gặp rắc rối, ông nói, với câu hỏi của
theodicy - câu hỏi như thế nào sức mạnh phi thường của một vị thần thánh có thể
được hòa giải với sự không hoàn hảo của thế giới mà ông đã tạo ra và cai trị. Mọi
người cần biết, ví dụ, tại sao có undeserved may mắn và đau khổ trên thế giới. Tôn
giáo có người tinh thần triết câu trả lời, hoặc trả lời cung cấp cơ hội để được cứu cứu trợ từ đau khổ, và ý nghĩa yên tâm. Việc theo đuổi của sự cứu rỗi, như việc
theo đuổi sự giàu có, trở thành một phần của động lực của con người.
9
Bởi vì tôn giáo giúp để xác định động lực, Weber tin rằng tôn giáo (và đặc
biệt Calvin) thực sự đã giúp để làm phát sinh chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ông
khẳng định trong tác phẩm nổi tiếng nhất và gây tranh cãi của mình, Tin Lành
Ethic và Thánh Linh của chủ nghĩa tư bản.
Trong Lành Ethic, Weber lập luận rằng chủ nghĩa tư bản phát sinh ở châu Âu
trong một phần vì cách thức niềm tin vào tiền định đã được giải thích bởi Thanh
giáo tiếng Anh hàng ngày. Thần học Thanh giáo được dựa trên khái niệm của phái
Calvin mà không phải ai cũng được cứu; chỉ có một số cụ thể của bầu người sẽ
tránh sa hỏa ngục, và điều này được dựa trên Sheerly ý định trước Thiên Chúa và
không phải trên bất kỳ hành động mà bạn có thể thực hiện trong cuộc sống này.
Học thuyết chính thức cho rằng người ta không bao giờ thực sự biết liệu ai trong số
những người được chọn.
Thực tế, Weber lưu ý, đây là khó khăn về mặt tâm lý: những người đã (dễ
hiểu) lo lắng cho biết liệu họ sẽ được muôn đời nguyền rủa hay không. Do đó các
nhà lãnh đạo Thanh giáo đã bắt đầu đảm bảo các thành viên rằng nếu họ bắt đầu
làm tốt về tài chính trong doanh nghiệp của họ, điều này sẽ là một dấu hiệu không
chính thức họ đã có chính của Thiên Chúa và là những lưu - nhưng chỉ khi họ sử
dụng thành quả lao động của họ tốt. Điều này cùng với chủ nghĩa duy lý ngụ ý của
độc thần dẫn đến sự phát triển của kế toán hợp lý và mưu tính toán của mình thành
công tài chính vượt quá những gì người ta cần chỉ đơn giản là để sống - và điều
này là "tinh thần của chủ nghĩa tư bản." Qua thời gian, những thói quen kết hợp với
tinh thần của chủ nghĩa tư bản mất đi ý nghĩa tôn giáo của họ, và theo đuổi lợi
nhuận hợp lý đã trở thành mục tiêu riêng của mình.
Luận án Protestant Ethic đã được nhiều phê bình, tinh luyện và tranh cãi,
nhưng vẫn là một nguồn sinh động của cuộc tranh luận lý thuyết xã hội học về tôn
giáo. Weber cũng đã làm công việc đáng kể trong các tôn giáo trên thế giới, bao
gồm cả Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Trong kiệt tác Kinh tế và Xã hội Weber phân biệt ba loại lý tưởng của thái
độ tôn giáo:
1. bay thế giới thần bí
10
2. chối thế giới khổ hạnh
3. khổ hạnh bên trong thế gian
Ông cũng tách diệu như hoạt động pre-tôn giáo.
Nhân học biểu tượng và hiện tượng
Nhân học biểu tượng và một số phiên bản của hiện tượng học cho rằng tất cả
mọi người yêu cầu bảo đảm rằng thế giới này là an toàn và ra lệnh diễn ra - đó là,
họ có nhu cầu cho an ninh bản thể học. Vì vậy, tất cả các xã hội có các hình thức
của kiến thức mà thực hiện nhiệm vụ tâm lý này. Sự bất lực của khoa học để cung
cấp sự thoải mái về tâm lý và tình cảm giải thích sự hiện diện và ảnh hưởng của
kiến thức không khoa học trong cuộc sống của con người, ngay cả trong thế giới
hợp lý.
Thuyết chức năng: Không giống như nhân chủng học Symbolic và hiện
tượng học, điểm thuyết chức năng để các lợi ích cho tổ chức xã hội mà hệ thống
niềm tin phi khoa học cung cấp và có kiến thức khoa học không giao. Hệ thống
niềm tin được coi là đáng khích lệ trật tự xã hội và ổn định xã hội theo những cách
hợp lý dựa trên kiến thức có thể không. Từ quan điểm này, sự tồn tại của các tài
khoản không hợp lý của thực tại có thể được giải thích bởi những lợi ích mà họ
cung cấp cho xã hội.
Chủ nghĩa duy lý: Duy lý phản đối các phương pháp tiếp cận mang tính hiện
tượng và chức năng luận, lập luận rằng họ không hiểu tại sao các tín hữu trong hệ
thống các kiến thức khoa học lại không nghĩ rằng họ nói sự thật và rằng các ý
tưởng của họ là đúng, mặc dù khoa học đã chỉ ra chúng là sai. Chúng tôi không thể
giải thích hình thức của kiến thức về những tác động tâm lý hoặc xã hội có lợi mà
một người quan sát bên ngoài có thể nhìn thấy chúng như sản xuất. Chúng ta phải
nhìn vào điểm nhìn của những người tin vào họ. Mọi người không tin vào Thiên
Chúa, thực hành ma thuật, hoặc nghĩ rằng phù thủy gây ra bất hạnh bởi vì họ nghĩ
rằng họ đang cung cấp cho mình với trấn an tâm lý, hoặc để đạt được sự gắn kết
lớn hơn đối với các nhóm xã hội của họ. Họ làm như vậy bởi vì họ nghĩ rằng niềm
tin của mình là chính xác - mà họ nói với họ sự thật về cách thức thế giới. Nhà văn
duy lý thế kỷ XIX, phản ánh tinh thần tiến hóa của thời đại của họ, có xu hướng để
11
giải thích sự thiếu hợp lý và sự thống trị của niềm tin sai lầm trong thế giới thời
tiền hiện đại về các thiết bị tinh thần thiếu của người dân của họ. Những người như
vậy được coi là sở hữu tiền hợp lý, hoặc không hợp lý, tâm lý. Tư duy duy lý của
thế kỷ XX thường bị từ chối một quan điểm như vậy, lý luận rằng người tiền hiện
đại không có tâm trí kém hơn, nhưng thiếu các điều kiện xã hội và văn hoá cần
thiết để thúc đẩy chủ nghĩa duy lý. Duy lý xem lịch sử của xã hội hiện đại như sự
gia tăng của tri thức khoa học và tiếp theo là giảm niềm tin phi lý. Một số những
niềm tin - ma thuật, phù thủy - đã biến mất, trong khi những người khác - chẳng
hạn như là tôn giáo - đã trở thành thứ yếu. Quan điểm duy lý này đã dẫn đến lý
thuyết thế tục hóa các loại
Phân loại các nhóm tôn giáo:
Một loại hình phổ biến trong các nhà xã hội học, các nhóm tôn giáo được
phân loại như ecclesias, giáo phái, giáo phái, hay tà giáo (ngày nay thường được đề
cập đến trong học bổng như các phong trào tôn giáo mới). Lưu ý rằng nhà xã hội
học cho những lời định nghĩa chính xác mà khác với cách chúng được sử dụng phổ
biến.Đặc biệt, nhà xã hội học sử dụng những từ 'sùng bái' và 'giáo phái' mà không
có ý nghĩa tiêu cực, mặc dù việc sử dụng phổ biến của những từ này thường trở
nên xấu thêm.
Nghiên cứu:
Trong nền dân chủ thịnh vượng, tỷ lệ cao hơn của niềm tin và sự thờ phượng
của một đấng sáng tạo có tương quan với mức giá cao hơn các vụ giết người, thanh
thiếu niên và người lớn tử vong sớm, tỷ lệ lây nhiễm STD, teen mang thai, và phá
thai. Là tác giả Stephen Luật diễn giải trong cuốn sách Chiến tranh Đối với Tâm
của trẻ em, "Nền dân chủ thịnh vượng hữu thần nhất, Mỹ, là một ngoại lệ, nhưng
không theo cách Franklin dự đoán. Hoa Kỳ là gần như luôn luôn là rối loạn chức
năng nhất của nền dân chủ phát triển, đôi khi một cách ngoạn mục như vậy ...
Quan điểm của Hoa Kỳ như một "sáng thành phố trên đồi" với phần còn lại của thế
giới đang làm sai lệch khi nói đến các biện pháp cơ bản của y tế xã hội. "
Nghiên cứu cũng lưu ý rằng nó là thế tục hơn, xã hội ủng hộ thuyết tiến hóa
đến gần với "nền văn hóa của sự sống". Các tác giả kết luận rằng sự thành công
12
hợp lý của nền dân chủ phi tôn giáo như Nhật Bản, Pháp và Scandinavia đã bác bỏ
ý tưởng rằng các xã hội vô thần bị thiên tai. Họ thêm "mâu thuẫn với những kết
luận này đòi hỏi phải thể hiện một liên kết tích cực giữa chủ thuyết hữu thần và
điều kiện xã hội trong thế giới đầu tiên với một cơ thể lớn tương tự của dữ liệu -.
Một khả năng nghi ngờ trong quan điểm về xu hướng quan sát" .BBC tin tức báo
cáo về một nghiên cứu đã cố gắng sử dụng mô hình toán học ('động lực phi tuyến')
để dự đoán định hướng tôn giáo tương lai của quần thể. Nghiên cứu cho thấy rằng
tôn giáo là hướng về phía 'tuyệt chủng' ở các quốc gia khác nhau, nơi nó đã được
về việc từ chối: Australia, Áo, Canada, Cộng hòa Séc, Phần Lan, Ireland, Hà Lan,
New Zealand và Thụy Sĩ. Mô hình này cho rằng, không chỉ số lượng thay đổi của
những người có niềm tin nhất định, nhưng cũng cố gắng để gán các giá trị tiện ích
của một niềm tin theo từng quốc gia.
Thế tục hóa và tôn giáo dân sự:
Liên quan đến các quy trình hợp lý hóa gắn liền với sự phát triển của tính
hiện đại, nó được dự đoán trong các tác phẩm của nhiều nhà xã hội học kinh điển
tôn giáo đó sẽ giảm.Bất chấp những tuyên bố của các nhà lý thuyết cổ điển và
nhiều nhà xã hội học ngay sau thế chiến II, nhiều nhà lý luận phê bình đương đại
đã secularisation luận án, lập luận rằng tôn giáo vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống của các cá nhân trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ, đặc biệt, đi lễ
nhà thờ vẫn tương đối ổn định trong 40 năm qua. Tại châu Phi, sự xuất hiện của
Kitô giáo đã xảy ra với một tốc độ cao.Trong khi Phi có thể yêu cầu bồi thường
khoảng 10 triệu người Kitô hữu trong năm 1900, ước tính gần đây đưa con số đó
gần 200 triệu USD.Sựtrỗi dậy của Hồi giáo như là một tôn giáo lớn trên thế giới,
đặc biệt là ảnh hưởng mới tìm thấy ở phương Tây, là một sự phát triển đáng
kể.Hơn nữa, các đối số có thể được trình bày về các khái niệm về tôn giáo dân sự
và hệ thống tín ngưỡng thế giới mới. Trong ngắn hạn, thế tục hóa giả định như một
sự suy giảm trong tôn giáo có thể dường như là một huyền thoại, tùy thuộc vào
định nghĩa của nó và định nghĩa về phạm vi của nó. Ví dụ, một số nhà xã hội học
đã lập luận rằng đi lễ nhà thờ ổn định và niềm tin tôn giáo cá nhân có thể cùng tồn
tại với sự suy giảm ảnh hưởng của các chức sắc tôn giáo về các vấn đề xã hội hay
13
chính trị. Ngoài ra, sự tham gia thường xuyên, hay liên kết không nhất thiết phải
chuyển sang một hành vi theo lời dạy giáo lý của họ. Nói cách khác, có thể có vẫn
còn là một trong số ngày càng tăng của các thành viên nhưng nó không có nghĩa là
tất cả các thành viên đều trung thành bước theo các quy tắc của hành vi đạo đức dự
kiến. Trong ý nghĩa đó, tôn giáo có thể được coi là suy giảm vì khả năng suy yếu
của nó để ảnh hưởng đến hành vi.
Bryan Wilson: Wilson là một nhà văn trên thế tục hóa đang báo động về bản
chất của cuộc sống trong một xã hội bị chi phối bởi những kiến thức khoa học.
Công việc của ông là trong truyền thống của Max Weber, người đã nhìn thấy xã hội
hiện đại là nơi trong đó hợp lý chi phối cuộc sống và suy nghĩ. Weber thấy hợp lý
là có liên quan với việc xác định nguyên nhân và đề ra các hiệu quả kỹ thuật, với
một tập trung vào cách thức làm việc và có tính toán làm thế nào họ có thể được
thực hiện để làm việc hiệu quả hơn, chứ không phải là lý do tại sao họ là như họ
đang có. Theo Weber, các thế giới hợp lý như vậy là vỡ mộng. Câu hỏi hiện sinh về
những bí ẩn của sự tồn tại của con người, về chúng ta là ai và tại sao chúng tôi
đang ở đây, đã trở nên ít hơn và ít hơn đáng kể.
Wilson khẳng định rằng hệ thống không khoa học - và những tôn giáo nói
riêng - đã trải qua một sự suy giảm không thể đảo ngược trong ảnh hưởng. Ông đã
tham gia vào một cuộc tranh luận dài với những người tranh cãi về luận án thế tục
hóa, một số trong đó lập luận rằng các tôn giáo truyền thống, chẳng hạn như những
nhà thờ trung tâm, đã bị dời bởi một sự phong phú của những người phi truyền
thống, chẳng hạn như các giáo phái và các giáo phái khác nhau các loại. Số khác
lại cho rằng tôn giáo đã trở thành một cá nhân, chứ không phải là một tập thể, mối
tổ chức.Vẫn còn nhiều người khác cho rằng lựa chọn thay thế chức năng tôn giáo
truyền thống, chẳng hạn như chủ nghĩa dân tộc và lòng yêu nước, đã xuất hiện để
thúc đẩy tình đoàn kết xã hội.Wilson không chấp nhận sự hiện diện của một lượng
lớn các hình thức không khoa học về ý nghĩa và kiến thức, nhưng ông lập luận
rằng điều này thực sự là bằng chứng của sự suy giảm của các tôn giáo. Sự gia tăng
về số lượng và sự đa dạng của hệ thống như vậy là bằng chứng của việc loại bỏ các
tôn giáo từ vị trí cấu trúc trung tâm mà nó chiếm trong thời kỳ tiền hiện đại.
14
Ernest Gellner: Không giống như Wilson và Weber, Gellner (1974) thừa
nhận rằng có những mặt hạn chế để sống trong một thế giới mà chính dạng của tri
thức là hạn chế đến sự kiện chúng ta có thể làm được gì và cung cấp cho chúng tôi
không có hướng dẫn về cách sống và cách tổ chức mình.Về vấn đề này, chúng tôi
còn tồi tệ hơn so với những người tiền hiện đại, có kiến thức, trong khi không
chính xác, ít nhất là cung cấp cho họ với các quy định cho cuộc sống.Tuy nhiên,
Gellner khẳng định rằng những nhược điểm được cho đến nay nặng hơn bởi những
tiến bộ rất lớn về công nghệ xã hội hiện đại đã có kinh nghiệm như là một kết quả
của việc áp dụng các kiến thức khoa học.
Gellner không tuyên bố rằng kiến thức không khoa học đang trong quá trình
chết ra ngoài. Ví dụ, ông chấp nhận rằng các tôn giáo bằng nhiều hình thức tiếp tục
thu hút tín đồ. Ông cũng thừa nhận rằng các hình thức khác của niềm tin và ý
nghĩa, chẳng hạn như những người được cung cấp bởi nghệ thuật, âm nhạc, văn
học, văn hóa phổ biến (một hiện tượng đặc biệt hiện đại), lấy thuốc, phản kháng
chính trị, và như vậy là quan trọng đối với nhiều người. Tuy nhiên, ông từ chối giải
thích theo thuyết tương đối của tình trạng này - mà trong tính hiện đại, kiến thức
khoa học chỉ là một trong nhiều tài khoản của sự tồn tại, tất cả đều có giá trị như
nhau. Điều này là bởi vì, cho Gellner, biện pháp thay thế cho khoa học là không
đáng kể sâu sắc kể từ khi họ có kỹ thuật bất lực, như trái ngược với khoa học. Ông
thấy rằng mối bận tâm hiện đại với ý nghĩa và là một sự sa ngã mà chỉ có thể vì
kiến thức khoa học đã cho phép thế giới chúng ta tiến cho đến nay. Không giống
như những người ở thời kỳ tiền hiện đại, có trọng ưu tiên là để có được giữ của
kiến thức khoa học để bắt đầu phát triển, chúng ta có thể đủ khả năng để ngồi lại
trong sự sang trọng của thế giới cũng bổ nhiệm của chúng tôi và suy ngẫm những
câu hỏi như vậy bởi vì chúng ta có thể cho cấp các loại khoa học trên thế giới đã
xây dựng cho chúng tôi.
Michel Foucault: Foucault là một hậu cấu trúc luận đã nhìn thấy sự tồn tại
của con người như bị lệ thuộc vào hình thức của kiến thức - discourses- mà làm
việc như ngôn ngữ. Ngôn ngữ / ngôn xác định thực tế cho chúng ta.Để suy nghĩ gì
cả, chúng tôi buộc phải sử dụng những định nghĩa này.Các kiến thức chúng tôi có
15
về thế giới được cung cấp cho chúng tôi bằng các ngôn ngữ và thuyết chúng ta gặp
phải trong thời gian và địa điểm chúng ta đang sống cuộc sống của chúng tôi.Như
vậy, chúng ta là ai, những gì chúng ta biết là đúng, và những gì chúng tôi nghĩ diễn
ngôn xây dựng.
Foucault định nghĩa lịch sử như những thăng trầm của bài giảng.Thay đổi xã
hội là những thay đổi trong hình thức của kiến thức hiện hành. Công việc của các
nhà sử học là để vạch ra những thay đổi này và xác định các lý do cho họ. Không
giống như các nhà duy lý, tuy nhiên, Foucault đã thấy không có yếu tố tiến bộ
trong quá trình này.Để Foucault, sự xuất hiện của các diễn ngôn có liên quan với
sự kiểm soát và điều tiết của cơ thể những gì là khác biệt về tính hiện đại là. Theo
Foucault, sự nổi lên của các diễn ngôn cơ thể làm trung tâm thiết phải liên quan
đến một quá trình thế tục hóa. Giảng Pre-hiện đại đã giúp tôn giáo, nơi mà mọi thứ
đã được định nghĩa như là tốt và cái ác, và đời sống xã hội đã được tập trung vào
các khái niệm này.Với sự xuất hiện của các xã hội đô thị hiện đại, bài giảng khoa
học đã qua, và khoa học y tế là một yếu tố quan trọng của kiến thức mới này.Cuộc
sống hiện đại vì ngày càng bị kiểm soát y tế - cái nhìn y tế, như Foucault gọi nó.
Sự gia tăng quyền lực của khoa học và y học nói riêng, đồng thời với việc
giảm dần các sức mạnh của hình thức tôn giáo của tri thức. Ví dụ, bình thường và
lệch lạc đã trở thành chi tiết của một vấn đề sức khỏe và bệnh tật hơn về thiện và
ác, và các bác sĩ đã qua từ linh mục vai trò của việc xác định, quảng bá, và chữa
bệnh lệch lạc.
Toàn cầu hóa: Xã hội học về tôn giáo tiếp tục phát triển trên toàn thế giới, cố
gắng để hiểu được mối quan hệ giữa tôn giáo và toàn cầu hóa.Hai cách tiếp cận cũ
để toàn cầu hóa bao gồm lý thuyết hiện đại hóa, một dẫn xuất chức năng luận, và
lý thuyết hệ thống thế giới, một cách tiếp cận chủ nghĩa Mác.Một trong những sự
khác biệt giữa các lý thuyết này là liệu họ xem nghĩa tư bản là tích cực hoặc có vấn
đề.Tuy nhiên, cả hai giả định rằng hiện đại hóa và chủ nghĩa tư bản sẽ giảm bớt các
tổ chức tôn giáo.
Ngược lại, khi toàn cầu hóa tăng cường nhiều nền văn hóa khác nhau bắt
đầu nhìn vào các tôn giáo khác nhau và kết hợp các niềm tin khác nhau vào xã
16
hội.Giải thích mới nổi lên mà nhận ra sự căng thẳng. Ví dụ, theo Paul James và
Peter Mandaville: Tôn giáo và toàn cầu hóa đã được đan xen với nhau kể từ khi đế
quốc đầu cố gắng để mở rộng tầm với của họ qua những gì họ cảm nhận là thế giới
không gian.Quá trình toàn cầu thực vũ trụ luận của tôn giáo - trong đó có các quan
niệm truyền thống của phổ quát - các góc của thế giới, trong khi các vũ trụ luận
hợp thức hóa quá trình toàn cầu hóa.Năng động này liên quan đã tiếp tục cho đến
nay, nhưng với việc thay đổi và đôi khi mới và tăng cường các mâu thuẫn.
17