HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
----------------------------------------
TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MÔN: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG “NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ
VÌ DÂN; TẤT CẢ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN
DÂN”. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở TỈNH VL HIỆN NAY
Họ tên học viên: TR……………
Mã số học viên: MP ……………..
Lớp: Cao học XDĐ & CQNN, hệ …………………………..
VL – 202…
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU: ............................................................................................................................ 03
2
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 03
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 03
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 04
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 04
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận ......................................................................... 04
6. Kết cấu của tiểu luận ......................................................................................................... 04
NỘI DUNG:
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ................................................................................... 05
1.1. Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhân
dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân ....................... 05
1.2. Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ..................................................................... 07
1.3. Nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân, vì dân phải là Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hiệu quả ............................................................................................................. 08
1.4. Nhà nước ta do đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi .................................................................... 11
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN CỦA ĐẢNG TA. LIÊN
HỆ THỰC TIỄN Ở TỈNH VL HIỆN NAY ................................................... 12
2.1. Sự vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội ........................... 12
2.2. Liên hệ ở VL việc thực hiện “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ...................................................19
KẾT LUẬN ............................................................................................................................22
Chú thích ............................................................................................................................. 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: .......................................................................... 24
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
3
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành từ khi
cịn ở nước ngồi trong q trình tìm đường cứu nước và được hồn thiện dần từ sau Cách
mạng Tháng Tám thành cơng, lập nền Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì
dân; tất cả quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân, được nhân dân ủy thác cho các cơ
quan trong bộ máy nhà nước. Đó là Nhà nước mang bản chất giai cấp nhân, phục vụ lợi ích
của tồn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Đảng ta quán triệt thực hiện, bổ sung và phát triển
sáng tạo qua các kỳ Đại hội Đảng, đáp ứng yều cầu đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước
trong từng giai đoạn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiện thực hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Để góp phần tìm hiểu và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của
Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, tôi chọn chủ đề: phân tích
đặc trưng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân,
do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; liên hệ thực tiễn ở
tỉnh VL hiện nay” làm bài tiểu luận (điều kiện) của mình cho mơn học: “Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận: Trên cơ sở khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về
những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ Việt Nam của dân, do
dân, vì dân, tiểu luận làm rõ sự quán triệt thực hiện và bổ sung, phát triển của Đảng ta
về tư tưởng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh; từ đó liên hệ thực tiễn vấn đề này
ở tỉnh VL hiện nay.
4
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận: Làm rõ những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ Việt Nam của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và sự
bổ sung, phát triển của Đảng ta, từ đó liên hệ thực tiễn ở tỉnh VL hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những đặc trưng cơ của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những đặc trưng cơ của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương
pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa
lâu dài trong cơng tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiệu
lực, hiệu quả, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, chú thích và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung tiểu luận gồm 2 chương, 6 tiết.
5
NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống văn
hóa và những kinh nghiệm xây dựng, quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết quả của
sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà nước trên thế
giới, điển hình như Mỹ, Pháp, Liên Xô..., đồng thời, sự thấm nhuần và vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện nước ta.
Mặc dù Hồ Chí Minh khơng dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng về
nhà nước pháp quyền đã được thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của
Người về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà cịn trong tồn bộ cuộc đời
hoạt động cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh với tư cách là người sáng lập Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
những đặc trưng cơ bản sau:
1.1. Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước là cơng cụ phục
vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh xác định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do
dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân” (1). Đó là bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Người
cũng chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt
nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hịa, tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam.
Khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (2). Bộ máy nhà
6
nước là do nhân dân lựa chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ
từ tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung
cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của
Pháp, Nhật” (3). Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc
gì mà pháp luật khơng cấm, đồng thời có nghĩa vụ tn theo pháp luật.
Vì nhân dân là chủ thể của Nhà nước nên Hồ Chí Minh u cầu Nhà nước phải
tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân và
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân dân với tinh thần cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại
đến dân, ta phải hết sức tránh” (4).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền của dân, do dân khơng
chỉ ở chỗ nhà nước đó do dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ, phải xin ý kiến nhân
dân những công việc hệ trọng, mà còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Nhân dân có quyền phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. Phải dựa vào ý kiến của
nhân dân mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của Nhà nước. Người viết: “Chế độ ta là chế
độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền
đơn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ và
làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm trịn phận sự mà nhân dân đã
giao phó cho” (5). Người còn chỉ rõ: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với
tín nhiệm của nhân dân. Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (6). “Nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (7).
Hồ Chí Minh quan niệm, trong nhà nước pháp quyền do dân và vì dân, nhân dân
là nguồn gốc sức mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vơ tận giúp Nhà nước hồn thành
7
chức năng, nhiệm vụ của mình. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước
chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy
cũng làm được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong”, “Khơng có lực lượng
nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng làm khơng xong...” (8). Vì vậy, Nhà nước phải
biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí
của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt khác, Nhà nước
được thành lập không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục vụ nhân dân, thực
hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có
giải quyết các vấn đề của chính mình. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “dân như nước mình như
cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế
hoạch, cổ động”. “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu
khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đoàn kết thành một khối” (9).
1.2. Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được
tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Từ những hiểu biết về nền văn minh Âu - Mỹ cũng như tham khảo kinh nghiệm
tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong quản lý xã hội, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
được vai trị quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Năm 1919,
trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh đã
địi thực dân Pháp phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo
luật theo tinh thần “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đó cũng là tư tưởng của
Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng
pháp luật.
Theo tinh thần “thượng tôn luật pháp”, Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động
một cách hợp Hiến và hợp pháp. Do đó, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, đọc
Tuyên ngôn khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Hồ Chí Minh đề ra với
Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là “chúng ta phải có một Hiến pháp dân
chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu”
. Và chỉ trong một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã tổ chức
(10)
8
thành công cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, khẩn trương xây dựng và thông qua
Hiến pháp 1946, đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành
Nhà nước, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật
của ta là pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh
và phát huy hiệu lực thực tế. Người chỉ rõ: “Tăng cường khơng ngừng chính quyền
nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”
(11)
; “Pháp luật phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kể kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”
(12)
.
Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, Người viết: “Các bạn là những người phụ
trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “Phụng công,
thủ pháp, chí cơng, vơ tư”, cho nhân dân noi theo” (13).
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước có trình độ văn hóa,
am hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là
phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục
vụ nhân dân. Người đã ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-5-1950 ban hành Quy chế công
chức, chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính, khởi
xướng việc xây dựng hệ tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ, cơng chức theo hướng chính
quy, hiện đại, dân chủ, công bằng, công khai. Không chỉ quan tâm đến việc xây dựng
pháp luật và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, Hồ Chí
Minh cịn đặc biệt quan tâm đến việc đưa pháp luật vào đời sống, tạo cơ chế để pháp
luật được thi hành nghiêm minh. Đối với các cán bộ và cơ quan nhà nước, Người địi
hỏi khơng những phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng
Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn phải đặc biệt “gương mẫu trong việc
thi hành Hiến pháp và các luật lệ” (14).
1.3. Nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân, vì dân phải là Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
9
Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln trăn trở tìm
cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một nhà nước pháp quyền kiểu mới, trong
sạch, vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước
kiểu cũ. Trong rất nhiều giải pháp đã thực hiện, có hai nội dung cơ bản được Người
đặc biệt quan tâm, đó là:
Thứ nhất, tăng cường pháp luật đi đơi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”,
không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức
cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có
chức, có quyền, đi đơi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị
những kẻ vi phạm pháp luật và thối hóa đạo đức, làm hại cho dân, cho nước.
Để làm tròn vai trò là “đày tớ của nhân dân”, các cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân
dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự
yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở công bằng và thực sự cần, kiệm, liêm
chính, chí cơng vơ tư. Đi đơi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh cũng rất kiên quyết
với những hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù
người đó ở cương vị nào. Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn
định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép
tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong việc thực thi quyền hạn và trách
nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn thể hiện là một con
người gương mẫu, sáng suốt, thống nhất hài hịa giữa lý trí và tình cảm, bao dung,
nhân ái, nhưng vẫn giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Người không bao che, dung túng
cho những hành vi sai lầm, khuyết điểm, vi phạm pháp luật của bất cứ ai, nhưng đồng
thời vẫn dùng sức mạnh, uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ
về phía cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh vi phạm pháp
luật.
10
Thứ hai, ln đề phịng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động
của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc
vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo
đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải ln nêu cao cảnh giác với những biểu
hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong
sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi lập nước, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ủy
ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phịng là: trái
phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không
sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không
phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai
đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu khơng tự sửa chữa thì
Chính phủ sẽ khơng khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà,
mà tơi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “cơng bình, chính trực” vào lịng
. Vũ khí để phòng ngừa, khắc phục những sai lầm trên, theo Hồ Chí Minh, chính là
(15)
đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình, phát huy vai trị gương mẫu, tự giác
đề phòng và sửa chữa sai lầm trong nội bộ tổ chức, đồng thời tăng cường vai trò kiểm
tra, giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Người viết: “Từ ngày thành
lập Chính phủ, trong nhân viên cịn có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách
mạng, chợ đỏ, chợ đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia ... Xin đồng bào hãy phê
bình, giúp đỡ giám sát cơng việc của Chính phủ”
. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ
(16)
Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” - tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu, những căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn trong bộ máy nhà nước mà chúng ta
phải ln đề phịng và kiên quyết chống, nếu khơng sẽ dẫn đến nguy cơ suy thối, đổ
vỡ khơng lường hết được. Người nói: “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý
hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần
trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là
cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”
. Người
(17)
chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa đánh thù trong và diệt giặc ngồi: “Chống tham ô,
11
lãng phí và bệnh quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận... Nếu chiến
sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như thế là
chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”
. Đồng thời, Người khơng qn nhấn mạnh, đây
(18)
là một cuộc đấu tranh rất gay go, phức tạp, đòi hỏi phải có quyết tâm cao: “Việc đấu
tranh với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh với
kẻ địch ở trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót... vì vậy,
phải có quyết tâm đấu tranh mới được” (19).
1.4. Nhà nước ta do đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến
pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục
vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định tồn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước
ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo” (20). Bản chất giai cấp công nhân cịn thể hiện ở tính định hướng
đưa đất nước q độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh
tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến” (21). Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo, và Đảng ta trở thành đảng cầm quyền. Trong
Di chúc gửi lại đồng bào, đồng chí, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần,
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng
là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Người thường nhắc
nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không phải đảng
trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người về xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục
soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình
12
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn
diện, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.
Chương 2
SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Ở TỈNH VL HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
các kỳ đại hội
Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời. Đó
là một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta
khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là “bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiến quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về Nhà nước, tổ chức
bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá trong bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959,
đồng thời đã thể chế hoá quan điểm Đảng ta về “sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản” (22).
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
Nhà nước chun chính vơ sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thơng qua đó Đảng thực hiện sự
lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội…”
(23)
.
Quan điểm của Đảng về
Nhà nước chun chính vơ sản đã được thể chế hoá trong Điều 2 -Hiến pháp 1980:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chun chính vơ sản. Sứ
mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
13
hố, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, xố bỏ chế độ người bóc lột
người, đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động
xâm lược và phá hoại của kẻ thù bên ngồi, xây dựng thành cơng xã hội chủ nghĩa,
tiến tới chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hồ bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách
mạng của nhân dân thế giới”.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới đã đặt ra
những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây dựng nhà nước
trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Đảng ta khẳng định “Nhà nước ta là
công cụ của chế độ làm chủ tập thể XHCN, do giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời kỳ q độ, đó là Nhà nước
chun chính vơ sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa …”
(24)
. Mặc dù vẫn
dùng khái niệm “Nhà nước chun chính vơ sản”, nhưng chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội VI đã có đổi mới:
“Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hoá bằng pháp luật,
quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp
luật. Nhà nước ta phải bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng
thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân…” (25).
Với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI
của Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề,
nhiều tầng, nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn cán
bộ chưa được xác định rõ ràng” (26). Vì vậy, “… Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần
thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước theo
phương hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự
phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý - hành chính - kinh tế với quản lý sản
14
xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội…” (27).
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII (1994) lần đầu tiên
Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và nêu khá cụ thể, toàn
diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam: “tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn
thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng
trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp
cơng nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố VII tại Đại hội lần
thứ VIII tiếp tục khẳng định 5 quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền đã
được Hội nghị Trung ương 8 khoá VII xác định, đồng thời đặt ra các nhiệm vụ: đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước đồng bộ trên các
mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện tồn đội ngũ cán
bộ, cơng chức hành chính; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp; củng cố kiện toàn bộ
máy các cơ quan tư pháp... Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân,
các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp… (28).
Hội nghị Trung ương lần thứ ba khố VIII đã thơng qua nghị quyết “Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết Trung ương 3 khố VIII đã đưa ra sự
đánh giá tình hình xây dựng Nhà nước trong thời gian qua với những nhận định về các
bước tiến bộ, các mặt yếu kém trong quá trình xây dựng Nhà nước và chỉ ra rằng: việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh
tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa
tìm tịi, rút kinh nghiệm. Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần
thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Nghị quyết nhấn mạnh “3 yêu cầu trên
15
quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đồn kết dân tộc mà
nịng cốt là liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam”.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2002) và Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Đại hội XI (tháng 1/2011 khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh
tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường”. Đồng thời, xác định một trong
những phương hướng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế, vận
hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, và
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (29).
Đại hội XII của Đảng (20/1- 28/1/2016) tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán
của Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn phát triển mới: “Xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp,
hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. (...) Xác
định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
16
hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền” (30).
Đại hội XIII đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực
và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp” (31); nội dung, phương thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
từng bước được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc
tế. Tuy nhiên, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp
ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” (32).
Từ đó, Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với những nội dung mới về chất so với các kỳ đại
hội trước. Cụ thể là:
Thứ nhất, xác định vị trí của nhiệm vụ, các nội dung, biện pháp xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về vị trí của nhiệm vụ, Văn kiện xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” (33). Bởi,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thành phần cơ bản của hệ
thống chính trị Việt Nam, lực lượng chính trị có vai trị quyết định trong việc thể chế
hóa chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đảng thành thực tiễn sinh động. Do vậy,
bên cạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt, coi đó là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Về nội dung, biện pháp xây dựng, được Đại hội XIII đề cập rất tồn diện, phong
phú; khơng chỉ xây dựng Nhà nước có tính chun nghiệp, hiện đại, mà cịn coi trọng
việc xây dựng Nhà nước về bản chất chính trị; khơng chỉ quan tâm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống luật pháp mà cịn coi trọng khía cạnh chấp hành luật pháp; không chỉ
quan tâm đến yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập
17
quốc tế; không chỉ quan tâm đến việc xây dựng các thiết chế của bộ máy nhà nước:
Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp, mà cịn coi trọng
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức của bộ máy nhà nước, v.v.
Để tăng cường xây dựng bản chất chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đại hội XIII cũng chỉ rõ: việc ban hành luật pháp phải “lấy quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi
mới sáng tạo”; quy trình làm luật của Quốc hội phải “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân”; phải tập trung “Xây dựng nền hành chính nhà
nước phục vụ nhân dân”; xây dựng nền tư pháp “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ: công lý, quyền con người, quyền công
dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của tổ chức, cá nhân”; “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất,
năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”.
Thứ hai, điểm nổi bật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII là sự nhất quán tư tưởng “thượng tôn
pháp luật”. Đây là tư tưởng chỉ đạo khắc phục những hạn chế, yếu kém mà Đại hội
chỉ ra: “Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có
lúc cịn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức
răn đe” (34). Chính tinh thần “thượng tôn pháp luật” được đề cao cùng với một hệ thống
pháp luật hoàn thiện, thống nhất sẽ là động lực mạnh mẽ để xây dựng xã hội lành
mạnh, kỷ cương và mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ ba, Đại hội XIII nhấn mạnh đến “nguyên tắc pháp quyền” trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước và trong xây
dựng nền hành chính nhà nước.
Đối với nội dung xây dựng các thiết chế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội theo hướng: tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền trong tổ chức và hoạt động, trong thực hiện
chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
18
cao; bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. Điểm mới trong tổ chức Quốc hội là: “tăng hợp lý số
lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan
hành pháp, tư pháp” (35). Điều đó sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động
của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp hơn, nhất là trong thực hiện quy trình lập
pháp và giám sát việc thực hiện luật pháp.
Đối với thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội, Văn kiện xác định việc tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, “xây dựng được hệ thống pháp
luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, cơng khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh
quốc tế” (36). Theo đó, cần xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền
kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế; nội luật hóa những điều ước
quốc tế, nhất là các hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành
viên.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ,
pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch;
tập trung xây dựng Chính phủ “kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”. Trong
nhiệm kỳ này, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa
Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa
phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
bảo đảm quản lý nhà nước là thống nhất. Đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; nâng cao chất lượng dịch vụ
công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh, gọn,
bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả; đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử để
đáp ứng xu hướng phát triển xã hội số, nền kinh tế số.
Đối với cơ quan tư pháp, “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun
nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân”; coi đó là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
19
Về chính quyền địa phương, Đại hội XIII bổ sung, làm rõ hơn nội dung: tiếp tục
hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải
đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt theo luật định. Cải cách phân cấp ngân sách
nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo
đảm vai trò chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.
Để có đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất
nước; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tăng
cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo
mơi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đồng
thời, yêu cầu có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người khơng hồn thành
nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật,
khơng cịn uy tín đối với nhân dân.
2.2. Liên hệ ở VL việc thực hiện “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Quán triệt các Nghị quyết của Trung ương Đảng và trên cơ sở quy định của Hiến
pháp và pháp luật, thời gian qua Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng đã ban hành nhiều văn bản
lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền các cấp
trong tỉnh, bước đầu đạt được những kết quả tích cực.
Thứ nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp trong tỉnh được
nâng lên. Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011 - 2020, định hướng giai đoạn 2021 - 2030 tỉnh VL, cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước của tỉnh đã được các cấp ủy và chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
và nghiêm túc triển khai thực hiện. Bộ máy hành chính của tỉnh đã cơ bản được sắp
xếp tinh gọn, hoạt động chất lượng và hiệu quả, phục vụ tốt yêu cầu và nhiệm vụ chính
trị trong tình hình mới. Triển khai thực hiện thí điểm nhất thể hóa chức danh người
đứng đầu trên địa bàn tỉnh ở những nơi có điều kiện. Đến nay, tồn tỉnh có 5/11 đơn vị
20
cấp huyện và 44/109 đơn vị cấp xã thực hiện chủ trương Bí thư cấp ủy đồng thời là
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp; có 1/11 đơn vị cấp huyện và 15/109 đơn vị cấp xã
thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân; 10/11 đơn
vị cấp huyện bố trí trưởng ban dân vận cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp ... Ngoài ra, tỉnh cũng thành lập Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật cấp tỉnh trên cơ sở hợp nhất các trung tâm thuộc lĩnh vực y tế dự phòng tuyến
tỉnh; thực hiện việc sáp nhập Trường Trung cấp Văn hóa - Nghệ thuật, Trường Trung
cấp Y tế, Trường Cao đẳng Sư phạm vào Trường Cao đẳng Cộng đồng VL. Đây là
điều kiện giúp các cơ quan nhà nước của tỉnh hoạt động ngày càng hữu hiệu, phục vụ
nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị tốt hơn trong
tình hình mới.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân ba cấp trong tỉnh được nâng lên. Trong nhiệm kỳ 2016-2021, Hội đồng nhân dân
ba cấp trong tỉnh VL đã ban hành 7.069 nghị quyết; trong đó, cấp tỉnh ban hành 334
nghị quyết; cấp huyện ban hành 1.239 nghị quyết; cấp xã 5.496 nghị quyết. Các nghị
quyết được ban hành đúng pháp luật, phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các hoạt động giám sát, tiếp xúc
cử tri, tiếp công dân, giải quyết khiếu tố, khiếu nại được Hội đồng nhân dân ba cấp
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, giải quyết kịp thời những vướng mắc,
kiến nghị của công dân.
Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh đã có nhiều cố gắng trong cơng tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành, tăng cường vai trò trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, người đứng đầu;
phân cấp quản lý mạnh hơn cho chính quyền cấp dưới. Tập trung đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là đơn vị hành chính cấp xã theo hướng tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chủ trương
của Nhà nước và hướng dẫn của cấp trên, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng
tình ủng hộ.
Thứ ba, cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được triển
khai thực hiện quyết liệt. Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, ngành địa
21
phương thực hiện cải cách hành chính theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ. Giai đoạn 2015-2020, các cấp, ngành
trên địa bàn tỉnh đã rà sốt, đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành
chính, trong đó, 100% thủ tục được giải quyết theo cơ chế một cửa, 107 thủ tục được
giải quyết theo cơ chế một cửa liên thông. Tỉnh đã thành lập Trung tâm Phục vụ hành
chính cơng, giải quyết 1.334 loại thủ tục thuộc thẩm quyền của các cơ quan cấp tỉnh.
Tỷ lệ hồ sơ giải quyết đúng hạn của tỉnh đạt trên 90%.
Thứ tư, về thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân được cấp uỷ, chính
quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đã tổ chức quán triệt, triển khai sâu rộng
các nội dung về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đến cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân với nhiều hình thức phong phú, đạt hiệu quả cao. 109/109 xã, phường,
thị trấn đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đảm bảo về số
lượng, cơ cấu và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Chủ động xây dựng
quy chế hoạt động, chương trình công tác, kế hoạch kiểm tra định kỳ và đột xuất, duy
trì tốt chế độ giao ban hàng tháng; chủ động tham mưu giúp cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo
giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp từ cơ sở.
Thứ năm, phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong bàn, quyết định mức
đóng góp xây dựng các cơng trình phúc lợi liên quan trực tiếp đến người dân ... Đặc
biệt, phong trào xây dựng xã nông thôn mới được nhân dân tích cực tham gia và đạt
kết quả tốt. Đến nay, tỉnh VL đã có 62,5% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 03 xã nông
thôn mới nâng cao, 02 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ nơng thơn
mới; diện mạo nơng thơn mới có bước phát triển vượt bậc, đời sống của người dân
được nâng lên rõ rệt.
Thứ sáu, vai trò giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua hoạt động của
ban thanh tra nhân dân và ban giám sát đầu tư của cộng đồng được phát huy. Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội ở các địa phương chủ động xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực hiện một số nội dung giám sát, phản biện xã hội theo Quyết
định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khố XI).
22
Những kết quả trên đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động của
hệ thống chính trị trong tỉnh, đặc biệt là hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
các cấp. Củng cố niềm tin của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước,
thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển khá; văn hóa - xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; quốc phịng, an ninh được
bảo đảm, giữ vững, chính trị xã hội ổn định.
KẾT LUẬN
23
Lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật cho thấy, nhà nước pháp quyền là
một trong những giá trị chung của nhân loại tiến bộ, đề cao pháp luật, thể hiện ước
muốn, khát vọng của con người về một xã hội dân chủ và bình đẳng. Nhiều quốc gia
tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã kế thừa, vận dụng để xây dựng mơ hình nhà nước
pháp quyền ở những mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln coi trọng, đề
cao việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, được thể hiện rõ nét trong các văn kiện Hội nghị thành lập Đảng, Đại
hội Đảng lần thứ I, đặc biệt, được cụ thể hóa trong bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (năm 1945) và Hiến pháp năm 1946. Đó là một
Nhà nước với tinh thần xuyên suốt là: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân”
(37)
; “Mọi cơng việc đều vì lợi ích của dân mà làm”
. Theo đó, bộ
(38)
máy nhà nước được thiết lập là thừa hành ý chí của nhân dân; đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước là “công bộc của nhân dân”, chăm lo cho sự ấm no, hạnh phúc của
nhân dân.
Quán triệt tư tưởng cốt lõi khởi nguyên đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong q
trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Đảng ta quán triệt thực hiện, bổ sung và phát triển sáng tạo qua các kỳ Đại
hội Đảng, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hiệu lực, hiệu quả, đáp
ứng yều cầu đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước trong từng giai đoạn, củng cố niềm tin
của nhân dân, mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ngày càng
hiện thực trên Tổ quốc Việt Nam anh hùng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp
ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” 2.
Vì vậy, Đại hội XIII khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” (39)./.
24
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.6, Nxb CTQG, H.1995, tr.232, 515.
(2) Hiến pháp Việt Nam năm 1946,1959,1980 và 1992. Nxb CTQG, H.1995, tr.8.
(3), (4), (9), (10), (15) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb CTQG, H.1995, tr.56; 5657; 56; 8; 61.
(5), (7), (19) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.7, Nxb CTQG, H.1995, tr.368; 282; 36.
(6), (20), (21) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.9, Nxb CTQG, H.1995, tr.579; 586; 588.
(8), (12), (17), (18), (37), (38) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.6 Nxb CTQG, H.1995,
tr.292; 127; 490; 495; 232; 397.
(11) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.11, Nxb CTQG, H.1995, tr.234.
(13), (16) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.5, Nxb CTQG, H.1995, tr.328; 61.
(14) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.10, Nxb CTQG, H.1995, tr.30.
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Nxb Sự thật, H,1961, tr.179.
(23) Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37, tr.577.
(24), (25), (26), (27), (28) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,
VII, VIII, IX). NxbCTQG, H,2006, tr.124; 125; 125; 125; 510.
(29) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG-ST 2011, tr.246347.
(30) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST 2016,
tr.39 – 40.
(31), (32), (33), (34), (35), (36); (39) Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tập I, Nxb
CTQGST, H. 2021, tr. 71; 89; 174; 89; 176; 285; 174.
25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, t.5, t.6, t.7, t.9, t.10, t.11, Nxb CTQG, H.1995.
2. Hiến pháp Việt Nam các năm: 1946,1959,1980, 1992, 2003 và 2013.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Nxb Sự thật, H,1961.
4. Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37.
5. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NxbCTQG,
H,2006.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG-ST 2011.
7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST 2016.
8. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021.
9. Bài giảng của giảng viên học phần “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa”, lớp Cao học không chuyên K27, ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền
nhà nước tỉnh VL.