Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phát triển bền vững ở việt nam trong cách mạng công nghiệp 4 0 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.34 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU

Những năm gần đây, cụm từ “phát triển bền vững” đang trở thành một
chủ đề đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
Phát triển bền vững được mổ xẻ và nghiên cứu để trở thành một chiến lược
mang tính tồn cầu, sở hữu giá trị và mẫu số chung cho sự phát triển của xã hội
lồi người. Do đó, thế giới đã đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự
về phát triển bền vững cho từng thời giai đoạn phù hợp theo tiến trình lịch sử.
Tính đến thời điểm hiện tại, các quốc gia trên thế giới chưa thể xây
dựng thành cơng mơ hình phát triển bền vững đúng nghĩa của nó. Vấn đề về ơ
nhiễm mơi trường sống của nhiều quốc gia đã và đang phát triển kèm theo các
hiện tượng tồn cầu như biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên, băng tan. Hơn
nữa, vào năm 2020, dịch bệnh Covid-19 xuất hiện đã đẩy thể giới trên bờ vực
của sự khủng hoảng cả về kinh tế - xã hội và mơi trường. Đối với kinh tế, nó
làm đứt gãy chuỗi cung ứng của các quốc gia trên thế giới gây thiệt hại nặng
nề không chỉ đối với kinh tế quốc gia đó mà lan tỏa đến kinh tế toàn cầu. Mặt
khác, Covid – 19 gây ra nhiều biến động xã hội như đổ vỡ lòng tin giữa người
với cộng đồng, tạo ra một quy mô khủng hoảng y tế cộng đồng lớn chưa từng
có trong lịch sử. Rõ ràng, Covid -19 đang trở thành một rào cản to lớn trên
bước đường xây dựng chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia trên
thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chiến lược phát triển bền vững
chúng ta cần phải nắm bắt đầy đủ nội dung, cách tiếp cận về phát triển bền
vững làm cơ sở để xây dựng chiến lược đó với nội dung, mục tiêu cụ thể.


2

1. Tiếp cận triết học về phát triển bền vững
Phương pháp tổng hợp, toàn diện trong tiếp cận
Phát triển bền vững là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội và là
điều kiện cần để thực hiện cơng bằng xã hội, do vậy, khi tìm hiểu cần đặt nó


trong sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng
tầng là các yếu tố cơ bản cấu tạo nên một hình thái kinh tế - xã hội. Từ mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phê phán các quan
điểm phát triển đề cao vai trò của khoa học, của công cụ lao động theo hướng
tiếp cận văn minh, coi trọng, tuyệt đối hóa các giá trị của văn minh mà thờ ơ,
bỏ quên các giá trị văn hóa, tinh thần xã hội, dẫn tới tình trạng phát triển
nóng, ngắn hạn, hủy hoại tài nguyên sống, chạy theo lối sống thực dụng, đề
cao lợi ích cá nhân, vơ cảm trước nghèo đói, dịch bệnh ở các quốc gia chậm
phát triển, cổ xúy lối sống dục vọng tầm thường kiểu phương Tây theo sự
thỏa mãn nhu cầu vật chất mà không duy trì nền tảng văn hóa, đạo đức giữa
con người với nhau. Từ qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng, quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị của xã
hội làm cơ sở khoa học để nhận thức vấn đề phát triển bền vững hiện nay có
xuất phát điểm từ quan hệ lợi ích, trực tiếp là lợi ích kinh tế trong giải quyết
các vấn đề chính trị, xã hội, môi trường.... Mỗi quốc gia, dân tộc không có lựa
chọn đúng đắn, khoa học trong xác định mơ hình phát triển cũng sẽ sơm
muộn đưa đất nước, dân tộc mình tới họa diệt vong nếu chỉ nghĩ tới lợi ích
trước mắt, cịn phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, duy trì sự ổn
định lâu dài, nhà nước kiểm sốt tốt các cân đối vĩ mơ, quan tâm bảo vệ môi
trường sinh thái sẽ tạo ra trạng thái phát triển ổn định, cân bằng.
Ngoài ra, từ mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội và con người để
chúng ta thấy được vai trò sự nhận thức của con người, giai cấp và nhân loại,
cụ thể là chủ thể chính trị ở các quốc gia, dân tộc trong giải quyết các vấn đề


3

cấp bách tồn cầu như mơi trường sinh thái, dân số, chiến tranh và hịa bình
nhằm duy trì sự sống còn lâu dài, sự ổn định và bảo đảm cho nhân loại hiện

tại và các thế hệ tương lai có cơ hội sống cơng bằng, bình đẳng, khơng bị diệt
vong bởi các thảm họa do chính con người hiện tại gây ra.
Một xã hội với tư cách một bộ phận của tự nhiên muốn phát triển được
cũng không thể chỉ phát triển kinh tế, phát triển kỹ thuật, không chỉ thoả mãn
các nhu cầu về vật chất và tiện nghi. Sự phát triển của một quốc gia, một xã
hội chỉ có được trên cơ sở xác lập được một lý thuyết phát triển thật sự khoa
học. Lý thuyết chính trị phát triển bền vững có tính khoa học phải dựa trên
nguyên lý và quy luật phát triển phổ biến của giới tự nhiên nói chung và của
xã hội lồi người nói riêng, với sự tính tốn một cách khoa học, có sự kết hợp
đúng đắn các yếu tố, các điều kiện, các khả năng và cả các thời cơ,… Tuyệt
đối hố hay xem nhẹ mặt nào trong tổng thể đó đều không khoa học, nếu
không từ bỏ kiểu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, không bền vững cũng sẽ
sớm muộn gặp tai họa, đúng như lời cảnh báo mà Ph.Ăngghen từng nói từ
những năm 80 của thế kỷ XIX: “chúng ta cũng không nên quá tự hào về
những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt
được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta”1.
Phương pháp logic - lịch sử trong tiếp cận
Trong lịch sử chính trị, ở từng thời kỳ và tình huống nhất định, có
những chủ thể, những thể chế chính trị đi trái với xu hướng và quy luật phát
triển của xã hội hoặc những yêu cầu chính đáng, khách quan của con người,
của nhân dân. Nhưng khái quát lại, chính trị luôn đi theo xu hướng phù hợp
với nguyện vọng và lợi ích chân chính của nhân dân, của dân tộc. Chính trị thể chế chính trị, chủ thể cầm quyền - luôn phải làm theo sứ mệnh trọng đại
mà nhân dân giao phó, đó là đấu tranh và phấn đấu cho lợi ích dân tộc, cho sự
phát triển đất nước và cho tương lai của quốc gia. Như vậy, chính trị với tư
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.317.


4


cách một phạm trù phổ quát, là lĩnh vực hoạt động chủ đạo quyết định hướng
đi của xã hội, luôn mang sứ mệnh lớn lao, đem lại sự phát triển và tiến bộ
không ngừng cho xã hội, cho con người, cho loài người, làm cho đời sống
quốc gia, quốc tế ngày càng văn minh, đúng với bản chất và khát vọng nhân
đạo, nhân văn của lồi người. Chính trị với bản chất như vậy, thực chất là
chính trị phát triển mang bản chất nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, nó phản đối,
chống lại chính trị phản nhân đạo, phản nhân văn và phản tiến bộ.
Để thực hiện được mục đích của mình, chính trị phát triển ln xây
dựng những lý thuyết chính trị làm cơ sở lý luận, định hướng cho nội dung
xây dựng xã hội, bảo đảm sự phát triển và tiến bộ của một thể chế chính trị.
Mỗi một sự thay đổi trong lý thuyết đó sẽ dẫn tới sự thay đổi chiều hướng vận
động và phát triển của toàn xã hội. Cho nên, từ thực tế lịch sử, lý thuyết chính
trị phát triển phải là lý thuyết chính trị chân chính. Ở đó, mục tiêu chính trị
phải phù hợp với lý tưởng nhân đạo, nhân văn, đáp ứng khát vọng và lợi ích
chân chính của con người, giải phóng sự nơ lệ, giải phóng áp bức, bóc lột, giải
phóng xã hội và giải phóng con người, đấu tranh và phấn đấu cho quyền làm
chủ của con người trên các phương diện: làm chủ chế độ xã hội, làm chủ sự
nghiệp xây dựng cuộc sống và mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, phấn đấu
cho quyền bình đẳng của con người, quyền bình đẳng xã hội và bình đẳng
giữa các quốc gia, dân tộc, phấn đấu cho sự phát triển và tiến bộ của công
dân, của con người, hướng tới và phấn đấu cho hồ bình, hữu nghị, hợp tác,
phát triển giữa các quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại.
2. Nội dung triết học về lý luận phát triển bền vững
Phát triển (development) hay nói đầy đủ hơn là phát triển kinh tế - xã
hội (socio-economic development) của con người là quá trình nâng cao về đời
sống vật chất tinh thần bằng phát triển sản xuất, tăng cường chất lượng các
hoạt động văn hóa, xã hội. Phát triển là quy luật chung của mọi thời đại, là
mục tiêu trung tâm của các chính phủ và trách nhiệm của các quốc gia.



5

Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi IUCN) với nội
dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới
phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và
sự tác động đến môi trường sinh học”. Trong báo cáo “Tương lai chung của
chúng ta” của Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc
năm 1987 đã đưa ra khái niệm: “Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại, nhưng không làm tổn
hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ mai sau”. Hội nghị thượng
đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển bền vững họp tại Rio de
Janeiro tháng 6 - 1992 với sự tham gia của 179 quốc gia đã thông qua chiến
lược phát triển bền vững và khẳng định: Phát triển bền vững là phát triển kinh
tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bền vững
môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con người hiện nay và không ảnh
hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của họ.
Hội nghị đã gửi thơng điệp tới chính phủ các nước về sự cấp bách của việc
đẩy mạnh sự phát triển hài hoà: kinh tế - xã hội - môi trường. Hội nghị đã
thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành
động vì sự phát triển bền vững lấy tên là Chương trình Nghị sự 21 (Agenda
21). Từ Hội nghị này, nội hàm phát triển bền vững không ngừng được bổ sung
với phương pháp tư duy và cách tiếp cận mới, hệ thống, tồn diện, sâu rộng,
có tầm nhìn xa hơn. Phát triển bền vững ít nhất bao gồm 3 yếu tố: kinh tế (thị
trường, tăng trưởng, công nghiệp hố...); xã hội (nhà nước, xã hội cơng dân, ý
thức cộng đồng, hệ thống giá trị...); môi trường (khai thác hợp lý và bảo vệ tài
nguyên, môi trường).
Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển bền
vững họp tại Johannesburg, Cộng hoà Nam Phi năm 2002 với sự tham gia của



6

các nhà lãnh đạo và các chuyên gia kinh tế, xã hội, môi trường của gần 200 quốc
gia đã tổng kết hoạt động phát triển bền vững 10 năm (Rio+10) và đưa ra những
quyết sách về nước, năng lượng, sức khoẻ, nông nghiệp, sự đa dạng sinh thái;
tiếp tục tiến hành một số mục tiêu ưu tiên về xố đói giảm nghèo, phát triển
những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản
phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Qua các bản tuyên bố, nội hàm phát triển bền vững ngày càng được mở
rộng thêm: sự phát triển bao gồm toàn diện các vấn đề sinh thái, các vấn đề xã
hội, các vấn đề con người, các vấn đề văn hố, chất lượng sống; nó hàm chứa
cả sự bình đẳng giữa các nước giàu và nghèo, giữa các thế hệ; nó cũng bao
hàm cả sự cần thiết phải giải trừ quân bị như là điều kiện tiên quyết giải
phóng nguồn tài chính cần thiết cho phát triển.
Về cơng bằng lợi ích trong phát triển bền vững
Theo sự phát triển của lịch sử xã hội, đến một giai đoạn nhất định sẽ xuất
hiện những quan hệ chính trị, tổ chức chính trị, những quan điểm tư tưởng chính
trị và nó đóng một vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Theo lý luận mác xít,
chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế, là quan hệ lẫn nhau giữa các giai
cấp, các tập đoàn người, các tầng lớp xã hội trong việc giành, giữ và sử dụng
chính quyền nhà nước; chính trị cịn là biểu hiện quan hệ giữa các quốc gia, dân
tộc về mặt nhà nước. Có thể thấy, chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và
đặc thù, quy định tiến trình phát triển của xã hội, chịu sự quyết định của kinh
tế, được hình thành và phát triển từ địi hỏi giải quyết những vấn đề lớn lao
trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, như xây dựng nhà nước, đấu
tranh giai cấp, tạo dựng các thể chế chính trị, xây dựng chiến lược quốc gia,...
nhằm thực hiện lý tưởng, mục tiêu, khát vọng, ý chí vì lợi ích của giai cấp,
của nhà nước, của quốc gia, dân tộc.

Các nhà kinh điển mác xít khẳng định chính trị khơng biệt lập hay tách
rời với kinh tế, mà gắn bó chặt chẽ tạo nên sự thống nhất biện chứng trong


7

một cơ thể xã hội. Trong quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, kinh tế giữ
vai trị quyết định. Tiếp cận kinh tế theo nghĩa rộng của nó, chủ nghĩa duy vật
lịch sử quan niệm đây là các phương diện cơ bản của đời sống kinh tế xã hội,
đó là cơ sở kinh tế; qui luật kinh tế; lợi ích kinh tế.v.v…Trong đó, lợi ích kinh
tế được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu của mọi hoạt động cải tạo, phát
triển xã hội nói chung cũng như trong từng chính sách cụ thể ở mỗi quốc gia,
dân tộc. Lợi ích kinh tế, xét đến cùng, là nguyên nhân của những hành động chính
trị trong đời sống hiện thực. Các quan điểm tư tưởng chính trị và các tổ chức thích
ứng với nó là do tính tất yếu kinh tế quyết định. Các hình thức nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội thay đổi nhanh chóng, ít nhiều tuỳ theo sự vận động, biến
đổi của cơ sở kinh tế. Hay nói cách khác, tính tất yếu kinh tế là yếu tố xét đến
cùng quyết định sự hình thành và phát triển của hệ thống các quan điểm tư tưởng
chính trị và các thiết chế xã hội tương ứng. Tuy nhiên, chính trị khơng hồn
tồn bị động, mà nó ln tác động mạnh mẽ trở lại kinh tế. Bởi vì, trong
quan hệ với kinh tế, chính trị có tính độc lập tương đối; hơn nữa, chính trị
cịn liên quan trực tiếp đến lợi ích sống cịn của các giai cấp. Vai trị của
chính trị được thể hiện ở hoạt động tự giác của các giai cấp, các đảng phái
vì những lợi ích sống cịn, cơ bản của mỗi giai cấp, dân tộc, nhân loại.
Như vậy, phát triển bền vững phải quan tâm, chú ý giải quyết các lợi
ích, nhất là lợi ích kinh tế theo hướng tích cực, bảo đảm sự tồn tại dài lâu
cho các thế hệ tương lai, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của đa số
cộng đồng, cá nhân và các quyền cơ bản của quốc gia, dân tộc.
Về động lực phát triển bền vững
Phát triển bền vững có nghĩa là cả ba khía cạnh chủ yếu liên quan đến

đời sống của nhân loại là kinh tế, xã hội, môi trường phải được tổng hịa, kết
hợp, lồng ghép khi có thể và được cân đối một cách có hiệu quả qua các chính
sách, cơ chế, cơng cụ và qua q trình thực hiện chính sách. Phát triển bền
vững là con đường phát triển tất yếu của cả nhân loại. Sự thành cơng của nó


8

phụ thuộc không chỉ vào các nỗ lực hành động của từng quốc gia mà còn cần
cả sự phối hợp hành động của toàn thế giới.”2
Bảo đảm định hướng dân chủ, nhân văn trong phát triển bền vững
Trong lịch sử chính trị, lồi người đã xây dựng nhiều lý thuyết chính trị
phát triển. Thực tế cho thấy, các lý thuyết chính trị phát triển ngày càng có nội
dung tiến gần tới lý tưởng chính trị - xã hội nhân đạo và nhân văn, nghĩa là
ngày càng đáp ứng cao hơn khát vọng của con người, vì vậy, chúng ngày càng
được điều chỉnh, bổ sung đầy đủ và hoàn thiện hơn. Mỗi quốc gia, từ điều
kiện đặc thù, với các cách nhìn và cách tiếp cận khác nhau, đó vạch ra con
đường và những chiến lược phát triển riêng để đưa đất nước mình đi lên với
các mức độ khác nhau. Có những quốc gia phát triển rất nhanh, nhưng đồng
thời cũng lại phải gánh chịu nhiều hậu quả tai hại khác, do mặt trái của con
đường và chiến lược phát triển ấy đem lại.
Đường lối, nội dung và phương thức thực thi chính trị phải khoa học,
phù hợp với lý tưởng, mục tiêu, lợi ích, điều kiện chủ quan và khách quan của
quốc gia, dân tộc. Lý thuyết chính trị phát triển cũng thể hiện ở hệ thống
chính sách, kế hoạch, các cơ chế và điều kiện thực thi đúng mục đích, hiệu
quả cao đường lối chính trị của chủ thể chính trị. Lý thuyết chính trị phát triển
ln là nền tảng khoa học, cơ sở lý luận cho việc hoạch định chính sách kinh
tế, xã hội, văn hố, giáo dục, an ninh, quốc phịng, v.v... Một lý thuyết chính
trị đúng đắn, khoa học, hợp lý sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã
hội; nếu ngược lại, nó kìm hãm, thậm chí thủ tiêu sức mạnh chính trị, đẩy lùi

bước tiến bộ và phát triển.
Vai trò của tính đồng thuận xã hội và các nguyên nhân tác động.
Trong lịch sử, những khủng hoảng về mơ hình phát triển xã hội diễn ra
và lan truyền theo dạng sóng ở mọi khu vực trên khắp hành tinh, nhất là từ
giữa những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đặc biệt là các
2

Võ Thị Hoa, (2019): Giáo trình Chính trị học phát triển, NXB Lý luận Chính trị, tr.96.


9

quốc gia ở phương Tây và các quốc gia giành được độc lập nhưng lựa chọn
con đường phát triển tư bản, rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp, trở thành
gánh nợ cho chủ nghĩa tư bản kiểu mới trong khi bị tư bản bòn rút cạn kiệt
nguồn tài nguyên đất nước mình, ln gắn với nghèo đói, bất ổn chính trị,
khơng có sự đồng thuận xã hội. Cuộc khủng hoảng dịch bệnh COVID-19
càng đẩy nhanh mâu thuẫn giữa giới chủ tư bản và giai cấp công nhân ở các
nhà máy, làm tăng vọt giá lương thực và các loại hàng hóa cơ bản khác.
Người lao động trên khắp thế giới phải tham gia đấu tranh vì cuộc sống của
bản thân để thúc đẩy quyền và lợi ích của mình, khi mà tình trạng bất bình
đẳng xã hội ngày càng tăng (trong năm 2020, các tỷ phú trên thế giới đã kiếm
thêm 5,5 nghìn tỷ USD, ở Mĩ chỉ 1% tài phiệt nắm 99% tài sản xã hội).
Hệ thống các mâu thuẫn trong phát triển bền vững kiểu phương Tây
Sai lầm lớn dẫn đến những khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn
được, kể cả ở các nước phát triển cao, là ở chỗ người ta coi phát triển đơn
thuần chỉ là phát triển kinh tế, nổi bật là tư tưởng của S.Hunttington,
F.Fukuyama hay A.Toffler. Mơ hình phát triển tuyệt đối hố kinh tế đó đưa tới
sự sùng bái và tuyệt đối hoá kỹ thuật, coi kỹ thuật là trên hết và dẫn tới chủ
nghĩa kỹ trị. Lý thuyết kỹ trị trong phát triển đó thúc đẩy trình độ sống của

con người lên rất cao. Tuy nhiên, nó lại có mặt trái là gạt con người ra ngồi
lề của chính mục tiêu phát triển chân chính. “Những tình huống “phát triển
xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn
sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và khơng ít nơi từ tình
huống kinh tế đã trở thành những tình huống chính trị với các làn sóng biểu
tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế”3. Người ta coi kỹ thuật, cơng nghệ
là sức mạnh chi phối tồn bộ đời sống, dẫn đến con người chỉ còn là cái máy
khơng hồn. Sự tuyệt đối hố vật chất của xã hội tiêu thụ thực tế đó tạo ra ý
3

Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr.19-20.


10

thức xem thường và hạ thấp giá trị nhân văn, làm nghèo nàn đời sống tình
cảm, tồi tệ hơn là làm suy thoái đạo đức. Như thế, phát triển theo nghĩa chân
chính là thực hiện lý tưởng nhân văn mà lồi người hằng vươn tới, cuối cùng
lại bị chính nỗ lực phát triển sai lầm phản lại.
Lý thuyết hiện đại hoá theo hướng phương Tây hoá đã đề cập tới khá
toàn diện các yếu tố và các giai đoạn chuyển hoá của phát triển xã hội: đưa xã
hội truyền thống sang xã hội hiện đại; giai đoạn cất cánh tạo nên chất xã hội
mới; trong giai đoạn xã hội tiêu dùng, lực lượng sản xuất, trình độ khoa học cơng nghệ, khả năng sáng tạo của con người rất cao, v.v... Nhưng lý thuyết
phát triển này lại tuyệt đối hoá văn minh phương Tây, khơng tính tới các yếu
tố văn hoá của các vùng và các dân tộc khác. Hơn nữa, lý thuyết này cũng
khai thác quá sức chịu đựng của tài nguyên, môi trường.
Các lý thuyết phát triển tuyệt đối hoá vật chất, kỹ thuật, hiện đại hoá,...
thực tế đó vắt kiệt nguồn lực của tự nhiên. Người ta ngày càng thấm thía rằng,
các lý thuyết phát triển đó dường như đang gặm sâu vào tận xương tuỷ của cơ

thể tự nhiên, làm cho tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường
sống ngày càng bị ô nhiễm, sinh thái vốn cân bằng đang dần bị phá vỡ, v.v..
Sự hài hoà thiên nhiên - con người như là nền tảng tất yếu của sự phát triển
đang bị chính bàn tay chủ nghĩa tư bản lũng đoạn. Sự tăng trưởng hiện tại
đang là sự tăng trưởng xấu. Thực tế, những gì con người làm được khơng phải
là sự phát triển mà đó chỉ là những cái con người hiện tại đang “vay mượn”
con cháu tương lai, “lấy tương lai để duy trì hiện tại”.
Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
Về kinh tế.
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển
có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu
nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong
điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể
xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.


11

- Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong GDP cao hơn nơng nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, khơng chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí như: Chỉ số phát triển con
người (HDI - Human Development Index), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ
tiêu về an sinh xã hội giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa.
Ngồi ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hịa, có sự
bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới, mức độ chênh lệch
giàu nghèo khơng q cao và có xu hướng gần lại, chênh lệch đời sống giữa
các vùng miền không lớn.
Về mơi trường:

- Sử dụng có hiệu quả tài ngun, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo.
-Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái.
- Bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ơzơn.
- Kiểm sốt và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
- Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm.
- Giảm thiểu xả thải, khắc phục ơ nhiễm (nước, khí, đất, ...), cải thiện
và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm.
3. Lý thuyết phát triển bền vững ở Việt Nam
Tiếp nhận từ những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ
trước. Nhận thấy những hạn chế, bất cập, khiếm khuyết trầm trọng trong các
lý thuyết phát triển trước đây trên thế giới, Đảng và Chính phủ Việt Nam
hưởng ứng một cách mạnh mẽ những tư tưởng, các chương trình phát triển
bền vững của Liên hợp quốc và xây dựng Chương trình nghị sự 21 của Việt
Nam. Phát triển bền vững đã trở thành một trong những tư tưởng chủ đạo
trong chính sách phát triển của Việt Nam.
Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: “Phát triển nhanh phải đi đôi với


12

phát triển bền vững… Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hố,
phát triển tồn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã
hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đơi với xố đói giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng
bước phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đơi với bảo đảm ổn định chính trị xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững”4.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng thứ
nhất là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mơi trường...,
tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và

nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” 5.
Đây là lần đầu tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong
một văn kiện đại hội Đảng.
Trước đó, tại Đại hội XII, vấn đề thể chế chỉ được nhắc đến trong
nhiệm vụ tổng quát thứ hai là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” 6; nói cách khác, tức là mới chỉ đề cập
đến hồn thiện thể chế phát triển của lĩnh vực kinh tế.
Báo cáo chính trị của Đại hội XIII đề cập “thể chế phát triển bền vững”, tức
là thể chế bảo đảm cho sự vận hành đồng bộ, thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển toàn
diện của các lĩnh vực trong đời sống, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đến quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế, hướng tới thực hiện yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững đất nước. Trong thể chế phát triển, thể chế chính trị là yếu tố trung
tâm, quyết định, chi phối đối với thể chế của các lĩnh vực còn lại.
Thực hiện các quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.178-179.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr.114.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr.77.


13

thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững

ở Việt Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra
trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta
đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và
gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã
hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược.
Đây cũng là một chiến lược khung bao gồm những định hướng lớn, làm cơ sở
pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển
khai thực hiện và phối hợp hành động, nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất
nước, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Trong định hướng triển khai thực hiện, Việt Nam không ngừng bổ sung
và phát triển để Định hướng chiến lược phát triển bền vững phù hợp với từng
giai đoạn phát triển, cập nhật tri thức và tư tưởng mới, đổi mới tư duy, hoàn
thiện chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam tập trung những hoạt động ưu tiên cần được lựa
chọn và thực hiện trong 10 năm tới, bao gồm: những lĩnh vực kinh tế; những
lĩnh vực xã hội; những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường và kiểm sốt ơ nhiễm.
Để thực hiện thành cơng mục tiêu phát triển bền vững, Chương trình Nghị
sự 21 của Việt Nam đề ra 8 nguyên tắc, trong đó 5 nguyên tắc quan trọng:
Một là, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh là mục tiêu và cũng là nguyên tắc nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển;
lấy con người làm trung tâm của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng cao và
đầy đủ hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.
Hai là, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; bảo đảm an ninh lương


14


thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về
mặt sinh thái và bảo vệ môi trường bền vững; từng bước thực hiện nguyên tắc
“mọi mặt kinh tế, xã hội, môi trường đều cùng có lợi”.
Ba là, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một
yếu tố khơng thể tách rời của q trình phát triển. Nghiêm túc áp dụng rộng
rãi nguyên tắc: người gây thiệt hại đối với tài ngun và mơi trường thì phải
bồi hồn, coi yêu cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh
giá về phát triển bền vững.
Bốn là, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng
nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ
tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và cộng đồng trong xã hội có cơ hội
bình đẳng để phát triển, được tiếp cận với những nguồn lực chung và được
phân phối cơng bằng lợi ích cơng cộng, tạo ra nền tảng vật chất, tri thức và văn
hoá tốt đẹp cho các thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không
thể tái tạo, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường.
Năm là, khoa học và công nghệ được phát triển như là nền tảng và động
lực cho cơng nghiệp hố và hiện đại hoá, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và
bền vững đất nước; đồng thời, sự phát triển khoa học - cơng nghệ là sự thể
hiện trình độ phát triển của xã hội.
Những nhóm vấn đề cơ bản cần ưu tiên cho phát triển của Việt Nam
hiện nay và trong những năm tới là:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa - nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; bảo đảm quyền lực nhà
nước thực sự thuộc về nhân dân; chế độ xã hội do nhân dân làm chủ; tự do
mưu cầu hạnh phúc vì sự phát triển của xã hội và của gia đình, cá nhân; hồn
thiện pháp luật, thể chế, hệ thống văn bản quy phạm, bảo đảm tự do hoạt động



15

kinh tế - xã hội; đặc biệt là hoàn thiện hệ thống luật và thế chế kinh tế phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế
độc lập với hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; hướng trọng tâm vào xây dựng kinh tế tri thức,
trước hết là các lĩnh vực có lợi thế so sánh của Việt Nam; phát triển đồng bộ
các yếu tố kinh tế thị trường; xây dựng các thị trường: sức lao động, đất đai, bất
động sản, tài chính - tiền tệ, khoa học - cơng nghệ, thị trường trí tuệ, v.v
Thứ ba, giữ vững và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa, xã hội phát
triển hài hoà vật chất - tinh thần, con người - thiên nhiên, hiện tại - tương lai,
quốc gia - quốc tế; phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy
sức mạnh toàn dân cho sự phát triển xã hội, phát triển con người, phát triển
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ tư, tìm khâu đột phá để phát triển tăng tốc và phát triển rút ngắn: đi
tắt đón đầu, phát triển khoa học - cơng nghệ mới, công nghệ đỉnh cao, phù
hợp với Việt Nam; phát huy các ngành nghề truyền thống có đặc thù và bản
sắc Việt Nam và tận dụng đặc điểm con người Việt Nam (thông minh, sáng
tạo, tiếp thu nhanh cái mới) và những điều kiện tự nhiên, văn hoá dân tộc.
Thứ năm, đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư, đa dạng hố các nguồn
vốn và hình thức đầu tư; tạo cơ chế đặc biệt để thu hút mạnh các nguồn đầu tư
nước ngồi có năng lực tài chính, cơng nghệ và kinh nghiệm xây dựng kết cấu
hạ tầng, giao thông, năng lượng. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành
mũi nhọn có ưu thế của Việt Nam, của các doanh nghiệp. Tìm khâu đột phá để
phát triển du lịch, dịch vụ trong lợi thế đặc điểm của đất nước.
Thứ sáu, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực theo hướng thoả mãn nhanh lực lượng phát triển công nghệ
cao, thực hiện phát triển tăng tốc và rút ngắn. Phát triển nông nghiệp - nông
thôn - nông dân theo hướng hiện đại. Giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã



16

hội. Bảo vệ và nuôi dưỡng môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội. Bảo vệ
và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc.
Thứ bảy, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc nền độc lập,
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 432/QĐ-TTg
năm 2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011
- 2020. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu giám sát và đánh giá PTBV Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020 đưa ra gồm 30 chỉ tiêu với nguồn số liệu và lộ trình thực
hiện. Ngày 25/9/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP về phát
triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 117 mục tiêu cụ thể.
Quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã
đạt được những thành cơng lớn, có ý nghĩa quan trọng trên cả ba mục tiêu cơ
bản: tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, được thế giới
thừa nhận và đánh giá cao.
- Lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011 2018 đạt gần 6,5%. Riêng trong năm 2018: tổng sản phẩm trong nước (GDP)
tăng 7,08%; chỉ số sản xuất tồn ngành cơng nghiệp tăng 11,4%; quy mô nền
kinh tế đạt trên 240 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD (năm
2018). Cơ cấu kinh tế có những bước biến đổi tích cực; tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng; khu vực nông nghiệp trong cơ cấu
GDP ngày càng giảm; an ninh lương thực được bảo đảm. Việt Nam đã duy trì
được mức tăng trưởng khá cao trong thời gian dài, tăng trưởng đi đơi với thành
tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo và góp phần tích cực vào việc phát triển
kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm ở các lĩnh vực khác.
- Lĩnh vực xã hội: Năm 2018, lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động là 48,7 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước ước tính là 2,0%.
Đời sống dân cư nhìn chung được cải thiện, cơng tác an sinh xã hội được



17

quan tâm. Năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính
6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2017.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sôi động, đáp ứng nhu cầu đa
dạng của nhân dân. Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đạt
kết quả đáng trân trọng, bước đầu gắn kết với kinh tế du lịch. Hoạt động thể
dục, thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, gắn
với Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Giáo dục – đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, văn hóa thơng
tin, thể dục thể thao đã thu được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm và thu
được những kết quả đáng kể. Kết quả đó được biểu hiện qua chỉ số HDI của
Việt Nam đã tăng liên tục qua các năm. Năm 2017, chỉ số của Việt Nam đạt
0,694, đứng thứ 116 trên tổng số 189 quốc gia và đã chuyển từ nhóm có HDI
thấp lên nhóm có HDI trung bình.
- Lĩnh vực mơi trường: Việc bảo vệ tài ngun, mơi trường đã đi vào
nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo
vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, không khí đã được tất cả
các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham
gia. Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, định giá tài
nguyên có bước tiến bộ; khai thác, sử dụng phù hợp hơn theo cơ chế thị
trường và được giám sát chặt chẽ hơn. Quan tâm khai thác và sử dụng hiệu
quả các nguồn năng lượng tái tạo và vật liệu thay thế, thân thiện với môi
trường. Các biện pháp bảo vệ mơi trường, phịng ngừa và xử lý cơ sở gây ơ
nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện. Công tác bảo tồn thiên nhiên, đa
dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm; tỷ lệ che phủ rừng
tăng, đạt tỷ lệ 41,45% năm 2018.
4. Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam trong

Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay
Hiện tại cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động


18

mạnh mẽ đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mục tiêu phát
triển bền vững ở Việt Nam. Để chủ động đón nhận cơ hội và thách thức của
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến quá trình phát triển nhanh và bền vững,
Việt Nam đã và sẽ kiên trì thực hiện quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới
mơ hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động,
sức cạnh tranh của nền kinh tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và
mục tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Trong bối cảnh quy mô của nền kinh tế và các nguồn lực cịn hạn chế,
Chính phủ vẫn dành ưu tiên cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
tăng cường tiềm lực khoa học-công nghệ như là một trong ba đột phá chiến lược.
Đối với nhóm người có thu nhập thấp trong xã hội, Chính phủ quan tâm
thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp tạo việc làm, thu nhập thơng
qua đào tạo nghề và hỗ trợ tín dụng; chú trọng dạy nghề cho thanh niên nông
thôn, nông dân, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người
dân tộc thiểu số và lao động nữ.
Bên cạnh các chương trình quốc gia về nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ để nâng cao tiềm lực, trình độ khoa học-cơng nghệ trong nước phục
vụ phát triển, Chính phủ cũng dành nguồn lực đầu tư cho các chương trình hỗ trợ
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách tăng trưởng xanh cũng
được chú trọng hơn thông qua các biện pháp siết chặt giám sát, kiểm sốt nguồn
gây ơ nhiễm mơi trường từ hoạt động sản xuất công nghiệp.

Tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ nhanh theo
cấp số nhân và tác động mạnh đến Việt Nam, cả thuận lợi cũng như bất lợi.
Nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua các thách thức, Việt Nam sẽ có khả


19

năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, thực hiện được
mục tiêu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngược lại,
khoảng cách phát triển với các nước đi trước sẽ tiếp tục gia tăng.
Để hóa giải thách thức, tận dụng tốt cơ hội, Việt Nam cần thực hiện
một chương trình nghị sự kép. Đó là tiếp tục giải quyết những vấn đề liên
quan đến kinh tế, xã hội và mơi trường cịn tồn đọng từ giai đoạn tăng trưởng
nóng trước đây; nhanh chóng tận dụng những cơ hội và vượt lên những thách
thức mới xuất hiện liên quan đến cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng
tốc trên phạm vi toàn cầu.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
cần có những nội dung liên quan đến cả hai nhóm này, trong đó cần xác định
những cơ hội và thách thức liên quan đến cách mạng công nghiệp lần thứ tư
như một nội dung bắt buộc của việc phân tích bối cảnh, để điều chỉnh những
thông số của các kế hoạch phát triển trung hạn và dài hạn, đặc biệt là chương
trình đầu tư kết cấu hạ tầng lớn, trước hết là internet, thông tin, truyền thông...
Đồng thời, cần tăng cường nâng cao nhận thức của các cơ quan hoạch
định chính sách cũng như doanh nghiệp (nhất là đối với các doanh nghiệp
trong ngành năng lượng, khai thác tài nguyên, công nghiệp chế tạo do các
ngành có khả năng chịu nhiều tác động) và ngân hàng, về cách mạng công
nghiệp lần thứ tư để giúp điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và đầu tư, qua đó
giúp ngăn ngừa các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai.
Về lâu dài, Việt Nam cần nhanh chóng chuyển từ lợi thế so sánh cấp

thấp sang lợi thế so sánh cấp cao hơn và đa dạng hóa lợi thế so sánh. Muốn
vậy, phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố, như vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên
thiên nhiên sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó nguồn nhân lực là
yếu tố then chốt.
Với hơn 70% dân số Việt Nam sống ở các khu vực nông thôn, trong tương
lai gần, các lĩnh vực này vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế


20

quốc dân, nhưng cần tiếp tục đầu tư phát triển ở mức chuyên sâu hơn nhằm ứng
dụng công nghệ cao, tăng năng suất, chất lượng và tạo giá trị gia tăng cao hơn.
Việt Nam cần nâng cao năng lực hấp thụ cơng nghệ, khuyến khích đổi
mới sáng tạo, thúc đẩy thiết lập các cụm liên kết ngành; dành ưu tiên đầu tư
công cho phát triển kết cấu hạ tầng gắn với việc cải thiện tính kết nối (mở
rộng độ bao phủ, tăng tốc độ truy cập và hạ giá sử dụng internet); phát triển
thị trường vốn dài hạn và thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm
gắn với phát triển công nghệ và sáng tạo.
Việt Nam cần thực hiện chính sách cơng nghiệp phù hợp để tăng cường
mối liên kết chặt chẽ hơn giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI), đặc biệt là có các biện pháp hỗ trợ các
doanh nghiệp khởi nghiệp và một số doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả
trong các lĩnh vực ứng dụng, phát triển công nghệ, nhất là công nghệ, công
nghiệp hỗ trợ gắn với các chuỗi giá trị toàn cầu; thúc đẩy sự hợp tác hiệu quả
giữa Nhà nước, khu vực doanh nghiệp và các trường đại học công nghệ để
thúc đẩy sự phát triển một số ngành chọn lọc, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Cần thực hiện cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức
của thế hệ trẻ, hướng sinh viên vào học các ngành khoa học và công nghệ;
nuôi dưỡng các kỹ năng khoa học, cơng nghệ. Có cơ chế để khuyến khích sự
gắn kết giữa các doanh nghiệp và tổ chức giáo dục đào tạo.

Chủ động chuẩn bị các giải pháp
Bên cạnh các giải pháp kinh tế-xã hội, dưới góc độ chính sách khoa học
và cơng nghệ, để có thể nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức của cuộc cách
mạng công nghiệp hiện đại phục vụ tăng trưởng bền vững.
Trước hết, phải xác định các hướng công nghệ, các ngành công nghệ
công nghiệp mà Việt Nam cần ưu tiên phát triển trong trung hạn và dài hạn để
đón đầu các xu hướng công nghệ mới trên thế giới (dựa trên trí tuệ ảo AI,
internet vạn vật IoT...); đổi mới việc xác định nhiệm vụ khoa học, công nghệ


21

cấp quốc gia phù hợp với xu hướng phát triển các nghiên cứu liên ngành và
xuyên ngành sinh học, vật lý học, kỹ thuật số.
Chuyển dịch trọng tâm chính sách khoa học và công nghệ, từ chỗ đầu
tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) là chủ yếu sang chú trọng
đầu tư cho thương mại hóa kết quả R&D; lấy doanh nghiệp là trung tâm của
hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu ứng
dụng để nhanh chóng nâng cao năng lực cơng nghệ trong nước, trình độ thiết
kế, chế tạo, ứng dụng công nghệ trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên.
Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp
không nên dàn trải đối với hoạt động khởi nghiệp chung để chỉ tăng số lượng
các doanh nghiệp khởi sự kinh doanh, mà quan trọng là cần tập trung cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng cao.
Việt Nam cần tiếp tục dành ưu tiên cho việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Chú trọng nâng cao trình độ cán bộ kỹ thuật, quản trị công nghệ và
quản lý, quản trị doanh nghiệp; có chính sách khuyến khích chuyển dịch lao
động trình độ cao từ các viện nghiên cứu, trường đại học sang khu vực doanh
nghiệp; tăng cường chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, dạy nghề, bảo đảm
cung cấp đầu vào về lao động chất lượng cao cho các doanh nghiệp. Đổi mới

tư duy và phương thức quản lý nhà nước dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật
cao, để giảm thiểu thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, bảo đảm minh
bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước. Cần đầu tư tới ngưỡng và kiên
quyết triển khai Đề án Chính phủ điện tử để giảm chi phí xã hội, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Trong bối cảnh chung của thế giới hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau, cần
có các nỗ lực liên kết tổng thể với sự vào cuộc của tất cả các quốc gia liên
quan ở cấp độ khu vực và tồn cầu. Trong việc thực hiện cuộc cách mạng
cơng nghiệp 4.0, Việt Nam cần khai thác triệt để kênh hợp tác và hội nhập
quốc tế, thống nhất quan điểm, kế hoạch hành động chung với các quốc gia,


22

tổ chức quốc tế trong khu vực và thế giới, cùng nắm bắt cơ hội, vượt qua
thách thức để phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
quốc gia và tạo điều kiện cho mọi người dân được tiếp cận bình đẳng, hưởng
lợi từ các thành quả của cách mạng công nghiệp, tăng trưởng bền vững.
KẾT LUẬN

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta cần một xã
hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi
nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát
triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ khơng phải gia
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã
hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn chứ không phải cạnh tranh bất cơng... Chúng ta cần sự phát triển bền
vững, hài hịa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các
thế hệ hiện tại và tương lai...”7. Quan điểm, chính sách, giải pháp trong phịng
chống đại dịch COVID-19 cũng như mức độ quan tâm của Đảng, Nhà nước

với nhân dân, nhất là các thành phần yếu thế trong xã hội ta đã chứng tỏ cho
thế giới sự ưu việt của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, dù chưa phải là nước
phát triển và đã minh chứng rõ rệt cho lời nói của Tổng bí thư. Trong khi đó,
thế giới đang đối mặt với nhiều tác động tiêu cực mà sự ảnh hưởng to lớn của
nó làm giảm thiểu cơ hội và gia tăng thách thức tới các mục tiêu thiên niên kỉ
nhằm hướng tới phát triển bền vững cho tồn thể nhân loại. Có thể nói, những
thành tựu bước đầu trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam là rất quan trọng, nó khẳng định đường lối của Đảng và chính sách của
Nhà nước là đúng đắn, hiệu quả; đồng thời, là cơ sở vững chắc cho sự thắng
lợi của sự nghiệp Đổi mới, góp phần nhanh chóng đưa nước ta trở thành nước
phát triển vào năm 2045.
7

Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, sđd, tr.21.


23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Thanh Bình, (2020), “Phát triển bền vững ở Việt Nam:
Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển đến năm 2030”,
/>2. Cổng thơng tin điện tử chính phủ, (2012), “Quyết định số 432/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
6. Thomas Friedman, Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà
Nội, 2008.
7. Võ Thị Hoa, (2019): Giáo trình Chính trị học phát triển, Nhà xuất bản
Lý luận Chính trị.
8. Trần Thị Vân Hoa (chủ biên), Cách mạng công nghiệp 4.0 - vấn đề
đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017.
9. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.1, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
10. Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, H.2018.
11. Alvin Toffler, Đợt sóng thứ 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
12. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.



×