Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận phân tích tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Nguyễn Ái Quốc và sự vận dụng của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.56 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
----------------------------------------

TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

VÌ SAO NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI
LÀM VIỆC”? NHỮNG NỘI DUNG CẦN KHAI THÁC VỀ XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Họ tên học viên: Nguyen Van E
Mã số học viên: ……………..
Lớp: Cao học XDĐ & CQNN, hệ …………………..

HÀ NỘI – 202…


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 03
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 03
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...........................................................................
04
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 04


5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận ........................................................... 04
6. Kết cấu của tiểu luận ........................................................................................... 04
NỘI DUNG:
Chương 1: VÌ SAO NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI
LÀM VIỆC” VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM ................ 05
1.1. Vì sao Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ......................... 05
1.2. Những nội dung cơ bản của tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” .......................... 07
Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CẦN KHAI THÁC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM
VIỆC” ....................................................................................................................... 09
2.1. Giá trị của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ...................................................... 09
2.2. Những nội dung cần khai thác về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước trong
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ............................................................................... 11
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................................. 18


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa ra đời; dân tộc Việt Nam được tự do, được làm chủ vận mệnh đất nước.
Tuy nhiên, cũng ngay sau đó đất nước ta lại phải đối mặt với mn vàn khó khăn thử
thách từ các thế lực đế quốc muốn xâm chiếm, bóc lột mọi nguồn lực của đất nước
một lần nữa.
Là Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước, Đảng ta phải đối đầu với nạn nghèo
nàn, lạc hậu, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm ...; cộng với sự non trẻ của chính
quyền mới đã đặt cách mạng nước ta trong tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi
tóc”.

Từ thực tiễn đó, địi hỏi vai trị lãnh đạo của Đảng ta là vô cùng cấp thiết. Làm
sao để thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ để tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh tổ
chức Đảng và toàn dân tộc, hoàn thành sứ mệnh cách mạng.
Để giải đáp những câu hỏi lớn do thực tiễn cách mạng nước ta lúc bấy giờ, tại
Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và xuất bản tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” vào tháng 10/1947 với bút danh X.Y.Z. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một cách hệ thống tư tưởng đổi mới, mang tính khái
quát cao về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong điều kiện Ðảng cầm quyền.
Để góp phần tìm hiểu “Sửa đổi lối làm việc” ở khía cạnh xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, tơi chọn chủ đề: “Vì sao Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc? Những khía cạnh cần khai thác về xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước” làm bài tiểu luận điều kiện của mình cho mơn học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và chính quyền
nhà nước”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


4

2.1. Mục đích của tiểu luận: Trên cơ sở khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung
chủ yếu của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tiểu luận phân tích các nội dung chủ
yếu cần khai thác từ tác phẩm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận: Làm rõ hoàn cảnh ra đời, các nội dung cần khai
thác từ tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu hoàn cảnh ra đời, các nội
dung cần khai thác từ tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những vấn đề chủ yếu về xây
dựng Đảng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về xây dựng chính Đảng
Cộng sản để thực hiện niệm vụ của tiểu luận.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương
pháp lịch sử, phân tích để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, cơng
chức về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó phát huy trách nhiệm
của mình góp phần thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Việc nhận thức đúng vị trí, vai trị, tầm quan trọng của
cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta sẽ giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phát huy tốt
tinh thần, trách nhiệm của mình trong cơng tác xây dựng tổ chức đảng và hệ thống


5

chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm
vụ được giao, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận
gồm 2 chương, 4 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1
VÌ SAO NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”
VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1.1. Vì sao Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”

Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945 ở nước ta thàng cơng, cũng có nghĩa là
sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, tình hình thế giới và trong nước ta có nhiều
thay đổi và diễn biến nhanh chóng. Trên thế giới, các vấn đề liên quan đến địa chính
trị có sự thay đổi cơ bản. Hệ thống các nước đế quốc trên toàn thế giới bị chấn động;
Đức, Ý, Nhật bị quân đồng minh đánh bại; Anh, Pháp bị suy yếu trên nhiều thuộc địa.
Riêng Mỹ, nhờ không bị thiệt hại nhiều trong chiến tranh và các thuận lợi khách quan
khác, đã lớn mạnh, trở thành một “sen đầm” quốc tế, lôi kéo lực lượng phản cách
mạng chống lại các lực lượng cách mạng. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã
hình thành và ngày càng lớn mạnh - đứng đầu là Liên Xô, là chỗ dựa và niềm cổ vũ
lớn lao cho phong trào cách mạng đấu tranh giành độc lập trên thế giới, tạo thành hai
hệ thống chính trị cơ bản đối lập trên thế giới – hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa
và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Cũng chính vì vậy, những mâu thuẫn trên thế
giới diễn ra phức tạp và ngày càng gay gắt; Việt Nam là một bộ phận của thế giới nên
đã chịu nhiều tác động từ sự đối đầu gay gắt này.
Ở trong nước ta, sau Cách mạng Tháng tám năm 1945 thàng công không lâu,
cuối tháng Tám năm 1945, lấy danh nghĩa quân Đồng minh, gần 20 vạn quân Tưởng,
theo gót là lực lượng phản động Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng
đồng minh Hội ồ ạt kéo vào miền Bắc nước ta. Chúng ráo riết thực hiện âm mưu lật


6

đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động. Đằng sau quân Tưởng là Mỹ
với dã tâm đặt Đông Dương dưới chế độ “ủy trị” của họ. Ở miền Nam, cũng với danh
nghĩa quân Đồng minh, quân Anh vào giải giáp quân Nhật, núp sau quân Anh là quân
Pháp, mục đích là thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ 2. Mặc dù Đảng,
Chính phủ và Bác Hồ đã tiến hành đàm phán với Chính phủ Pháp, với các nước đồng
minh, nhưng không ngăn chặn được cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ngày 23/9/1945,
quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Vậy là, cả dân tộc phải chuẩn bị bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống

thực dân Pháp xâm lược. Chưa bao giờ trên đất nước ta cùng một lúc có nhiều kẻ thù
hung bạo và xảo quyệt như lúc này. Vận mệnh nước Việt Nam mới “như ngàn cân
treo sợi tóc”.
Trước tình hình trên, tháng 12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến. Trong lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: nhân dân Việt
Nam quyết lấy tồn bộ tài sản và tính mạng của mình để bảo vệ nền độc dân tộc, tự
do của Tổ quốc; “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
khơng chịu làm nơ lệ”. Do đó, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao đạo đức
cách mạng, chấp nhận hy sinh gian khổ, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của
Đảng lên trên hết.
Tuy nhiên, trong nội bộ Đảng, chính quyền, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở,
đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và
phương pháp công tác, đặc biệt là làm trái phép nước, cậy thế hủ hoá, tư túng, chia rẽ,
kêu ngạo … Điều này đã ảnh hưởng xấu đến bản chất tốt đẹp của Đảng ta, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là nguy cơ của Đảng cầm quyền. Vì vậy, với
cái nhìn sâu xa và hết sức thực tế, liên tục trong thời gian ngắn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi thư cho chính quyền, các bộ ngành, địa phương đề cập đến những
khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên. Người cho rằng, cần phải “sửa đổi lối
làm việc” cho tất cả cán bộ, đảng viên vừa để chỉnh đốn, củng cố Đảng, vừa để nâng
cao phẩm chất, năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo của Đảng và tạo niềm tin của


7

nhân dân đối với Đảng. Nhưng, rất tiếc, những nhắc nhỡ, cảnh bảo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khơng được quán triệt và thực hiện nghiêm túc.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, tháng 10/1947 tại chiến khu Việt Bắc, với
bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nhằm
làm tài liệu cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao nhận thức lý
luận, tư tưởng tình cảm, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong của người cán bộ

cách mạng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong tình hình,
nhiệm vụ mới để chèo lại con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
1.2. Những nội dung cơ bản của tác phẩm “sửa đổi lối làm việc”
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đề cập đến các vấn đề quan trọng của công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phương thức, phương pháp lãnh
đạo và công tác cán bộ của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo kháng
chiến, kiến quốc. Tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
rất ngắn gọn, khái quát 6 nội dung lớn, hệ trọng, đó là:
Thứ nhất, về phê bình và sửa chữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng ta
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đã có kết quả vẻ vang. Nhưng
trong điều kiện Đảng đã trở thành một đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân kháng
chiến, thì Đảng phải nhận thức và thực hiện có hiệu quả một nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng Đảng là phê bình và tự phê bình. Phải khắc phục cho được tình trạng hữu
khuynh, né tránh cũng như thiếu xây dựng trong phê bình, thiếu trung thực trong tự
phê bình. Trong phê bình và tự phê bình phải có hiệu quả, chống thói trù dập, bệnh
hẹp hịi, địa phương chủ nghĩa; phê bình và tự phê bình là động lực của sự phát triển.
Thứ hai, mấy điều kinh nghiệm. Hồ Chí Minh nêu lên 6 kinh nghiệm từ thực
tế hoạt động, công tác để cán bộ, đảng viên làm tốt cơng việc của mình. Những kinh
nghiệm này đều gắn với yêu cầu khắc phục các khuyết điểm đã được chỉ ra ở phần
phê bình và sửa chữa nêu trên, trong đó, có ba “hạng” khuyết điểm lớn mà đảng viên
và cán bộ phải sửa chữa, khắc phục, đó là: (1) Khuyết điểm về tư tư tưởng, đó là
bệnh chủ quan. (2) Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngồi Đảng, đó là bệnh


8

hẹp hịi, ích kỷ. (3) Khuyết điểm về cách nói và cách viết, đó là bệnh ba hoa: hay
chơi chữ, dài dịng nhưng nội dung thì rỗng tuếch.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là 3 chứng bệnh rất nguy hiểm, nếu khơng
chữa ngay, thì có hại vơ cùng. Ba chứng bệnh này là kẻ địch bên trong, là bạn đồng

minh của kẻ địch bên ngồi. Vì vậy, mỗi đảng viên và cán bộ phải ra sức đề phòng
những kẻ địch đó, phải chữa những chứng bệnh đó.
Thứ ba, về tư cách và đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao
vai trị của đạo đức cách mạng và việc tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên, khắc
phục cho được các bệnh tham ô, lãng phí. Theo Hồ Chí Minh, người đảng viên, cán
bộ muốn trở nên người cách mạng chân chính, khơng có gì khó, quan trọng là phải
thực hiện tốt 5 điều răn: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Thứ tư, về vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ ra những vấn đề thuộc về vai trò
quyết định của đội ngũ cán bộ và phải đổi mới cách đánh giá, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ. Sử dụng cán bộ là sử dụng người có tài, có đức, có cách phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Thứ năm, về cách lãnh đạo. Hồ Chí Minh chỉ ra phương pháp, cách thức để
cán bộ, đảng viên thực hiện tốt vai trò phụ trách (quản lý) công việc và lãnh đạo đối
với quần chúng nhân dân. Theo Người, vấn đề cách lãnh đạo và đổi mới phương thức
lãnh đạo phải theo hướng ra quyết định đúng và kịp thời, tổ chức thực hiện đúng,
khéo, giám sát, kiểm tra chặt chẽ, đúng đắn.
Thứ sáu, về chống thói ba hoa. Đây là một trong ba “hạng” khuyết điểm lớn
của đảng viên và cán bộ phải sửa chữa, khắc phục, vì nó gây tác hại khơng nhỏ đối
với công việc. Để sửa chữa, khắc phục bệnh này, điều quan trọng là phải quan tâm
công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ lý luận, sâu sát thực tiễn. Cơng tác
tun truyền, giáo dục phải mang tính thuyết phục, nói đi đơi với làm.
Những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh nói trên trong “Sửa đổi lối làm
việc” đã được hình thành trong một thời gian hơn hai năm kể từ khi thành lập chính
quyền cách mạng, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đó là thời gian Đảng ta


9

bắt đầu thực hiện vai trò, nhiệm vụ cầm quyền, lãnh đạo quần chúng nhân dân hiện
thực mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua tác phẩm “sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch

Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư
tưởng, tổ chức, phong cách, phương pháp công tác. Người xem đây là nhiệm vụ vừa
thường xuyên, vừa lâu dài, vừa cấp bách như là một quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng.
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG CẦN KHAI THÁC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH
QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”
2.1. Giá trị của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong thời
kỳ đất nước đang “ngàn cân treo sợi tóc”; các thế lực phản động đã gửi cho Chính
phủ ta ba tối hậu thư buộc hạ vũ khí. Trước thái độ đó của kẻ thù đã buộc chúng ta
cầm súng để bảo vệ độc lập và chính quyền non trẻ của mình. Trong bối cảnh cực kỳ
khó khăn, gian khổ đó, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kịp thời đáp ứng những yêu cầu nói trên.
Trên cơ sở học tập quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nội dung mang tính
chuẩn mực của tác phẩm, toàn Đảng và cán bộ, đảng viên đã soi rọi vào đó để thấy
các khyếm khuyết của mình để có các biện pháp sửa chữa nhằm xây dựng đảng trong
sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân, đủ sức chiến đấu với thù trong, giặc
ngoài, đủ lực để diệt giặc đói, giặc dốt, đủ trí tuệ, đạo đức để lãnh đạo toàn dân kháng
chiến, kiến quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Có thể nói, “Sửa đổi lối làm việc” đã giải quyết một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới giành được chính quyền, vừa lãnh đạo
xây dựng đất nước, vừa phải đấu tranh giữ vững chính quyền non trẻ và tiến hành
chiến tranh chống xâm lược - đó là Đảng phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện tính
đảng, phải sửa chữa lối làm việc quan liêu, xa dân, thiếu tôn trọng dân; phải dựa vào


10

dân. “Sửa đổi lối làm việc” là những nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo công tác xây

dựng Đảng của Hồ Chí Minh. Nó phản ánh những quan điểm cơ bản của MácĂngghen, Lênin về xây dựng Đảng, đồng thời phản ánh yêu cầu đặc thù của cách
mạng Việt Nam. Vì vậy, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được xem như cái “cẩm
nang” của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là một trong những văn kiện quan trọng trong
hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có tác dụng làm nền tảng tư tưởng
trong chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và thực hiện học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Do đó, có thể khẳng định: “Sửa đổi lối
làm việc” có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt sâu sắc, đã trình bày một cách hệ
thống các nguyên tắc, nguyên lý, quy luật cơ bản về công tác xây dựng, chỉnh đốn
đảng trong điều kiện trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân trong đấu
tranh giành độc lập, xây dựng đất nước. Đó là các nguyên tắc xây dựng đảng về tư
tưởng, tổ chức, công tác cán bộ; về đạo đức cách mạng, tư cách của cán bộ, đảng
viên; về phương thức, phương pháp, phong cách lãnh đạo của đảng; quan hệ giữa tổ
chức, các nhân, cán bộ đảng viên với nhân dân. Nội dung lý luận trong “Sửa đổi lối
làm việc” vừa kế thừa lý luận Mác-Lênin về xây dựng đảng, kế thừa đạo đức nho
giáo của các nước phương Đơng và từ truyền thống văn hóa dân tộc, vừa bổ sung,
phát triển, làm phong phú lý luận nhiều vẫn đề quan trọng nhằm nâng cao uy tín, sức
mạnh, sức chiến đấu của Đảng cũng như từng cán bộ, đảng viên. Các quan điểm lý
luận đó của tác phẩm có tác dụng giáo dục, định hướng, chỉ đạo trong công tác xây
dựng đảng trong sạch, vững mạnh qua mọi thời kỳ phát triển của đất nước.
“Sửa đổi lối làm việc” là cuốn cẩm nang có giá trị thiết thực, bổ ích trong giáo
dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, giúp cho mỗi cán bộ đảng viên
nhận thức được những chuẩn mực đạo đức cần rèn luyện, tu dưỡng, những “bệnh”
hay mắc phải để có các giải pháp sửa chữa, khắc phục để trở thành những người cách
mạng chân chính, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền,


11


ba hoa, hẹp hịi, ích kỷ. Do đó, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh nói chung, “Sửa đổi lối làm việc” nói riêng sẽ góp phần
nâng cáo năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự trở thành
một đảng cầm quyền, “Là đaọ đức, là văn minh” góp phần làm cho từng cán bộ đảng
viên thấm nhuần hơn nữa tư tưởng của Người, để tự rèn giũa mình trở thành những
người cách mạng chân chính.
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm khơng chỉ có giá trị tư tưởng, lý luận mà
cịn có giá trị chỉ đạo thực tiễn cụ thể và sâu sắc, không chỉ có giá trị trong thời điểm
ra đời mà cịn là kim chỉ nam chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trong suốt quá trình
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chính nhờ thực hiện những quan điểm của “Sửa
đổi lối làm việc” mà Đảng đã lãnh đạo cách mạng nước ta giành được nhiều thắng lợi
có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Thực tế lịch sử cách mạng nước ta chứng minh rằng, ở
đâu, lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm đúng, làm theo tinh thần của “Sửa
đổi lối làm việc” thì ở đó, lúc đó, sức mạnh của Đảng tăng lên, mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng, với cán bộ, đảng viên bền chặt. Đảng và cán bộ, đảng viên của
Đảng được nhân dân tin yêu.
2.2. Những nội dung cần khai thác về xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Mặc dù ra đời cách đây 75 năm, nhưng đến nay, những nội dung, tư tưởng của
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vẫn còn nguyên giá trị tính thời sự. Có một thực tế
ngạc nhiên là, những vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong tác phẩm dường như
Người viết cho hơm nay, đó là những thực trạng cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng, công tác cán bộ. Những “căn bệnh” trong Đảng mà Người nêu ra trong tác
phẩm đều đúng như nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: “Một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa các
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,



12

tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc…”. Chính vì vậy, chúng ta có thể khai
thác những khía cạnh này của “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và chính quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay trên những nội dung cơ
bản sau:
2.2.1. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, bởi theo Người: “Tư tưởng khơng đúng đắn thì cơng tác ắt sai lầm”; “Trong
Đảng và ngồi Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng
mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”. Người đã trù
liệu hệ quả khi đảng viên chưa thông suốt tư tưởng sẽ dẫn tới những biến dạng khơn
lường. Do đó mà Người luôn kỳ vọng làm sao tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải trở
thành chủ đạo, trường tồn cùng với Đảng, với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong Sửa đổi lối làm việc, nội dung chính xuyên suốt là những chỉ dẫn về
giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực làm việc về tư
tưởng chính trị, tư cách đạo đức, thực sự là “công bộc”, là “đày tớ” của nhân dân.
Người nhấn mạnh: “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính
xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một
người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính
xấu”. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hịa
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của
Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Các thế lực phản động ngày càng dùng nhiều
thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm gây hoang mang, dao động
về hệ tư tưởng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, thậm chí khuyên chúng ta nên chọn
con đường phát triển dựa hẵn và các nước tư bản chủ nghĩa; chúng đưa ra luận điệu
mị dân với với luận điểm: “Chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu,
nước mạnh” ... Do vậy, cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, chống



13

những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đường
lối đổi mới diễn ra quyết liệt trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, chính
trị và lý luận.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phịng
ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ ta; khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII đều nêu rõ quan điểm chỉ đạo: Kết hợp giữa “xây” và
“chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan
trọng, cấp bách; vừa phải tập trung sức vào cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu
quả tình trạng suy thoái và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vừa phải
đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn người cán bộ về
tính lý luận: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Tức là, mỗi
cán bộ, đảng viên cần coi trọng và tự trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về lý
luận cũng như thực tiễn để có thể đem lý luận áp dụng vào thực tiễn, thực hiện trong
thực tiễn một cách sáng tạo và khoa học, giúp nhân dân đi đúng đường lối. Có như
vậy mới tạo được sự thống nhất quan điểm trong tồn Đảng, sự đồng thuận tồn dân
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta ln khẳng định cơng tác chính trị, tư
tưởng là một bộ phận trực tiếp xây dựng, củng cố và phát triển Đảng về mặt chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống và văn hóa. Vai trị ấy càng trở nên đặc biệt quan trọng
trong những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử. Tuy nhiên, thời gian qua,
không ít cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ và thực hiện không nghiêm tư

tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ:
“Cơng tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp uỷ coi trọng, chưa kịp thời,


14

thiếu thuyết phục”; “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc,
quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi cịn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu
chưa cao; cơng tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ cịn
chưa kịp thời”. Từ đó, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và
hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng
chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội.
Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong
Đảng, đồng thuận cao trong xã hội”; “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái,
thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”.
2.2.2. Xây dựng Đảng về tổ chức
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Sửa
đổi lối làm việc của Đảng là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng; là nhiệm
vụ thường xuyên, vừa lâu dài, vừa cấp bách của một đảng chân chính. Theo Người:
Sửa ở đây là sửa chữa, khắc phục; đổi là đổi mới; lối là phương pháp, cách thức; làm
việc là hoạt động lãnh đạo của Đảng. Mục đích của sửa đổi lối làm việc là để nâng
cao sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, trong Chính phủ, giúp cho mọi tổ chức đảng,
chính quyền, đồn thể các cấp và cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của
mình.
Kế thừa quan điểm, đường lối xây dựng Đảng về mặt tổ chức của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ,
không ngừng chăm lo, xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp,
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; các cấp ủy đảng và bộ máy các ban của


15

Đảng từng bước được kiện tồn..., góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng.
Nhận thức được những nguy cơ bên trong ảnh hưởng trực tiếp chất lượng cán
bộ, đảng viên và hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Đảng đã
luôn bám sát tình hình thực tiễn, kịp thời chỉ đạo để cơng tác tự phê bình và phê bình,
phân loại tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên hàng năm, qua đó xây dựng, hồn chỉnh
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch sử dụng, phát huy đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên,
vẫn có những lúc, những nơi, những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa thật sự
làm đúng, thực hiện khơng nghiêm túc cơng tác tự phê bình và phê bình, thậm chí
cịn hình thức; đánh giá, quy hoạch, bố trí, đề bạt cán bộ thiếu khách quan, cơng tâm,
tồn diện, khơng đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định. Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII của Đảng chỉ rõ: “Trong tự phê bình cịn giấu giếm, khơng dám nhận khuyết
điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, khơng tự giác nhận kỷ luật. Trong phê
bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai khơng đấu
tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lịng nhau hoặc vu khống, bơi nhọ, chỉ trích,
phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”.
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng với các nhóm giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh việc đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tuy nhiên, như văn kiện Đại hội XIII của Đảng
chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó,
ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hố"”. “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm

trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội.
Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ
ta”. Từ đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: Phải “Hồn thiện thể chế, quy định về
cơng tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ”; “Đổi mới
công tác đánh giá, xếp loại đảng viên bảo đảm thực chất. Phát hiện, quy hoạch, bồi


16

dưỡng, phát huy vai trò những đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ
chủ chốt các cấp”. “Xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và
xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc
nghỉ hưu”.
2.2.3. Xây dựng Đảng về đạo đức
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Có đạo đức
cách mạng thì người cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó mới có thể
lãnh đạo được nhân dân làm cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng vững chắc, là lý tưởng sống của người cách mạng. Nó là động cơ bên trong, tạo
ra sự thôi thúc để người cách mạng tăng thêm sức mạnh bền bỉ, có đủ sức mạnh để
suốt đời hy sinh phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to
tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì
cịn làm nổi việc gì”. Người cũng nhấn mạnh, để có được những đức tính tốt, người
cán bộ, đảng viên cần thực hiện năm điều, đó là: Nhân - nghĩa - trí - dũng - liêm. Có
đầy đủ những đức tính tốt đẹp ấy, người cán bộ, đảng viên sẽ có nền tảng tinh thần
vững chắc, giúp vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao.
Quán triệt những di huấn nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta chỉ rõ:
xây dựng Đảng về đạo đức là một yếu tố cấu thành nội dung công tác xây dựng
Đảng, đồng thời là cơ sở bảo cho xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nó

là nền tảng tinh thần của Đảng. Đạo đức cùng với năng lực tạo nên nhân cách của
mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, phản ánh diện mạo đạo đức,
nhân cách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.


17

Nhưng, thật đáng tiếc, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: trong Đảng,
bộ máy nhà nước và chính quyền các cấp, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt
lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hố”. Từ đó, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu:
“mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
của; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có
hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm
nêu gương ... Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên
thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, ln vững vàng trước khó khăn, thách
thức và khơng bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan
điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo
đức, tạo ảnh hưởng lan toả trong Đảng và ngoài xã hội”.


18

KẾT LUẬN
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong bối

cảnh đất nước như "ngàn cân treo sợi tóc" bởi giặc đói, giặc đốt và giặc ngoại xâm
hồnh hành. Bên cạnh đó, trước yêu cầu mới của cách mạng, trong Đảng ta, nhất là
cán bộ, đảng viên ở cơ sở, đã bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém về trình độ, năng lực,
phẩm chất đạo đức và phương pháp công tác; đặc biệt là xuất hiện những tiêu cực
trong cán bộ, đảng viên như làm trái phép nước, hủ hoá, tư túng, kêu ngạo … Điều
này đã ảnh hưởng xấu đến bản chất tốt đẹp của Đảng ta, đến lòng tin của nhân dân
đối với Đảng.
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trình
bày một cách hệ thống tư tưởng đổi mới về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong điều
kiện Ðảng cầm quyền. Tác phẩm khơng chỉ có tính lý luận, bao qt những vấn đề
rộng lớn trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng, mà cịn có tính chiến đấu, tính thực
tiễn sâu sắc, nhằm khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, sửa đổi cách lãnh đạo của Đảng để xây dựng mối quan hệ tốt hơn giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân theo nguyên tắc dân làm chủ. Do đó, xét về bản chất,
“Sửa đổi lối làm việc” là một chỉ thị, mệnh lệnh nhằm củng cố, chỉnh đốn Đảng, sốc
lại đội hình, tăng cường sinh lực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chuẩn bị bước
vào trận chiến quyết liệt nhất: cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
Bên cạnh đó nhằm chủ động ngăn chặn và khắc phục nguy cơ chệch hướng, sai lầm
về đường lối, nguy cơ quan liêu của Đảng cầm quyền và nguy cơ thối hóa, biến chất
của cán bộ, đảng viên.
Thời gian dần lùi xa, nhưng những yêu cầu phải sửa đổi trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ,
đảng viên từ những năm vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vẫn rất cần được tiếp tục
thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Đó là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên,
góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống; có trình độ chuyên môn,


19


nghiệp vụ ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng; ln đồn kết, thống nhất
và gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu và kính trọng./.


20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb.Chính trị quốc gia, 1986;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb.Chính trị quốc gia, 2010;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, 2016;
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
tập 1, tập 2, Nxb.Chính trị quốc gia, 2021;
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội Nghị Trung ương 4 (khóa XI);
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội Nghị Trung ương 4 (khóa XII);
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội Nghị Trung ương 4 (khóa XIII);
8. X.Y.Z: Sửa đổi lối làm việc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017;
9. Mai Văn Chính - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức
Trung ương: “Bài học về công tác đánh giá cán bộ qua tác phẩm "Sửa đổi lối làm
việc” của Hồ Chí Minh”;
10. TS. Hoàng Quốc Đạt: ““Sửa đổi lối làm việc” để xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh”.



×