Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đề tài những vấn đề đặt ra đối với NHNN việt nam để thực thi chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.19 KB, 21 trang )

lOMoARcPSD|11617700

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP NHĨM

Mơn học: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Đề tài: Những vấn đề đặt ra đối với NHNN Việt Nam
để thực thi chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu.
Giảng viên hướng dẫn

: PGS.TS Cao Thị Ý Nhi

Lớp học phần

: Ngân hàng Trung ương (221) _01

Nhóm sinh viên

: Nhóm 5

Sinh viên thực hiện:
1. Hồng Thu Phương

: 11194201

2. Phạm Thu Hà

: 11191581


3. Phan Thị Loan

: 11193120

4. Bùi Ngọc Lan

: 11192672

5. Nguyễn Thị Hà My

: 11193505

6. Nguyễn Thị Hà Phương

: 11194260

7. Nguyễn Thị Phương Chung

: 11190915

8. Phạm Thị Ngọc Trang

: 11195399

9. Trần Thị Thanh Tâm

: 11194606

10. Phạm Quang Khải


: 11192530

Hà Nội, tháng 3 năm 2022


lOMoARcPSD|11617700

MỤC LỤC
Phần I: Tổng quan về chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu ............... 1
1. Chính sách lạm phát mục tiêu là gì: ..................................................................1
2. Ưu điểm của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu ..................................2
3. Nhược điểm của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu ............................3
4. Các điều kiện tiên quyết của chế độ lạm phát mục tiêu ..................................3
4.1.

Mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác ......................4

4.2.

Khơng có thống trị tài khóa (físcal dominance) .............................................4

4.3.

NHTW độc lập về cơng cụ CSTT. .................................................................4

Phần II: Thực trạng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam và
những vấn đề đặt ra ................................................................................ 5
1. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay ..........................5
2. Thuận lợi khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam...............6
2.1.


Ngân hàng Nhà nước thành cơng kiểm sốt lạm phát trong nhiều năm .........6

2.2. Ngân hàng Nhà nước có kinh nghiệm trong việc linh hoạt điều chỉnh chính
sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát ...........................................................................8
2.3.

Tại Việt Nam, lạm phát đã và đang là mục tiêu được ưu tiên hơn .................8

3. Thách thức NHNN gặp phải khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu. .....8
3.1.

NHNN VN là ngân hàng trực thuộc Chính Phủ .............................................8

3.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa độc lập hồn tồn về cơng cụ chính
sách tiền tệ ................................................................................................................8
3.3. Ngân hàng Nhà nước cần phải cơng khai minh bạch hơn và có trách nhiệm
cao hơn ......................................................................................................................9
3.4.

Đây là thời điểm nhạy cảm để thay đổi chính sách ........................................9

3.5. Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với khó khăn trong điều hành chính sách
tiền tệ và chọn ra khoảng lạm phát hợp lý ................................................................9

Phần III: Một số quốc gia đã áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu ....... 11
1. Kinh nghiệm của các nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo lạm
phát mục tiêu. ...........................................................................................................11
1.1. Nhóm nước áp dụng do kỳ vọng một cơ chế CSTT mới hiệu quả hơn. .......11
1.1.1. Kinh nghiệm của New Zealand .................................................................11

1.1.2. Kinh nghiệm của Canada ..........................................................................12
1.2. Nhóm nước áp dụng nhằm ứng phó hoặc bị tác động bởi các cú sốc về
khủng hoảng tài chính – tiền tệ. ...........................................................................13
1.2.1. Kinh nghiệm của Brazil .............................................................................13


lOMoARcPSD|11617700

1.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan ........................................................................14
2. Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu cho
Việt Nam ...................................................................................................................15

Phần IV: Đề xuất các giải pháp .............................................................. 17
1. Ngân hàng trung ương phải chủ động, linh hoạt hơn trong việc điều hành
chính sách tiền tệ ......................................................................................................17
2. Tiếp thu bài học của các quốc gia đi trước, từng bước độc lập về cơng cụ
chính sách tiền tệ ......................................................................................................17
3. Cân bằng được mục tiêu của chính sách tiền tệ ................................................17
4. Nâng cao độ tin cậy và trách nhiệm của ngân hàng nhà nước. .......................18


lOMoARcPSD|11617700

Phần I: Tổng quan về chính sách tiền tệ theo lạm phát mục
tiêu
1. Chính sách lạm phát mục tiêu là gì:
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cho rằng: Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là một bản
công báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín của cơ quan
thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm phổ biến thông tin
về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền tệ tới công chúng và thị

trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Trung ương để đạt được các chỉ
tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo
lạm phát (một cách hồn tồn hay rõ ràng) đóng vai trị là chỉ tiêu trung gian của chính
sách tiền tệ”.
Theo NHTW Châu Âu (ECB) (2004) định nghĩa CSLPMT là “một chiến lược CSTT
nhằm mục tiêu duy trì ổn định giá cả bằng cách tập trung vào khoảng chênh giữa dự báo
lạm phát được công bố với mức CSLPMT đã được công bố”.Quan điểm của ECB cho
rằng trong cơ chế của LPMT, dự báo lạm phát là trọng tâm của việc lập và cơng bố chính
sách, đồng nghĩa với việc “NHTW thơng báo các quyết định CSTT dưới hình thức điều
chỉnh đối với độ lệch của dự báo lạm phát theo một thước đo cụ thể so với LPMT cụ thể
trong một thời gian cụ thể”
Theo quan điểm của Nguyễn Văn Hà (2007), LPMT được miêu tả như một
cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu
trung gian. Theo đó NHTW căn cứ vào chỉ tiêu lạm phát dự báo năm kế hoạch
cũng như độ lệch so với dự báo đó trong thực tế từ đó đưa ra những quyết định tiền tệ
để thực hiện mục tiêu đó và đây là mục tiêu duy nhất của họ.
Nội dung của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
Cách thức NHTW điều hành CSTT theo LPMT như sau:


Thứ nhất, NHTW phải xác định trước một mục tiêu lạm phát trung hạn và mục
tiêu lạm phát này được xác định rõ ràng về mặt định lượng bằng một con số hoặc
một khoảng biên độ xác định sẽ được công bố trước cơng chúng. Điều này có
nghĩa là NHTW phải có trách nhiệm hàng đầu về việc thực hiện mục tiêu lạm
phát đó và đó là mục tiêu duy nhất của NHTW, coi đó là cái chốt để điều hành
CSTT.



Thứ hai, NHTW cần thiết lập một mơ hình dự báo thông qua sử dụng các chỉ số

thông tin như tổng cung tiền, lãi suất, tỷ giá, … những chỉ số ảnh hưởng đến lạm
phát để dự đoán tỷ lệ lạm phát trong tương lai.



Thứ ba, dựa trên độ lệch dự báo lạm phát mà NHTW sẽ xây dựng kế hoạch điều
hành CSTT thông qua sử dụng các công cụ của mình để tác động, thực hiện mục
tiêu lạm phát sao cho tỷ lệ lạm phát thực tế bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ lạm phát
mà NHTW thiết lập.
1


lOMoARcPSD|11617700



Thứ tư, báo cáo đánh giá lại hiệu quả, mức độ đạt được của CSTT theo LPMT
do NHTW thực hiện, đây là bằng chứng để thể hiện sự minh bạch trong CSTT
theo LPMT. Đồng thời thể hiện uy tín của NHTW trong việc hoàn thành mục
tiêu lạm phát đã đề ra, đó cũng là cơ sở để NHTW rút kinh nghiệm cho điều hành
CSTT ở giai đoạn sau.

2. Ưu điểm của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu
So với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ cũ, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu có những ưu điểm như sau:


Đây là một khn khổ chính sách tiền tệ minh bạch với sự đảm bảo bằng trách
nhiệm và uy tín của ngân hàng trung ương trước dân chúng.




Với cơ chế này, ngân hàng trung ương được phép độc lập đưa ra các quyết định
về chính sách tiền tệ.



Mục tiêu duy nhất cuối cùng của chính sách là ổn định giá cả hay giữ lạm phát
ổn định ở mức thấp. Điều này sẽ góp phần tác động tốt tới việc hình thành một
mơi trường vĩ mơ ổn định cho nền kinh tế phát triển.



Với chính sách lạm phát mục tiêu, mọi công dân, nhà đầu tư … đều có thể hiểu
được cách thức và hiệu quả hoạt động của chính sách. Do đó, nó được xem là
chính sách có độ minh bạch rất cao. Điều này thể hiện điểm vượt trội của chính
sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu so với chính sách tiền tệ theo cung tiền bởi
khi chính sách tiền tệ theo cung tiền sẽ không dễ dàng được hiểu bởi công chúng
bởi mối liên hệ giữa cung tiền và lạm phát được xem là khó dự báo trong tương
lai. (Do mối quan hệ không rõ ràng giữa cung tiền và lạm phát, có khi ngân hàng
trung ương đạt được các mục tiêu về cung tiền nhưng lại không đạt được mức
lạm phát như mong muốn.)



Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu giúp ngân hàng trung ương xác định mục
tiêu rõ ràng của mình là quản lý và kiềm chế lạm phát trong dài hạn, chứ không
phải chạy theo các chỉ tiêu tăng trưởng và tỷ lệ việc trong ngắn hạn. Bởi, chính
sách tiền tệ mở rộng có thể kích thích kinh tế phát triển , tạo công ăn việc làm
trong ngắn hạn, nhưng nó sẽ bị đánh đổi bởi lạm phát cao trong dài hạn.Chính

sách tiền tệ lạm phát mục tiêu buộc ngân hàng trung ương phải minh bạch thông
tin và truyền thông nhiều hơn với công chúng. Ngân hàng trung ương khơng chỉ
thường xun với chính phủ, trả lời thắc mắc của quần chúng, mà cịn có cũng
như buổi họp báo thường xuyên về chính sách đang thực hiện. Ngoài ra, ngân
hàng trung ương các nước áp dụng IT phải làm là công bố và phát hành bản báo
cáo về tình hình lạm phát. Sử dụng những cơng cụ truyền thơng nêu trên, ngân
hàng trung ương sẽ giải thích cho mọi tầng lớp trong xã hội về một số khái niệm
như: (1) mục tiêu và lý do tại sao nên áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, (2)
mức lạm phát mục tiêu là bao nhiêu và nó được xác định như thế nào, (3) làm thế
nào để đạt được lạm phát mục tiêu trong điều kiện kinh tế hiện tại, (4) tại sao có
sự chênh lệch giữa lạm phát thực tế và lạm phát mục tiêu. Với chiến lược truyền
thông như vậy, các nhà đầu tư sẽ hiểu hơn về CSTT quốc gia, lạm phát, lãi suất,
2


lOMoARcPSD|11617700

hỗ trợ các quyết định, người dân sẽ hiểu thêm về những việc ngân hàng có thể
làm và khơng thể làm được, làm rõ vai trò và nhiệm vụ của ngân hàng trung ương
và các nhà chính trị trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Chính nhờ những ưu điểm trên, các quốc gia áp dụng IT có thể kiềm chế
lạm phát ở mức thấp và neo đậu sự kỳ vọng lạm phát của cơng chúng. Có thể nói, ở các
quốc gia đã áp dụng IT, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu đã
thể hiện rõ tính ưu việt của mình.
3. Nhược điểm của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu
Bên cạnh những ưu điểm thì CSTT theo LPMT cũng có nhược điểm là:


Điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu đòi hỏi một khoảng thời gian
dài để đạt được các mục tiêu của chính sách. Do đó, trong ngắn hạn, có thể các

mục tiêu đưa ra sẽ khơng đạt được do độ trễ của chính sách



Cơ chế LPMT có phần cứng nhắc, để đạt được mục tiêu lạm phát đã đề ra,các
quốc gia có thể phải đánh đổi bằng tăng trưởng thấp đi so với trước và tỷ lệ thất
nghiệp gia tăng. Khi năng lực điều tiết của CSTT khơng cao sẽ đẩy NHTW vào
vịng luẩn quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lãi
suất và khối lượng tiền) của CSTT.



Xuất phát điểm của các quốc gia khi áp dụng cơ chế LPMT cũng phải thỏa mãn
các điều kiện như: NHTW phải có tính độc lập cao; tình trạng đơ la hóa thấp; hệ
thống tài chính phát triển; Nhiều quốc gia khơng đáp ứng được những điều kiện
khắt khe này có thể áp dụng cơ chế LPMT hoặc phải có những điều chỉnh lớn
trong nền kinh tế để có thể phù hợp với cơ chế này. Khi áp dụng LPMT, NHTW
sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức và vơ điều kiện trong việc thực hiện CSTT
để đạt được chỉ số LPMT dựa trên chỉ số dự báo lạm phát do chính NHTW đưa
ra để đảm bảo uy tín của NHTW trong việc thực thi CSTT theo mục tiêu đã định,
nhằm tạo sự tin tưởng cao từ xã hội, điều này gây áp lực trong q trình điều
hành CSTT của NHTW.



Một bất lợi khác là các quốc gia áp dụng cơ chế LPMT yêu cầu phải có cơ chế tỷ
giá linh hoạt. Trong khi đó điều hành tỷ giá linh hoạt có thể là nguyên nhân gây
ra sự không ổn định về tài chính, nhất là những quốc gia có nền kinh tế thị trường
mới nổi.


4. Các điều kiện tiên quyết của chế độ lạm phát mục tiêu
Một quốc gia chỉ cần thiết lập được mục tiêu lạm phát trung hạn, cam kết ổn định giá
cả là mục tiêu cuối cùng cũng như xây dựng được tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong điều hành CSTT là có thể coi như quốc gia đó đã chuyển đổi sang chế độ
LPMT. Tuy nhiên, nhiều học giả khuyến cáo rằng khi quốc gia cân nhắc việc chuyển
đổi chế độ CSTT, quốc gia đó cần xem xét sự thỏa mãn các điều kiện tiên quyết để đảm
bảo LPMT có thể được thực hiện một cách suôn sẻ và thành công.

3


lOMoARcPSD|11617700

Freedman và Otker-Robe (2010) lại cho rằng chỉ có ba điều kiện cốt lõi để triển khai
LPMT, đó là:
4.1. Mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác
Ưu tiên tập trung vào mục tiêu quan trọng nhất là kiểm sốt lạm phát, thay vì cùng một
lúc tập trung vào nhiều mục tiêu khác như ổn định tỷ giá, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ có
việc làm.
4.2. Khơng có thống trị tài khóa (físcal dominance)
Việc điều hành CSTT của NHTW phải độc lập với chính sách tài khố. Nói cách khác,
NHTW khơng được để xảy ra hiện tượng áp chế tài chính (fiscal dominance), nghĩa là
khơng được tài trợ cho việc thâm hụt ngân sách của chính phủ vì việc làm này có thể
dẫn tới gia tăng lạm phát và làm giảm hiệu quả điều hành CSTT. Hơn nữa, việc khơng
để chính sách tài khố chi phối CSTT đồng nghĩa với việc NHTW không in tiền để tạo
nguồn thu cho ngân sách. Để làm được điều này, NHTW cần có nguồn thu độc lập với
ngân sách nhà nước.
4.3. NHTW độc lập về công cụ CSTT.
Không nhất thiết hồn tồn độc lập với chính phủ trong việc điều hành CSTT, NHTW
chỉ cần độc lập trong việc lựa chọn công cụ để điều hành CSTT hướng tới việc kiểm

soát lạm phát.

4


lOMoARcPSD|11617700

Phần II: Thực trạng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu
tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra
1. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay
Tại Việt Nam, nên áp dụng CS LPMT tuy nhiên, chưa đủ khả năng áp dụng chính
sách này.
Trong vịng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam lên xuống hết sức thất
thường khi ở mức 2 con số, khi ở mức một con số và thậm chí có thể xuống dưới cả 0%.
Ngun nhân lạm phát của chúng ta rất đa dạng từ cầu kéo đến chi phí đẩy, từ sự dư
thừa tiền trong lưu thông đến sự bất cập trong công tác quản lý của các cơ quan nhà
nước. Đứng trước nguy cơ lạm phát bùng nổ, phải chăng đã đến lúc chúng ta cần phải
nhìn nhận lại về CSTT của chúng ta một cách đúng đắn hơn.
Từ trước đến nay, Việt Nam đã thực hiện một CSTT đa mục tiêu. Theo Luật Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) ban hành vào tháng 10/1998, điều 2 đã có quy định: “CSTT
quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định
giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, chính sách đa mục tiêu này cũng đã bắt đầu bộc
lộ những hạn chế tiềm ẩn của mình.
Trước hết, nó khiến cho lạm phát của Việt Nam khơng mang tính thị trường mà chịu chi
phối nhiều của yếu tố chủ quan. Để phục vụ mục tiêu chính trị trong ngắn hạn, NHTW
có thể chấp nhận in thêm tiền mặc dù có thể đẩy tỷ lệ lạm phát lên siêu mã. Có thể vì tỷ
lệ lạm phát chưa đạt được mức như mong muốn mà khơng có những biện pháp cần thiết
đối với tỷ lệ lạm phát đang gia tăng.

Đối với tầng lớp nhân dân thì những yếu tố chủ quan tâm lý cũng tác động mạnh đến
những dự tính của họ về lạm phát.
Hơn nữa, CSTT đa mục tiêu đã hạn chế khả năng của NHNN phản ứng lại những biến
động của thị trường đặc biệt là biến động giá cả. Việc phải đắn đo khi đưa ra các quyết
định đối với sự biến động của lạm phát mà không làm ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít lên
các mục tiêu khác đặt NHNN trước nhiều lựa chọn phức tạp hơn.
Vậy đứng trước những khó khăn đó, như đã đặt ra ngay từ đầu, làm sao vừa kiềm
chế được lạm phát, vừa vẫn tiếp tục đạt được mức tăng trưởng cao là một bài tốn rất
khó. Đã đến lúc phải có những thay đổi cần thiết mang tính nền tảng cơ sở mới mong
có được những biến đổi theo ý muốn. Học hỏi theo kinh nghiệm nhiều quốc gia đã thực
hiện thì có thể nói CSMTLP chính là một lối thốt cho CSTT của Việt Nam.
So với những tiêu chí cơ bản cho sự thành cơng của CSMTLP thì Việt Nam có vẻ
cịn thiếu khá nhiều. Vì vậy việc áp dụng ngay CSMTLP tại thời điểm hiện tại cho Việt
Nam là khơng khả thi, nhưng đây chính là lúc mà chúng ta phải hoàn thiện những điều
kiện cơ bản, những tiền đề cho q trình áp dụng chính sách này trong tương lai.
5


lOMoARcPSD|11617700

2. Thuận lợi khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam.
2.1. Ngân hàng Nhà nước thành cơng kiểm sốt lạm phát trong nhiều năm
Giai đoạn 2018-2021 của Việt Nam là một giai đoạn cực kì biến động khi mà lần đầu
tiền Việt Nam cũng như cả thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng mang tên
COVID-19 cũng như biến động về cả kinh tế chính trị trên tồn cầu. Do đó chính sách
tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn này cũng có những chuyển biến vơ cùng đặc biệt
nhằm thích nghi với những biến động của thị trường cũng như dịch bệnh COVID-19 và
kiểm soát tốt lạm phát trong mức 4% theo mục tiêu Quốc Hội đề ra.



Năm 2018

Trong năm 2018, Do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và bất ổn chính trị ở Trung
Đông, khiến mặt hàng lương thực thực phẩm, giá dầu lúc tăng cao, lúc giảm sâu. Giá
dầu cuối năm có xu hướng tăng dần và đạt đỉnh vào t10/2018 trong vòng 4 năm, tăng
lần lượt 30% và 27% so với hồi đầu năm, song ngay lập tức giảm dần xuống còn mức
thấp nhất trong năm giảm 32% và 34% chỉ trong vòng 8 tuần. Áp lực lạm phát đối với
Việt Nam là không thể phủ nhận, tuy nhiên, NHNN đã kiểm sốt được lạm phát ổn định
trong năm, khơng có những cú sốc về giá cả, chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm
khoảng 3,5% đạt mức lạm phát mục tiêu do Quốc Hội phê chuẩn.

(nguồn: số liệu Ngân hàng nhà nước )
Và xét từ góc độ của CSTT có thể thấy, NHNN đã kiểm sốt tốt cung tiền, chủ động
trong việc điều chỉnh lượng cung tiền tác động đến lạm phát, điều này được phản ảnh
bởi diễn biến lạm phát cơ bản được kiểm soát tương đối hợp lý, hài hịa với mức độ
tăng/giảm giá hàng hóa do tác động bởi các yếu tố phi tiền tệ, đảm bảo kiểm sốt được
lạm phát ở mức mục tiêu.


Năm 2019

Các chính sách thành cơng kiểm sốt lạm phát cơ bản bình quân ở mức 2,01%. Mặc
dù chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc có nhiều diễn biến khó lường khiến đồng nhân
dân tệ (CNY) của Trung Quốc mất giá xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua, nhưng
giá trị của đồng tiền Việt Nam vẫn giữ được xu hướng ổn định. Mức tăng CPI bình quân
giảm so với năm 2018 là 3,5%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 4%.
6


lOMoARcPSD|11617700


Để đạt được kết quả này là sự kết hợp chặt chẽ của chính sách tiền tệ linh hoạt, hợp
lý cùng với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trong năm, cơ
quan điều hành đã chủ động sử dụng một loạt các công cụ thị trường tiền tệ như hạ lãi
suất điều hành, hạ lãi suất thơng qua kênh tín phiếu/thị trường mở, hạ tỷ giá mua vào
song song việc điều chỉnh tăng dần tỷ giá trung tâm phù hợp diễn biến thị trường. VND
tiếp tục nằm trong nhóm những đồng tiền ổn định nhất khu vực bất chấp những bất ổn
địa chính trị và các sự kiện kinh tế toàn thế giới. Cặp tỷ giá USD/VND gần như duy trì
đà ổn định xuyên suốt trong hầu hết các tháng của năm 2019 và thậm chí VND tăng giá
so USD


Năm 2020

Bức tranh tồn cầu năm 2020 khởi đầu ảm đạm với sự bùng phát, lây lan nhanh chóng
của đại dịch Covid-19, kéo theo suy thối kinh tế tồn cầu nghiêm trọng. Bên cạnh thiệt
hại về con người, do phải cách ly và phong tỏa xã hội, dịch bệnh đã làm tê liệt nhiều
hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu; các giao dịch xuyên biên giới sụt giảm
mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đột ngột, làm “đứt gãy” các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Song nhờ sự chủ động triển khai quyết liệt kịp thời những chính sách phù hợp, NHNN
kiểm sốt lạm phát khá tốt:
CPI bình quân năm 2020 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá các mặt
hàng lương thực tăng 4,51%, (ii) Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 12,28%; bên cạnh
đó, do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt tại các tỉnh miền Trung trong tháng 10 và tháng
11 làm cho giá rau tươi, khô và chế biến tăng; (iii) Giá thuốc và thiết bị y tế tăng 1,35%
do dịch Covid-19.
Bên cạnh đó có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm 2020: (i) Giá
xăng, dầu giảm 23,03%; giá dầu hỏa giảm 31,21%; giá gas trong nước giảm 0,95%;(ii)
Nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm giá của
nhóm du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước; giá cước vận tải của các loại phương

tiện như tàu hỏa, máy bay giảm; (iii) Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân
và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19 điển hình là gói hỗ trợ của Tập đoàn
Điện lực Việt Nam (EVN) triển khai giảm giá điện;
Theo ước tính cuối cùng, Lạm phát cơ bản bình qn năm 2020 tăng 2,31% so với
bình quân năm 2019, đạt được mục tiêu dưới 4%.


Năm 2021

Đầu năm 2021, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tuyên bố có thể chấp nhận lạm phát
cao hơn 2% trong một thời gian nhất định. Trong khi đó, tại Việt Nam, mặc dù giá hàng
nhập khẩu, giá xăng dầu và than tăng, nhưng áp lực lạm phát vẫn rất thấp. Lạm phát
bình quân 10 tháng đầu năm 2021 chỉ ở mức 1,81%, so với thời điểm cuối tháng 12/2020
chỉ tăng 1,67%, nguyên nhân chính là do tổng cầu giảm mạnh, nền kinh tế nằm dưới sản
lượng tiềm năng, nên hầu như khơng có áp lực cho lạm phát. Mức lạm phát cả năm 2021
ước đạt khoảng 2,5%, cách khá xa mục tiêu 4% đặt ra.

7


lOMoARcPSD|11617700

2.2. Ngân hàng Nhà nước có kinh nghiệm trong việc linh hoạt điều chỉnh chính
sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát
Như vậy, có thể thấy với sự chủ động, linh hoạt, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng đã thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ (CSTT) để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, NHNN đã điều hành CSTT theo cơ chế linh hoạt,
uyển chuyển và thích ứng rất nhanh với tình hình dịch bệnh kể cả các phương án dài hạn
trong thời gian rất ngắn, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và chính sách vĩ mơ

khác.
2.3. Tại Việt Nam, lạm phát đã và đang là mục tiêu được ưu tiên hơn
Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 2010 quy định mục tiêu cuối cùng của
CSTT là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát; Chính phủ trình Quốc
hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm và phối hợp cùng NHNN để thực hiện mục
tiêu này. Như vậy về mặt pháp lý, lạm phát chính là mục tiêu hàng đầu của CSTT Việt
Nam.
Trong cuộc họp báo thường kỳ 9/2011 do Văn phịng Chính phủ tổ chức, Phó thủ
tướng CP Vũ Đức Đam cũng nhấn mạnh "Kiềm chế lạm phát vẫn là mục tiêu ưu tiên số
một". Và thực tế các năm vừa qua, lạm phát ln được kiểm sốt tốt dưới 4% theo Quốc
Hội đề ra.
Điều này cũng đáp ứng 1 trong các điều kiện để áp dụng chính sách LPMT.
3. Thách thức NHNN gặp phải khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu.
Tiến hành kiểm tra các điều kiện tiên quyết của Freedman và Otker-Robe lên Việt
Nam để xem liệu NHNN đã thiết lập được các nền tảng ban đầu cho quá trình chuyển
đổi chế độ CSTT hay chưa, nhóm em nhận thấy NHNN VN còn gặp phải 1 số thách
thức như sau:
3.1. NHNN VN là ngân hàng trực thuộc Chính Phủ
Trong một thời kỳ dài vừa qua, ngân hàng nhà nước với tư cách là ngân hàng trung
ương của Việt nam luôn là thành viên của Chính phủ. Do vậy, có hạn chế về mặt độc
lập để đưa ra chính sách tiền tệ. NHNN khó có thể từ chối những lời đề nghị bơm tiền
tạo thanh khoản và hỗ trợ tăng trưởng của các thành viên khác của Chính phủ được.
Ngồi ra, sự chủ động của NHNN hiện nay còn hạn chế khi các chỉ tiêu hàng năm được
xây dựng và gần như là áp đặt cho NHNN như tăng trưởng tín dụng; tổng phương tiện
thanh toán; dự trữ ngoại hối; tỷ giá.
3.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa độc lập hồn tồn về cơng cụ chính
sách tiền tệ
Về mặt pháp lý, NHNN độc lập một phần trong việc lựa chọn và sử dụng cơng cụ
CSTT bởi vì Điều 10 Luật NHNN năm 2010 quy định Thống đốc NHNN quyết định
việc sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, tuy nhiên Điều 3 vẫn để ngỏ khả năng

Chính phủ can thiệp được vào quá trình lựa chọn này: “Thủ tướng Chính phủ, Thống
8


lOMoARcPSD|11617700

đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện
mục tiêu CSTT quốc gia. Trên thực tế, quá trình điều hành CSTT ở Việt Nam cho thấy
việc Chính phủ can thiệp vào q trình lựa chọn cơng cụ CSTT là điều chưa từng xảy
ra. Chính phủ, thơng qua Nghị quyết, chỉ quyết định mục tiêu trung gian và mục tiêu
hoạt động của CSTT, chẳng hạn quy định “giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung, dài
hạn từ 1-1,5%/năm” (mục tiêu hoạt động),“hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi
suất cho vay khoảng 12%” (mục tiêu hoạt động) hoặc “tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới
20%, tổng phương tiện thanh tốn khoảng 15-16%” (mục tiêu trung gian), cịn việc lựa
chọn cơng cụ gì, liều lượng bao nhiêu để thực hiện các mục tiêu được nêu trong Nghị
quyết thì do NHNN tồn quyền quyết định. Nhìn chung, xét về cơng cụ CSTT, NHNN
Việt Nam độc lập một phần về mặt pháp lý và độc lập hoàn toàn trên thực tế
3.3. Ngân hàng Nhà nước cần phải cơng khai minh bạch hơn và có trách nhiệm
cao hơn
NHNN chưa chú trọng tăng cường thiết lập tính minh bạch bằng cách giao tiếp liên
tục và hiệu quả với cơng chúng có thể được thực hiện thơng qua các báo cáo lạm phát,
thơng cáo báo chí, thư ngỏ, bản tin thời sự…, chưa cập được các vấn đề cơ bản như tình
hình thực hiện mục tiêu lạm phát, dự báo lạm phát và mục tiêu trong tương lai, lộ trình
để thực hiện mục tiêu và các giải thích chính sách cụ thể… Tần suất và mức độ chi tiết
của phương pháp giao tiếp càng cao, CSTT càng minh bạch đối với công chúng.
Về cơ chế đối thoại và xây dựng mục tiêu lạm phát, điều kiện này tưởng chừng như
đơn giản nhưng khá khó khăn đối với tình hình Việt nam trong thời gian tới, nó địi hỏi
cơ chế minh bạch thông tin vĩ mô. Hiện nay thị trường gặp rất nhiều khó khăn để tiếp
cận những thông tin vĩ mô, và thị trường càng không biết được cơ chế kỹ trị của NHNN.
3.4. Đây là thời điểm nhạy cảm để thay đổi chính sách

Trong thời điểm hiện tại, nền kinh tế trên tồn cầu đang nóng lên hơn bao giờ hết
khơng chỉ vì những hệ quả của diễn biến covid-19 mà còn do cuộc chiến tranh kinh tế
giữa phương tây và nga, trực tiếp khiến cho khủng hoảng năng lượng châu âu bùng nổ
cũng như giá xăng dầu trên cả thế giới leo thang. Nếu chỉ là trong ngắn hạn, thì khơng
gây tác động đáng kể nào đến tình hình lạm phát tại Việt Nam nhưng nếu tình hình này
tiếp tục kéo dài sẽ gây ra ảnh hưởng lớn việc kiểm soát lạm phát tại Việt Nam khi mà
tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến việc giá cả leo thang đặc biệt là trong tình hình chính
phủ khơng có những chính sách can thiệp kịp thời.
3.5. Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với khó khăn trong điều hành chính
sách tiền tệ và chọn ra khoảng lạm phát hợp lý
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp, chỉ số lạm phát được tổng hợp từ nhiều
nguồn số liệu, nên việc chỉ dùng một giá trị duy nhất để đánh giá lạm phát là một điều
khơng hợp lý. Và điều đó cũng khiến cho NHNN mất đi tính linh hoạt trong điều hành
CSTT để đối phó lại với các biến động thường xuyên của nền kinh tế. Vì vậy, hầu hết
các quốc gia đã thực hiện CSMTLP đều nhất trí đặt mục tiêu là một khung giá trị có cận
dưới lớn hơn 0% cịn cận trên thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia trong từng
thời kỳ nhất định nên nếu Việt Nam lựa chọn sử dụng một giá trị nhất định thì sẽ tạo ra
9

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

nhiều khó khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngồi ra nếu lựa chọn 1 khoảng
biến thiên thì ngân hàng nhà nước cần cẩn trọng trong việc lựa chọn khi mà nếu mức
lạm phát này quá thấp có thể gây ra tình trạng thiểu phát trong khi quá cao thì gây ra
tình trạng lạm phát khơng kiểm sốt

10


Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

Phần III: Một số quốc gia đã áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu
1. Kinh nghiệm của các nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ theo lạm
phát mục tiêu.
Tính đến nay, đã có hơn 30 quốc gia áp dụng chính sách LPMT. Lý do các nước
chuyển đổi sang chính sách LPMT là rất đa dạng, nhưng nhìn chung có thể chia các
nước áp dụng thành 2 nhóm chính:
1.1. Nhóm nước áp dụng do kỳ vọng một cơ chế CSTT mới hiệu quả hơn.
Các quốc gia trước khi thực hiện chính sách LPMT đều gặp phải khó khăn trong việc
sử dụng các neo danh nghĩa khác (như tỷ giá hay cung tiền), cũng như mong muốn một
tỷ lệ lạm phát thấp hơn và neo các kỳ vọng lạm phát (Freedman và Laxton, 2009a).
Thuộc nhóm lý do này phần lớn là các nước công nghiệp phát triển như New Zealand,
Canada, Vương quốc Anh,... hoặc một số nước chuyển đổi như Ba Lan, Cộng Hòa Séc,
Hungary,...
1.1.1. Kinh nghiệm của New Zealand
New Zealand áp dụng CSLPMT kể từ năm 1989 đến nay, là nước đầu tiên áp dụng
chính sách này. Hệ thống điều hành CSTT của New Zealand được quy định cụ thể trong
đạo luật Ngân hàng Dự trữ New Zealand (PTA – Policy Targets Agreement) năm 1989,
hiệu lực tháng 1 năm 1990. Theo đó, Ngân hàng Dự trữ New Zealand đặt ra mục tiêu là
ổn định giá cả, thay vì hệ thống đa mục tiêu như trước đó. Việc thơng qua đạo luật năm
1989 cũng như việc hình thành mục tiêu lạm phát cụ thể bắt nguồn từ việc cải cách trên
quy mơ rộng nhằm cải thiện vai trị của chính phủ New Zealand trong việc giải quyết
các vấn đề về tài chính tiền tệ. Thực tiễn và kinh nghiệm áp dụng đã cho thấy, cơng cụ
này đã có những đóng góp khá hữu hiệu trong việc ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát

và đảm bảo tính minh bạch của CSTT.
Xét mục tiêu, khuôn khổ này được thiết kế nhằm đạt được hai mục tiêu chính là ổn
định giá cả và kiềm chế lạm phát trong khung cố định (1-3%), theo đó các cơng cụ chính
của CSTT của New Zealand là ấn định lãi suất (một công cụ trực tiếp của CSTT của
Ngân hàng Dự trữ New Zealand) và thả nổi tỷ giá đối hối của đồng đơ la. Theo cách
điều hành này, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ New Zealand có vai trị chính trong việc
theo dõi các động thái của lạm phát, tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục về mặt
chính sách tiếp theo. Theo đạo luật PTA năm 1989 thì yêu cầu Ngân hàng Dự trữ New
Zealand có trách nhiệm cung cấp ít nhất 6 tháng 1 lần, báo cáo về chính sách tiền tệ 6
tháng trước đó đồng thời đưa ra kế hoạch trong 6 tháng tiếp theo phù hợp với mục tiêu
lạm phát đã đề ra.
CSLPMT ở New Zealand cũng đã được kiểm chứng dài hạn, qua các thời kì khó
khăn như hạn hán, những thay đổi về điều kiện thương mại, khủng hoảng kinh tế Châu
Á và gần đây nhất là qua khủng hoảng tài chính tồn cầu và suy thối kinh tế năm 2008
thì tỷ lệ lạm phát tại New Zealand phần lớn nằm trong khung này.

11

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

New Zealand là nước đầu tiên chính thức tuyên bố áp dụng LPMT và đã đạt được nhiều
thành công. New Zealand đã giảm được lạm phát hơn 7,6% trước khi áp dụng xuống
khung mục tiêu là 1-3%, và Ngân hàng Dự trữ New Zealand cũng được đánh giá là phản
ứng rất nhạy trong khủng hoảng kinh tế 2008.
Biểu đồ: Tỷ lệ lạm phát và lạm phát mục tiêu của New Zealand
trước và sau khi áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu


1.1.2. Kinh nghiệm của Canada
Canada cũng quyết định áp dụng CSMTLP này vào 26/2/1991, họ đã thực thi rất linh
hoạt và hết sức thành công cho đến tận hiện nay.
Điểm đáng chú ý của Canada là việc có vẻ như NHTƯ của họ đã công bố mục tiêu
tại một điểm nhưng thực chất lại là một khung giá trị bởi vì họ nhấn mạnh vào biên độ
dao động của lạm phát xung quanh giá trị này. Mặc dù ngay từ đầu 2% (tương đương
với biên độ 1% - 3%) được cho là hợp lý nhưng để phù hợp với điều kiện kinh tế Canada
lúc mới bắt đầu (lạm phát rất cao, thất nghiệp gia tăng, kinh tế trì trệ...), NHTƯ không
quyết định lựa chọn giá trị này ngay mà đặt mục tiêu là 3% (biên độ 2% -4%) rồi sau đó
giảm dần theo thời gian (3% cho đến hết năm 1992, 2.5% cho đến hết năm 1994, 2%
cho 18 tháng tiếp theo). Đến 2/1998, NHTƯ Canada quyết định duy trì mục tiêu 2% đến
hết năm 2001 vì thực tế đã chứng tỏ rằng đây là một khung dao động phù hợp, tạo ra
những thay đổi tích cực cho nền kinh tế. Có lẽ vì thế mà vào ngày 18/5/2000 mức 2%
đã tiếp tục được quyết định sẽ kéo dài đến hết năm 2006.
Với Canada, NHTƯ là đối tượng của “học thuyết trách nhiệm tay đôi”, tuy mục tiêu
lạm phát được công bố là “sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHTƯ” nhưng sự kiểm
sốt CSTT cuối cùng lại được đặt dưới quyền của Bộ Tài chính, điều này có nghĩa là Bộ
12

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

trưởng có thể buộc Thống đốc phải thực hiện một CSTT cụ thể bằng một chỉ thị (thường
sẽ đi kèm với việc Thống đốc phải xin từ chức).
Về công cụ đo lường lạm phát, Canada sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng
chỉ số này thể hiện rõ hơn những xu hướng biến động trong dài hạn của lạm phát vì nó
đã loại trừ các tác động mang tính ngắn hạn và có thể nhanh chóng mất đi như là tác
động của giá lương thực và năng lượng. Chính sách LPMT ở Canada thật sự được xem

như một phương sách để góp phần làm giảm những biến động có tính chu kì của các
hoạt động kinh tế.
Về công khai minh bạch, Canada nửa năm một lần cho ra “Báo cáo CSTT” từ 5/95
và các “Cập nhật báo cáo CSTT” xen giữa, đây được coi là một điểm mấu chốt và là
chìa khóa thành cơng cho chính sách LPMT tại Canada.
1.2. Nhóm nước áp dụng nhằm ứng phó hoặc bị tác động bởi các cú sốc về khủng
hoảng tài chính – tiền tệ.
Các nước thuộc nhóm lý do này đa số là các nước đang phát triển. Điển hình cho việc
áp dụng chính sách LPMT để ứng phó với các cú sốc tiền tệ là Brazil. Tháng 1/1999
Brazil đối mặt với sự sụp đổ của đồng Real, để ứng phó với việc này tháng 6/1999 Brazil
quyết định áp dụng chính sách LPMT. Trong khi đó đối với các quốc gia như Nam Phi,
Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Indonesia,.. việc áp dụng chính sách LPMT khơng phải
bắt đầu từ các cú sốc kinh tế trực tiếp nhưng trước đó các nước này đã trải qua hoặc chịu
tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Họ cần một neo mới cho CSTT sau
khi hủy bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
1.2.1. Kinh nghiệm của Brazil
Brazil là quốc gia có nền kinh tế mới nổi và có những tương đồng với nền kinh tế
của Việt Nam. Từ trước những năm 1999, q trình ổn định tài chính của Brazil dựa
trên chính sách neo tỷ giá cố định, điều này làm cho giá trị đồng nội tệ của Brazil bị định
giá cao do sự chênh lệch giá cả trong và ngồi nước làm cho cán cân thanh tốn quốc tế
bị mất cân đối. Để duy trì sự cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế, cơ quan tiền tệ
Brazil đã phải tăng lãi suất để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào, tuy nhiên nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào lại lớn hơn mức cần để cân bằng làm dự trữ ngoại hối tăng
dẫn đến đồng nội tệ Brazil định giá cao, đồng thời làm gia tăng nợ trong nước làm suy
giảm nền kinh tế và xuất hiện đầu cơ tiền tệ tấn công. Trong năm 1995-1998, Brazil phải
3 lần đối đầu với đầu cơ tiền tệ. Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở Nga, Brazil
từ bỏ chính sách tỷ giá neo và tiến hành thả nổi tỷ giá, làm đồng nội tệ bị mất giá và ảnh
hưởng đến lạm phát tăng lên. Đến giữa 1999, Brazil thực hiện CSTT theo LPMT để
kiềm chế lạm phát, kết hợp với nâng lãi suất cơ bản ngắn hạn để xoa dịu phá giá đồng
nội tệ, kết quả là tỷ giá tăng, lạm phát ở cuối năm 1999 giảm xuống một con số.

Để thực hiện CSTT theo LPMT, Brazil đã phát triển công cụ, NHTW Brazil đã thành
lập Vụ Nghiên cứu để phát triển các công cụ: dự báo lạm phát chính xác: mơ hình kinh
tế lượng cấu trúc về các cơ chế truyền dẫn của CSTT đến giá; mơ hình vecto tự hồi qui
ngắn hạn phi cấu trúc; khảo sát hàng ngày về kỳ vọng lạm phát của thị trường; các cơng
cụ tính tốn lạm phát cơ bản; và các ước lượng những chỉ số lạm phát.
13

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

Về kênh truyền dẫn của CSTT, Brazil đã sử dụng các kênh truyền dẫn của CSTT như
kênh tổng cầu, tỷ giá và kỳ vọng lạm phát. Kênh tín dụng khơng quan trọng bằng vì khối
lượng tín dụng ở Brazil tương đối thấp so với chuẩn quốc tế (khoảng 27% GDP vào giữa
năm 1999).Việc mơ hình hóa cơ chế truyền dẫn của CSTT tới giá giúp NHTW Brazil
có thể thiết lập bằng mơ hình ảnh hưởng của thay đổi lãi suất đến tổng cầu và đến lạm
phát. Đồng thời, còn thiết lập được những ảnh hưởng trực tiếp của việc thay đổi lãi suất
lên tỉ giá, và đến giá cả. Lãi suất thay đổi ảnh hưởng đến tổng cầu, những thay đổi về
chênh lệch sản lượng đầu ra ảnh hưởng đến lạm phát. Đối với kênh tỉ giá, ảnh hưởng
của lãi suất đến giá gần như là ngay lập tức do ảnh hưởng tức thì đến giá của hàng hóa
thương mại.
Về mặt thể chế trong nội bộ NHTW, Hội đồng CSTT (Copom) là cơ quan chính sách,
họp hàng tháng để thiết lập mục tiêu cho lãi suất qua đêm (được gọi là Selic rate). Để
đảm bảo tính minh bạch, 8 ngày sau cuộc họp hội đồng sẽ công bố báo cáo về triển vọng
kinh tế, lạm phát và các quyết định của Hội đồng. Hội đồng cũng công bố Báo cáo lạm
phát hàng q. Nội dung báo cáo trình bày về dự báo lạm phát, các kịch bản kinh tế, lạm
phát và phân phối xác suất của các kịch bản lạm phát.
NHTW chịu trách nhiệm đạt được mục tiêu lạm phát. Trong trường hợp không đạt
được mục tiêu, Thống đốc phải gửi một Thư mở đến Bộ Tài Chính giải trình lý do không

đạt được mục tiêu và các biện pháp cần thiết để lạm phát đi đúng hướng, đúng thời gian.
Như vậy, NHTW Brazil đã thể hiện tính minh bạch rất cao trong việc giải thích tại
sao khơng đạt được mức lạm phát mục tiêu đặt ra và cách thức đối phó với cú sốc, cũng
như kế hoạch đạt được mục tiêu lạm phát trong dài hạn. Qua quá trình áp dụng CSTT
theo LPMT, Brazil đã mang đến nhiều thành cơng trong việc kiểm sốt lạm phát.
1.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á là một trong những nước rất thành
công trong việc thực hiện CSTT theo LPMT.
Sau thế chiến thứ 2, Thái Lan áp dụng chính sách cố định tỷ giá nhưng khơng hiệu
quả mà cịn gây ra những bất ổn về tài chính do tình trạng đầu cơ tiền tệ và di chuyển
vốn tự do. Để giải quyết tình trạng này, Thái Lan đã quyết định thực hiện tỷ giá thả nổi
trong một thời gian ngắn và duy trì lãi suất ngắn hạn ở mức cao nhằm ngăn chặn sự biến
động quá mức của lãi suất và bảo đảm tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế nhằm ổn định
giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, chính sách này phải dựa vào quan hệ
giữa cung tiền và nền kinh tế, trong khi đây là điều khó dự báo. Vì vậy, kể từ tháng
5/2000, Thái Lan chính thức áp dụng CSLPMT. Mục tiêu đặt ra của chính sách này là
ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Với chính sách này,
định kỳ hàng năm, NHTW Thái Lan đưa ra mức lạm phát mục tiêu cụ thể và công bố ra
công chúng. NHTW Thái Lan xây dựng dự báo lạm phát theo hai cách tiếp cận: Một là,
dự báo dựa trên dữ liệu chuỗi thời gian để tiên lượng những biến động ngắn hạn trên cơ
sở hàng tháng; Hai là, mơ hình dự báo lạm phát theo Q gắn kết dự báo lạm phát với
điều kiện kinh tế vĩ mô chung.

14

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700


NHTW Thái Lan sử dụng lạm phát cơ bản là chỉ số giá mục tiêu do việc sử dụng chỉ
số này đem lại sự linh hoạt lớn hơn trong điều hành CSTT. Bên cạnh đó, lạm phát cơ
bản ít biến động hơn, điều này có nghĩa là phản ứng của CSTT có thể ổn định hơn, nhờ
đó mơi trường lãi suất sẽ ít biến động hơn.
Lãi suất chính sách (lãi suất repo 1 ngày) được coi là công cụ hàng đầu trong việc
điều hành CSTT của NHTW Thái Lan và ln được cơng bố rõ ràng với vai trị là tín
hiệu của chính sách và cơng cụ định hướng thị trường. Sau khi ra quyết định lãi suất
chính sách, NHTW Thái Lan sẽ dùng các nghiệp vụ thị trường mở để đưa lãi suất chính
sách về mức mong muốn, duy trì thanh khoản trên thị trường tiền tệ ở mức nhất quán
với lãi suất chính sách.
Sự thay đổi lãi suất chính sách hay lượng tiền cung ứng sẽ ảnh hưởng đến 5 kênh
truyền dẫn: Lãi suất thị trường, tín dụng NH, giá tài sản, tỷ giá, kỳ vọng; từ đó làm thay
đổi tổng cầu trong và ngoài nước đối với hàng hóa, dịch vụ của Thái Lan, ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả trong nước, từ đó tác động đến lạm phát.
Sau 12 năm áp dụng và thường xuyên hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tế,
CSLPMT của Thái Lan đã chứng tỏ được rằng đây là công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho
nền kinh tế đạt được sản lượng cao, sự tăng trưởng bền vững, tính cạnh tranh xuất khẩu
và một NHTW minh bạch. Điều này đã được chứng minh qua khả năng kháng chịu của
nền kinh tế Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
2. Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu cho
Việt Nam
Qua nghiên cứu điều hành CSTT theo LPMT của 4 quốc gia New Zealand, Canada,
Brazil và Thái Lan có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Ba quốc gia đều thực hiện CSTT theo khuôn khổ LPMT và đã đạt được nhiều thành
công trong việc kiểm soát lạm phát và tạo tiền đề để tăng trưởng kính tế lâu dài.
Thứ nhất, NHTW phải độc lập với CP vì mục tiêu của CP là thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, trong khi đó mục tiêu chính của NHTW là ổn định giá để kiềm chế lạm phát;
khuyến khích một CSTT hoạt động minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu và nhất quán. Sự minh
bạch trong quá trình ra quyết định và trách nhiệm giải trình về chính sách sẽ giúp gây
dựng và củng cố uy tín và tín nhiệm của NHTW; phải có quyền chủ động sử dụng những

cơng cụ CSTT để theo đuổi mục tiêu. Tính độc lập cho phép NHTW có cái nhìn dài hạn
và tránh được áp lực về thời gian. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tính độc lập của
NHTW là một yếu tố quan trọng cho sự áp dụng thành công CPLPMT.
Thứ hai, hoàn thiện năng lực thể chế và kỹ thuật đối với NHTW trước hoặc sau khi
áp dụng CSLPMT, không nhất thiết phải có được đầy đủ các điều kiện trên thì mới có
thể chuyển sang CSLPMT. Nhưng cũng khơng khuyến khích các nước chuyển sang áp
dụng CSLPMT mà khơng quan tâm đến các điều kiện này. Bởi nếu thiếu các điều kiện
ban đầu cũng đồng nghĩa với quá trình thực hiện thành cơng CSLPMT sẽ gặp nhiều khó
khăn hơn. Điểm quan trọng ở đây là nhận thức được những yếu kém này để thúc đẩy
các cải cách về thể chế, kinh tế cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả vận dụng khung khổ
15

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

CSLPMT ngay cả sau khi chuyển sang khuôn khổ này. Nói cách khác, mức độ khả thi
và hiệu quả của q trình vận dụng khn khổ này phụ thuộc vào cam kết và năng lực
của NHTW trong việc hoạch định và thực thi các cải cách thể chế sau khi đã chuyển đổi
khn khổ CSTT. Chính ở đây, hàm ý đối với các NHTW có quan tâm đến áp dụng
khn khổ CSLPMT là phải tập trung cải thiện năng lực thể chế và kỹ thuật trước và
sau khi vận dụng khuôn khổ này để đạt hiệu quả cao nhất. ( NHNN, Tài liệu hội thảo
NHNN: “Chính sách lạm phát mục tiêu: Sự lựa chọn thích hợp cho Việt Nam”).
Thứ ba, không nhất thiết phải hội tụ tất cả các điều kiện mới thực hiện CSLPMT
nhưng phải đáp ứng được các điều kiện tối thiểu
Các điều kiện cần thiết để NHTW có thể thực hiện khả thi CSLPMT là: NHTW độc
lập trong việc sử dụng các công cụ điều hành CSTT; CP không vay từ NHTW; Ổn định
giá cả là mục tiêu bao trùm của CSTT; Hệ thống tài chính tiền tệ lành mạnh; Có được
sự đồng thuận cao về tầm quan trọng của mục tiêu lạm phát; Dân chúng có được niềm

tin của NHTW và có sự hiểu biết cơ bản về CSTT và cơ chế truyền tải của CSTT. Trong
số các điều kiện trên, điều kiện được hầu hết các nước phải tuân thủ khi chuyển sang áp
dụng CSLPMT đó là: NHTW độc lập trong việc sử dụng các công cụ CSTT; Ổn định
giá cả là mục tiêu hàng đầu của CSTT; Hạn chế hoặc tuyệt đối việc CP vay từ NHTW;
Hệ thống tài chính và thị trường tài chính ổn định và phát triển. Giai đoạn chuyển đổi
để thực hiện CSLPMT cũng chính là thời gian để hồn thiện các điều kiện cần thiết. Đây
cũng sẽ là gợi ý quan trọng cho Việt Nam khi xem xét áp dụng CSLPMT trong thời gian
tới.
Thứ tư, NHTW phải có tiến trình hồn thiện các điều kiện NHTW với nỗ lực và
quyết tâm cao, phải có hệ thống theo dõi, giám sát chặt chẽ các điều kiện kinh tế trong
nước, các nền kinh tế lớn và các nước trong khu vực; kịp thời đánh giá các rủi ro, nguy
cơ mất ổn định và kiến nghị các biện pháp chính sách với Hội đồng CSTT quốc gia.
Thứ năm, rất cần sự ủng hộ từ phía CP và sự nỗ lực trong việc triển khai và thực
hiện của NHTW.
Thứ sáu, thời điểm công bố áp dụng CSLPMT. Không nên công bố áp dụng
CSLPMT trước khi đạt được một số điều kiện tối thiểu trong khuôn khổ LPMT.
Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng áp dụng CSLPMT khi lạm phát đã được duy trì ở mức
đủ thấp trong một khoảng thời gian nhất định. Song điều này khơng q ràng buộc. Tạo
dựng lịng tin thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều hành
CSTT nói chung và đối với CSLPMT nói riêng. Bất kì việc điều chỉnh mục tiêu với lý
do nào cần được thông báo rõ ràng cho công chúng, đồng thời đưa ra lộ trình và giải
pháp với cam kết NHTW sẽ tập trung cố gắng để đưa lạm phát về mức mục tiêu trong
trung hạn.

16

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700


Phần IV: Đề xuất các giải pháp
1. Ngân hàng trung ương phải chủ động, linh hoạt hơn trong việc điều hành
chính sách tiền tệ
NHTW cẩn thận trọng hơn trong việc triển khai chính sách lạm phát mục tiêu bởi vì
các biến cố kinh tế, chính trị, xã hội biến đổi không lường, dẫn đến những phản ứng
khác nhau của nền kinh tế vào từng thời kỳ, NHTW cần phải có những sự linh hoạt nhất
định để có thể phản ứng lại các biến động này một cách có hiệu quả. Sự linh hoạt này
có thể được thể hiện trên nhiều mặt:
- Mục tiêu được đặt trong một khung giá trị hơn là một con số cụ thể.
- Khung mục tiêu được đặt ra một cách từ từ tăng hoặc giảm theo thời gian để tránh gây
sốc cho nền kinh tế.
- Mỗi mục tiêu có thời gian thực hiện tương đối dài, trong thời gian đó, vẫn có thể chấp
nhận sự lệch ra khỏi mục tiêu một cách tạm thời.
Cần phải đưa ra một khung giá trị cho mục tiêu lạm phát thay vì một giá trị như hiện
nay bởi vì như thế sẽ tăng tính linh hoạt cho NHNN. Việc NHNN đạt được mục tiêu
trong cả một khung giá trị biến động sẽ dễ dàng hơn nhiều. Thêm vào đó NHNN cần
phải “công khai và minh bạch hơn” trong quá trình hoạch định, thực thi CSTT lẫn đưa
ra những kết quả và nhận định của mình đối với nền kinh tế.
2. Tiếp thu bài học của các quốc gia đi trước, từng bước độc lập về cơng cụ chính
sách tiền tệ
Từng bước xây dựng tính độc lập cho NHNN Việt Nam, đặc biệt là tính độc lập về
mặt chức năng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của CSMTLP trong tương
lai. Dần dần cho phép NHNN chủ động hơn trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng sao
cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế chứ không phải để đáp ứng nhu cầu của
NSNN và của Chính phủ.
Trong thực thi CSTT cũng phải tăng quyền tự quyết trong việc sử dụng các công cụ
của CSTT thực hiện các quyết định để từ đó có thể nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như
uy lực của các cơng cụ đó.
3. Cân bằng được mục tiêu của chính sách tiền tệ

NHNN đang đứng trước nhiều mục tiêu đan xen vừa hỗ trợ tăng trưởng, kiểm soát
lạm phát, lại vừa phải giữ mặt bằng lãi suất, tỷ giá ổn định. Do vậy, NHNN thực hiện
đồng bộ các giải pháp để ổn định thị trường tiền tệ, giữ ổn định mặt bằng lãi suất, tạo
điều kiện cho các TCTD tăng trưởng tín dụng an tồn, hiệu quả, hỗ trợ cho nền kinh tế;
phải đảm bảo mục tiêu xuyên suốt là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát của mình.
Trong điều hành CSTT khơng chủ quan với lạm phát. Muốn làm việc đó NHNN phải
bám sát diễn biến tình hình thị trường cả trong nước và quốc tế, nhất là theo dõi sát khả
năng FED tăng lãi suất cũng như việc điều chỉnh tỷ giá của những nước có quan hệ

17

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

thương mại đầu tư lớn với Việt Nam.Đồng thời, phối hợp chính sách đặc biệt với chính
sách tài khóa, chính sách kiểm soát giá cả phải tiếp tục được thực hiện tốt hơn.
4. Nâng cao độ tin cậy và trách nhiệm của ngân hàng nhà nước.
Để thực hiện được điều này, cần phải đưa ra một khung giá trị cho mục tiêu lạm phát
thay vì một giá trị như hiện nay bởi vì như thế sẽ tăng tính linh hoạt cho NHNN. Việc
NHNN đạt được mục tiêu trong cả một khung giá trị biến động sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Và như thế công chúng sẽ tin tưởng hơn vào khả năng của NHNN rằng một khi Ngân
hàng đã cam kết thì chắc chắn sẽ thực hiện được. Mặc dù khẳng định là chưa đến lúc áp
dụng CSMTLP nhưng đây cũng có thể coi như một tiền đề của Việt Nam tiếp cận gần
hơn với chính sách này. Thêm vào đó NHNN cần phải “công khai và minh bạch hơn”
trong quá trình hoạch định, thực thi CSTT lẫn đưa ra những kết quả và nhận định của
mình đối với nền kinh tế.

18


Downloaded by Hei Ut ()



×