Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

(SKKN 2022) một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 10a9 trường THPT yên định 1 của giáo viên chủ nhiệm lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.15 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu cơ bản của giáo dục nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát
triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, địi hỏi người giáo viên khơng chỉ vừa dạy
chữ mà còn dạy học cách làm người. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của
công nghệ số, HS được tiếp cận với nhiều kênh thông tin khác nhau nhưng
không phải HS nào cũng có kĩ năng chọn lọc để tiếp thu những thơng tin tích
cực. Đặc biệt đối với HS THPT, các em cần có một hành trang thật tốt chuẩn bị
bước ra xã hội. Do đó, để thực hiện tốt việc giáo dục kĩ năng cho HS thì GVCN
đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Bởi GVCN vừa là người giáo dục, người quản
lý, người tổ chức, người nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng của tập thể cũng như
của từng cá nhân HS, vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường - học
sinh - phụ huynh.
Đề tài viết về giáo dục kĩ năng sống cho HS trung học phổ thơng khơng
cịn là mới mẻ. Ở các trường phổ thơng đã có rất nhiều GV viết về chủ đề này
như: giáo dục kĩ năng sống cho HS thơng qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt
động ngồi giờ lên lớp... Trong đề tài này, ngồi việc có sử dụng một số giải
pháp giáo dục KNS cho học sinh như: giáo dục KNS thông qua các buổi sinh
hoạt lớp, lao động, hoạt động ngoại khóa, tơi đã có sự lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống cho HS thông qua các bài học Địa lí mà tơi đang giảng dạy và hoạt
động trải nghiệm thực tế từ môn Địa Lí. Bởi lẽ đây là một bộ mơn rất đặc trưng,
nó có cả kiến thức tự nhiên, có cả kiến thức xã hội. Qua nhiều năm giảng dạy,
tơi thấy có rất nhiều bài học mà thơng qua đó có thể giáo dục được rất nhiều
KNS cơ bản của học sinh. Như vậy tôi sẽ vừa kết hợp được công tác chủ nhiệm
vừa tạo được sự hứng thú cho HS khi học bộ mơn Địa lí, giúp các em dễ dàng
tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, không ghi nhớ máy móc cũng như giảm
sự căng thẳng cho HS trong các giờ học do tôi đảm nhiệm. Lứa tuổi HS, đặc biệt
là HS THPT là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết


và luôn muốn khẳng định bản thân mình. Song các em cịn thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, dễ bị lôi kéo và kích động nên đơi khi chỉ một hành động bộc phát
của các em cũng dẫn đến những hậu quả khôn lường. Đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, các em luôn chịu tác động đan
xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, phải đối diện với nhiều vấn đề phức
tạp nảy sinh trong xã hội. Do đó nếu thiếu KNS và không được giáo dục KNS
kịp thời, các em sẽ tỏ ra lúng túng, dễ bị sa vào các hành vi tiêu cực, dễ bị lệch
lạc về nhân cách, có lối sống ích kỉ, thực dụng. Nếu thiếu KNS, các em sẽ không
thể thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình và cộng đồng.
Vì thế, việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ khi các em còn ngồi trên ghế nhà
trường là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông.
1


Là một giáo viên trực tiếp đứng trên bục giảng và tham gia công tác chủ
nhiệm, tôi nhận thấy đa phần HS trường THPT Yên Định 1 đều sống ở vùng
nông thôn nên các kĩ năng giao tiếp cơ bản còn nhiều hạn chế. Phần lớn các em
rất nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động tập thể; thiếu kĩ năng ứng
phó đối với các tình huống trong cuộc sống làm nảy sinh những mâu thuẫn; cịn
tình trạng HS ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng; thiếu lễ độ
với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ mơi trường,
giữ gìn vệ sinh nơi cơng cộng; ý thức tự giác trong mọi hoạt động chưa cao... Vì
vậy, khi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 10A9 (năm học 2021 – 2022) tôi đã
chủ động lên kế hoạch cho những tiết sinh hoạt lớp, những tiết sinh hoạt tập thể
đầu tuần vào mỗi sáng thứ 2 hàng tuần hay lồng ghép vào giờ học của mình...
với mục đích thơng qua các hoạt động đó các em có thể trau dồi thêm những
KNS cơ bản và cần thiết nhất.
Từ những trải nghiệm và kết quả đạt được trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là
việc giáo dục KNS cho HS trong những năm học vừa qua, tôi đã thực hiện đề tài

“Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 10A9 trường
THPT Yên Định 1 của giáo viên chủ nhiệm lớp”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần hình thành các năng lực, phẩm chất cần thiết cho HS.
- Giúp HS rèn luyện KNS thông qua các hoạt động học tập và ngoại khóa để vận
dụng giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực tế.
- Đưa ra một số biện pháp giáo dục KNS cho HS THPT của GVCN lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu ở đối tượng HS lớp 10A9
trường THPT Yên Định 1 (năm học 2021 - 2022)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát qua các tiết học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp phân tích số liệu thống kê

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến.
2.1.1. Khái niệm kĩ năng sống
Hiện nay trên thế giới có nhiều cách quan niệm khác nhau về kỹ năng
sống. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Kĩ năng sống là khả năng thể hiện,
thực thi năng lực tâm lí xã hội. Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một
cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là
khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần,
biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền
văn hóa và môi trường xung quanh.”
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quổc (UNICEF), giáo dục dựa trên KNS cơ

bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân
bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển
đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay
tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào). KNS
chính là những kĩ năng tinh thần hay những kĩ năng tâm lí xã hội giúp cho cá
nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. KNS còn được xem như một biểu
hiện quan trọng của năng lực tâm lí xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong
cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại.
Theo Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO),
KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hàng ngày. Kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để
biết gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...; học làm người gồm các kĩ
năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiềm sốt cảm xúc, tự nhận thức, tự
tin; học để sống vời người khác gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thường
lúng túng, tự khẳng định, hợp tắc, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
học để làm gồm kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm.
Từ những quan niệm trên đây có thể thấy, kĩ năng sống bao gồm một loạt
các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất
của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ
năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mọi người, khả năng ứng xử phù
hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống.
Dựa trên thực trạng giáo dục KNS ở Việt Nam trong những năm qua, nội
dung giáo dục KNS trong các nhà trường phổ thông chủ yếu tập trung vào 20
KNS cơ bản và cần thiết sau: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ
năng kiểm soát cảm xúc, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng ứng phó với căng
thẳng, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ

năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết mâu
thuẫn, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, Kĩ
năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng kiên định, kĩ năng đảm
3


nhận trách nhiệm, kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin, kĩ
năng quản lí thời gian.
2.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục KNS là trang bị những kiến thức, thái độ, hành động giúp cho
người học hình thành được những KNS cần thiết, phù hợp với từng lứa tuổi,
điều kiện kinh tế – xã hội, môi trường sống... Giáo dục KNS cho HS là việc làm
rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
các em. Giáo dục kĩ năng sống có tác động tích cực trong q trình dạy và học,
là thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Mục tiêu của giáo dục phổ
thông theo yêu cầu mới đã chuyển từ chỗ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học
sinh sang chủ yếu là trang bị những phản chất và năng lực công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quổc. Giáo dục KNS cần được
tiến hành càng sớm càng tốt và có thể bắt đầu ngay từ bậc tiểu học, thậm chí cịn
có thể ở tuổi mầm non. Bởi vì lứa tuổi này những hành vi cá nhân, tính cách và
nhân cách đang dần được hình thành.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng KNS của học sinh trường THPT Yên Định 1
Năm học 2021 – 2022, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 10A9. Từ thực
tế công tác tại trường, tơi nhận thấy KNS của HS lớp10A9 nói riêng và HS
trường THPT n Định 1 nói chung cịn nhiều hạn chế. Hầu hết các em đều xuất
thân từ gia đình thuần nơng, nhiều em có hồn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ đi
làm ăn xa khơng có nhiều thời gian để quan tâm, chia sẻ với các em… nên các
em ít có điều kiện tiếp xúc, va chạm với mơi trường xã hội. Do đó phần lớn HS
ít được trang bị về KNS. Nhiều HS cịn có thái độ rụt rè khi tiếp xúc với người

khác, thiếu tự tin khi giao tiếp, kĩ năng thuyết trình kém và ngại tham gia các
hoạt động tập thể của lớp, trường (văn nghệ, thể dục thể thao…). Khả năng áp
dụng kiến thức đã học vào giải quyết tình huống thực tế chưa cao. Những nhận
thức của HS về tác hại của tệ nạn xã hội; kiến thức giới tính, sức khỏe sinh sản
vị thành niên, hướng nghiệp… còn hạn chế. Do đó các em chưa có hành vi đúng
mực trong quan hệ với bạn bè đặc biệt là bạn khác giới; nhiều em còn tỏ ra lúng
túng khi lựa chọn nghề nghiệp, môn thi và trường dự thi; thiếu kĩ năng chọn lọc
và tiếp thu thông tin từ mạng xã hội... Điều này dễ dẫn đến những nhận thức sai
lệch trong hành vi và lời nói. Biểu hiện rõ nhất là các hiện tượng như HS nói
tục, hút thuốc lá, điều khiển xe điện không đội mũ bảo hiểm, nhuộm tóc, vi
phạm trang phục, nghỉ học tự do, khơng chịu học bài, đánh nhau do mâu thuẫn
tình cảm, số ít HS cịn có thái độ chưa tơn trọng thầy cơ, bạn bè… Những lỗi vi
phạm nội quy đó nếu khơng được uốn nắn và giáo dục kịp thời sẽ dễ trở thành
thói quen. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến kết quả học tập và rèn luyện của HS mà
còn ảnh hưởng tiêu cực đến việc hình thành nhân cách của các em. Điều này cho
thấy việc giáo dục KNS cho HS là việc làm cần thiết và quan trọng.
2.2.2. Thực trạng việc giáo dục KNS cho học sinh trường THPT Yên Định 1
của GVCN lớp.
Trong những năm gần đây, trường THPT Yên Định 1 đã tích cực triển khai
việc đưa KNS vào các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Việc giáo dục KNS
cho HS được áp dụng thông qua nhiều nội dung và hình thức khác nhau như:
4


dạy học tích hợp giáo dục KNS ở tất cả các môn học; giáo dục KNS qua các
hoạt động GDNGLL, sinh hoạt cuối tuần, hội diễn văn nghệ, hoạt động ngoại
khóa, trải nghiệm... Đặc biệt nhà trường chú trọng đến vai trò của GVCN trong
việc giáo dục KNS cho HS. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây do ảnh hưởng của đại
dịch Covid 19 nên việc thực hiện các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động trải
nghiệm bị hạn chế, các giờ sinh hoạt cuối tuần chưa đổi mới về nội dung và chưa đa

dạng về hình thức, vẫn cịn mang tính chất diễn thuyết nhiều. Giờ sinh hoạt cịn
mang tính chất nặng nề với học sinh, khả năng giáo dục KNS cho HS còn hạn chế
(đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt). Việc trao đổi thông tin giữa GVCN và
GV bộ môn chưa thường xuyên nên việc tích hợp giáo dục KNS cho HS thơng
qua các giờ học cịn mang tính chung chung, chưa cụ thể cho đối tượng HS từng
lớp. Ngồi cơng tác chủ nhiệm, GVCN còn trực tiếp tham gia giảng dạy nên phần
lớn GV chưa dành nhiều thời gian cho việc đầu tư thiết kế các hoạt động giáo dục
đa dạng để tích hợp giáo dục KNS hiệu quả. Nhiều GVCN chưa có định hướng phù
hợp để khuyến khích HS tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao trong
nhà trường. Khi thực hiện giáo dục KNS, GVCN còn gặp nhiều khó khăn, lúng
túng (do chưa có tài liệu hướng dẫn cho GV và HS, tiêu chí đánh giá chưa cụ
thể…). Kinh phí và cơ sở vật chất có hạn nên nhiều hoạt động không thực hiện
được.
Từ thực trạng trên cho thấy: việc đề ra các biện pháp giáo dục KNS cho HS
của GVCN lớp là rất cần thiết. Nó sẽ có tác dụng định hướng cho GVCN khi tổ
chức các hoạt động tập thể cho lớp, đáp ứng nhu cầu hình thành KNS của mỗi
HS.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Việc hình thành KNS ở HS là cả một q trình, thơng qua nhiều hình thức
như hoạt động học tập trên lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
(GDNGLL), sinh hoạt tập thể, lao động, ngoại khóa… Vì vậy, GVCN là người
có vai trị quan trọng nhất trong việc hình thành KNS cho HS. Bởi hơn ai hết,
GVCN là người nắm rõ nhất đặc điểm, hoàn cảnh của từng HS trong lớp. GVCN
cũng là người luôn sát cánh với tập thể lớp trong mọi hoạt động học tập và rèn
luyện. HS vẫn thường coi thầy cô chủ nhiệm như người cha, người mẹ thứ hai
nên mỗi lời nói, hành động của GVCN sẽ ảnh hưởng nhất định đến HS. Do đó
để góp phần làm nên thành cơng trong cơng tác chủ nhiệm thì mục tiêu giáo dục
KNS cho HS phải được GVCN ưu tiên khi xây dựng và thực hiện kế hoạch chủ
nhiệm của mình.
Khi được Ban Giám hiệu nhà trường phân cơng cơng tác chủ nhiệm lớp

10A9 năm học 2021 - 2022, để giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh có hiệu
quả, tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
- Đầu tiên khi nhận lớp, tôi làm quen với lớp trong tuần đầu, tơi thường xun
trị chuyện với các em để nắm bắt được tình hình tâm - sinh lý của học sinh. Sau
đó, tơi sẽ tiến hành bầu ban cán sự lớp. Trước tiên tôi sẽ lấy tinh thần xung
phong, bởi qua đó tơi sẽ đánh giá được một số khả năng cũng như kĩ năng sống
của các em. Nếu khơng có học sinh xung phong, tơi sẽ lựa chọn các em học sinh
năng động, có kết quả cao trong học tập và theo dõi quá trình làm việc của các
em trong những tuần tiếp theo.
5


- Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm cụ thể ở từng tuần, từng tháng theo từng chủ đề
bám sát vào các kĩ năng sống cơ bản. Ngoài những buổi sinh hoạt 15 phút đầu
giờ, sinh hoạt cuối tuần theo qui định, tơi sẽ thường xun trị chuyện với học
sinh, đặc biết là những học sinh cá biết ở những giờ ra chơi để nắm bắt được
tình hình hoạt động của lớp cũng như biết được hồn cảnh gia đình của mỗi em.
Từ đó đưa ra những biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phù hớp với
lứa tuổi cũng như hồn cảnh gia đình của các em.
- u cầu 100% học sinh lớp chủ nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động tập thể
do nhà trường, Đoàn thanh niên tổ chức: ngoại khóa, hướng nghiệp, ngồi giờ
lên lớp, các buổi lao động. Bởi thông qua những buổi hoạt động này sẽ giúp các
em lĩnh hội kiến thức cũng như rèn luyện được kĩ năng sống.
- Lồng ghép các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số bài
học mơn Địa Lí lớp 10. Tổ chức một số các buổi học trải nghiệm thực tế gắn liền
với kiến thức mơn Địa Lí để rèn luyện một số kĩ năng sống cho các em như: kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng tự tin. Giáo dục KNS cho HS thơng qua việc hướng dẫn
HS viết bài thi tìm hiểu các kiến thức xã hội đưa lên trang web nhà trường.
2.3.1. Luôn gần gũi, quan tâm, với học sinh, lắng nghe những tâm tư, tình cảm
và những chia sẻ của học sinh về học tập, gia đình và cuộc sống.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục thì trước hết GVCN phải hiểu rõ đối
tượng giáo dục của mình. Vì vậy, tơi đã chủ động nắm bắt tâm tư, tình cảm và
đặc điểm của từng HS thơng qua nhiều kênh khác nhau như:
- Tìm hiểu thơng tin HS qua hồ sơ HS để biết được những đối tượng HS có hồn
cảnh khó khăn, những HS thuộc diện chính sách, hộ nghèo, cận nghèo... Từ đó
có biện pháp giúp đỡ HS vượt khó.
- Qua tiếp xúc với HS ở trên lớp và các hoạt động, tôi quan sát để nắm bắt rõ đặc
điểm tính cách của từng HS từ đó có những biện pháp phù hợp để giúp đỡ, uốn
nắn, giáo dục các em.
- Thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh để nắm bắt được đặc
điểm, cá tính, sở thích và sự thay đổi tâm lí của từng HS... để có biện pháp phối
hợp.
- Chủ động thăm gia đình HS để tìm hiểu về hồn cảnh gia đình, quỹ thời gian
học tập của HS để hiểu rõ hơn về cuộc sống ở nhà của các em.
- Thường xuyên tâm sự, chia sẻ, giúp đỡ hoặc lên kế hoạch giúp đỡ HS lớp mình
quản lí như: phân cơng HS học nhóm để giúp nhau trong học tập, phát động lớp
tặng vở cho bạn có hồn cảnh khó khăn, đề xuất với thầy cô bộ môn và Ban
giám hiệu hỗ trợ học phí cho HS khó khăn... Như vậy qua việc làm này tôi đã
giáo dục kĩ năng thể hiện sự cảm thơng; hình thành phẩm chất khoan dung, nhân
ái và sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn trong cuộc sống giữa các thành viên trong
lớp.
2.3.2. Giáo dục KNS cho HS thông qua việc kết hợp với Ban Giám hiệu, giáo
viên bộ mơn, Đồn thanh niên cùng tham gia giáo dục kĩ năng sống cho HS.
- Đối với Ban Giám hiệu: GVCN là cánh tay nối dài, là cầu nối giữa nhà
trường và tập thể lớp. Vì vậy, GVCN phải kịp thời triển khai các nhiệm vụ cụ
thể tới HS để các em nắm bắt và thực hiện. Đồng thời GVCN tham mưu và đề
xuất với Ban Giám hiệu những nguyện vọng chính đáng của HS như nguyện
6



vọng học phụ đạo những mơn gì?... Chính GVCN là người hiểu rõ nhất tình hình
của lớp nên GVCN cũng cần chủ động trao đổi, bàn bạc và đưa ra phương
hướng xử lí HS vi phạm, đặc biệt là học sinh cá biệt của lớp.
- Đối với giáo viên bộ môn: Hiệu quả giáo dục KNS cho HS một lớp phụ
thuộc một phần quan trọng vào việc kết hợp chặt chẽ giữa GVCN lớp với giáo
viên bộ môn thông qua các việc làm cụ thể như:
+ Thường xuyên theo dõi kết quả học tập của HS thông qua trao đổi trực tiếp với
giáo viên bộ môn; thông qua nhận xét, đánh giá trong Sổ ghi đầu bài, Sổ ghi
điểm.
+ Thường xuyên dự giờ các tiết học của lớp chủ nhiệm để quan sát thái độ, hứng
thú học tập của từng HS trong từng môn.
+ Trao đổi với giáo viên bộ mơn về hồn cảnh gia đình, sức khỏe, tâm lí, năng
lực, sở trường của từng HS trong lớp. Qua đó, nhờ giáo viên bộ môn giúp đỡ,
tạo điều kiện và có những định hướng tương lai, nghề nghiệp.
Ví dụ: Trong lớp có HS Trịnh Thị Dương sức khỏe yếu, khơng ổn định. Tôi gặp
trực tiếp giáo viên bộ môn thể dục và quốc phòng trao đổi nhờ giáo viên bộ mơn
thể dục, quốc phịng giúp đỡ, quan tâm, tạo điều kiện cho HS học tập và kiểm
tra những nội dung phù hợp với sức khỏe của bản thân HS. HS Nguyễn Xuân
Khánh, Trịnh Nguyễn Tường Vy có khả năng học các môn ban xã hội, tôi gặp
các giáo viên bộ mơn Văn, Sử trao đổi, phối hợp và có biện pháp bồi dưỡng,
định hướng tương lai cho học sinh,....
- Đối với Đoàn thanh niên: Dưới sự chỉ đạo và tạo điều kiện của Ban Giám
hiệu, năm học nào Đoàn trường cũng chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động
chào mừng các ngày lễ lớn như: Hội diễn văn nghệ, hoạt động giao lưu thể dục
thể thao giữa các lớp, làm báo tường, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ huyện… Vì
vậy tơi đã chủ động phối kết hợp cùng Đồn thanh niên đôn đốc HS tham gia
đầy đủ các hoạt động phong trào. Để xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể cho
lớp chủ nhiệm, tơi đã tìm hiểu kĩ nội dung và kế hoạch tổ chức các hoạt động
của Đoàn trường sau đó hướng dẫn HS thực hiện.
Ví dụ: Hướng dẫn HS tập luyện tham gia cuộc thi "Ai là họa sĩ" do Đoàn trường

phát động chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/2021.
+ Sau khi tìm hiểu kế hoạch tổ chức hội thi của Ban chấp hành Đoàn trường,
GVCN thông báo kế hoạch tới HS, chọn ra đội họa sĩ của lớp (đội trưởng, các
ủy viên). GV sẽ định hướng chủ đề, nội dung, hình thức để các em xác định
được vấn đề. Sau đó GVCN yêu cầu đội họa sĩ căn cứ vào hướng dẫn của GV để
chọn chủ đề phù hợp.
+ Đội họa sĩ chủ động trao đổi, bàn bạc để chọn chủ đề và lên kế hoạch tập
luyện. Các em có thể trao đổi với GV về nội dung của chủ đề và những vấn đề
khác liên quan. Từ đó GV sẽ hỗ trợ các em để tiến hành tập luyện một cách tốt
nhất.
Bên cạnh đó tơi cịn kết hợp với Đồn thanh niên và các GVCN khác tổ
chức lớp học về Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên và lớp
truyền thông với chủ đề Thanh niên – tình bạn – tình yêu để các em có nhận
thức đúng đắn trong quan hệ bạn bè và các quan hệ xã hội khác.
Thông qua các hoạt động đó, tơi lồng ghép giáo dục các KNS như: kĩ năng
7


hợp tác, thể hiện sự tự tin, tư duy sáng tạo... cho HS, tạo khơng khí thi đua sơi
nổi cho các em.
2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các b̉i lao động
Ngồi học tập thì lao động là nhiệm vụ khơng thể thiếu trong q trình
học tập và rèn luyện tại trường của HS. Lao động giúp mỗi HS rèn luyện sức
khỏe, thấy được vai trị của mình trong việc xây dựng cảnh quan trường học.
Đối với GVCN lớp, các buổi lao động chính là dịp để nắm bắt và hiểu thêm về
tình trạng sức khỏe, tính cách của HS lớp mình. Đặc biệt hơn nữa, đây là cơ hội
để GV có thể giáo dục KNS cho các em HS của lớp chủ nhiệm thông qua các
việc làm cụ thể.
Sau khi nhận được kế hoạch lao động từ Ban lao động nhà trường, tơi sẽ
bố trí một khoảng thời gian nhất định để phổ biến kế hoạch lao động tới tồn thể

HS trong lớp (có thể là tranh thủ giờ ra chơi hoặc tiết sinh hoạt lớp... tùy theo
thời gian được tiếp nhận lịch lao động sớm hay muộn). Tôi sẽ thông báo cho HS
biết về thời gian lao động, địa điểm lao động, phân công mang dụng cụ (buổi lao
động đầu tiên GVCN sẽ phân công dụng cụ, các buổi sau giao cho lớp phó lao
động phân cơng dụng cụ theo số lượng dụng cụ nhà trường yêu cầu rồi đưa
GVCN duyệt trước), lưu ý các em về trang phục trong lao động.
Đến buổi lao động, GVCN luôn ln phải có mặt tại địa điểm lao động
đúng thời gian. Trước khi vào lao động, GVCN sẽ tập trung HS, điểm danh,
kiểm tra việc mang dụng cụ theo sự phân công từ trước, quán triệt ý thức của HS
trong q trình lao động, chia lớp thành các nhóm để các em tự giác, chủ động
trong công việc. Phân công nhóm trưởng các nhóm và nhiệm vụ của từng nhóm
cụ thể. Lớp phó lao động sẽ đơn đốc các HS lao động theo chỉ đạo của GVCN.
Trong quá trình lao động, các em phải thực hiện công việc đúng yêu cầu, đảm
bảo an toàn trong lao động.
Cuối mỗi buổi lao động, GVCN kiểm tra kết quả làm việc của các nhóm.
Sau khi hồn thành cơng việc, tơi cho lớp tập trung và rút kinh nghiệm. Trước
tiên, tôi yêu cầu các nhóm trưởng và lớp phó lao động lần lượt nhận xét tiến
trình lao động của các nhóm. GVCN sẽ nhận xét, tuyên dương các nhóm và cá
nhân HS có ý thức lao động tốt, khích lệ các em tiếp tục phát huy trong những
buổi lao động sau. Đồng thời phê bình những HS làm việc chưa tự giác. GVCN
có thể đưa việc giáo dục KNS cho HS bằng cách kể cho học sinh nghe những
câu chuyện liên quan đến sức mạnh của cả tập thể (như câu chuyện “Bó đũa”,
hay câu tục ngữ: “Một cây làm chẳng lên non, Ba cây chụm lại nên hịn núi
cao”), từ đó nói rõ cho HS hiểu để có thể hồn thành tốt mọi việc thì phải có sự
chung sức, đồng lịng của mọi thành viên trong tập thể. Thái độ lười biếng, ỷ lại
vào người khác không chỉ ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của cả tập thể mà
cịn làm xấu hình ảnh của mình trong mắt người khác.
Thơng qua hoạt động tổ chức các buổi lao động, tôi lồng ghép giáo dục các
KNS như:
- Kĩ năng quản lí thời gian: Việc GVCN luôn đến địa điểm lao động đúng giờ sẽ

được coi là tấm gương để HS noi theo thực hiện. Các em phải ý thức được thời
gian bắt đầu lao động để có mặt đúng giờ, xác định được thời gian đã định cho
cơng việc được giao để từ đó có ý thức lao động sao cho phù hợp và đạt được
8


mục tiêu trong thời gian cho phép. Từ tình huống này, buộc các em HS phải có ý
thức quản lí thời gian và phân phối công việc sao cho hợp lí.
- Kĩ năng lắng nghe tích cực: Kĩ năng này được hình thành khi HS nghe GVCN
phân cơng nhiệm vụ, dặn dò việc mang dụng cụ lao động, thời gian, địa điểm lao
động, trang phục, ý thức chấp hành lao động.
- Kĩ năng hợp tác: Kĩ năng hợp tác được hình thành trong q trình HS lao động
theo nhóm. Các em xác định được vai trị, trách nhiệm của mình trong nhóm để
phối hợp hồn thành tốt cơng việc. Đồng thời HS sẽ đưa ra phương án phân
công nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm sao cho phù hợp với sức khỏe và
khả năng làm việc của mỗi HS. Điều đó khơng chỉ giúp nâng cao hiệu quả lao
động mà cịn tăng thêm tình đồn kết giữa các em.
- Kĩ năng giải quyết vấn đề và kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Trong q trình lao
động, đơi lúc HS sẽ gặp phải những phát sinh nhỏ. Khi đó các em có thể trao đổi
với GVCN để được hướng dẫn hoặc cùng nhau bàn bạc để đưa ra cách giải
quyết hợp lí nhất. Đó chính là những tình huống có vấn đề nảy sinh từ thực tiễn,
buộc các em phải suy nghĩ để tìm cách giải quyết. Từ đây sẽ giúp các em hình
thành và củng cố kĩ năng giải quyết vấn đề và kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
- Kĩ năng lãnh đạo bản thân: Được hình thành thơng qua việc quản lí và điều
hành nhóm, lớp lao động (nhóm trưởng, lớp phó lao động) theo sự phân công
của GVCN. Việc chấp hành kỉ luật lao động tốt của từng em cũng thể hiện được
kĩ năng lãnh đạo bản thân.
- Kĩ năng thuyết trình: Được hình thành trong q trình nhóm trưởng hay lớp
phó lao động báo cáo tình hình cơng việc của nhóm, lớp với GVCN.
2.3.4. Giáo dục kĩ năng sống trong giờ sinh hoạt cuối tuần

Sinh hoạt cuối tuần là khoảng thời gian các em nhìn nhận lại kết quả rèn
luyện của cá nhân và tập thể lớp sau một tuần học. Đồng thời các em sẽ có điều
kiện sinh hoạt tập thể cùng nhau. Đó là cơ hội tốt để gắn kết các mối quan hệ
thầy – trò, trò – trò. Tuy nhiên nhiều thầy cơ chủ nhiệm đã biến 45 phút đó thành
giờ để GV diễn thuyết, răn đe gắn với phê bình, kỉ luật làm mất đi ý nghĩa của
hai từ “sinh hoạt”.Việc làm này khơng những tạo ra khơng khí căng thẳng cho
tập thể lớp mà cịn gây tâm lí chuẩn bị đối phó hoặc tự ti cho HS. Vì vậy, tôi đã
áp dụng kịch bản sinh hoạt theo lối mới để tạo khơng khí thoải mái, tích cực cho
các em.
Trong mỗi giờ sinh hoạt cuối tuần, tôi thường dành 10 – 15 phút để sơ kết
tuần. Trước tiên tôi yêu cầu các tổ trưởng, lớp phó, lớp trưởng nhận xét tình hình
của tổ và lớp trong tuần. Sau đó, GVCN kiểm điểm tình hình hoạt động của lớp
(ưu điểm, hạn chế), xử lí học sinh vi phạm, tuyên dương HS tiến bộ… và triển
khai kế hoạch tuần kế tiếp. Khi xử lí HS vi phạm tơi gắn liền với việc giáo dục
KNS cho HS, xử lí khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc gắn với kỷ
luật.
Ví dụ: Trong giờ học mơn Vật lí, hai em HS bất đồng quan điểm, gây tranh cãi,
mất trật tự, ảnh hưởng tới các HS khác và điểm thi đua của lớp (lớp bị giờ Khá).
Trong tình huống này, tơi bình tĩnh đưa ra những câu hỏi phát vấn hai HS vi
phạm như: Vì sao hai em lại dẫn đến mâu thuẫn? Nếu bình tĩnh các em có hành
động như vậy khơng? Nếu hai bạn ngồi cạnh em gây mất trật tự thì em cảm thấy
9


thế nào? Sự cố gắng phấn đấu của cả tập thể lớp có đáng bị ảnh hưởng bởi hành
vi của hai em khơng?... Sau đó, tơi sẽ cho hai HS trình bày ý kiến của mình
trước lớp và phân tích cho HS hiểu hành động của hai em trong giờ học là không
nên. Đồng thời qua trường hợp hai học sinh vi phạm tôi sẽ giáo dục cho HS kĩ
năng lắng nghe tích cực, kĩ năng quản lí cảm xúc, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
như: kiềm chế tức giận, thư giãn cơ thể, bình tĩnh nói ra cảm xúc của mình với

giọng điệu nhẹ nhàng, kiên định. Cuối cùng, GVCN cho hai HS giảng hòa nhau
và yêu cầu hai HS viết bản kiểm điểm trình bày trước lớp về những hành vi sai
trái của mình.
Qua việc làm này, tơi đã lồng ghép giáo dục các KNS như :
- Kĩ năng tư duy phê phán: Kĩ năng này được hình thành khi lần lượt các cán sự
lớp báo cáo trước GVCN và tập thể lớp về tình hình của lớp sau một tuần. Các
cán sự lớp sẽ phải ghi chép, thu thập thông tin để nhận xét ưu điểm và hạn chế
của các thành viên trong tổ, lớp. Để đảm bảo sự chính xác, khách quan thì địi
hỏi các em phải làm việc nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm cao. Đồng thời
các HS khác trong lớp cũng có thể đưa ra phản hồi (nếu cần thiết). Qua đó hình
thành được kĩ năng tư duy phê phán.
- Kĩ năng lắng nghe tích cực: HS trong lớp sẽ rèn luyện được sự tập trung khi
nghe nhận xét của cán sự lớp và GVCN. Trước phê bình, nhắc nhở nghiêm khắc
nhưng nhẹ nhàng của GVCN với những lỗi vi phạm, HS sẽ tiếp thu để sữa chữa,
các HS khác sẽ rút được kinh nghiệm cho mình. Mặt khác, khi HS có tiến bộ thì
những lời tun dương từ thầy cơ sẽ là động lực giúp các em cố gắng phát huy
hơn nữa trong tuần tiếp theo.
2.3.5. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động ngoại khóa
Do đại dịch Covid 19 bùng nổ việc tổ chức chào cờ tập trung vào sáng thứ
2 hàng tuần bị hạn chế, đa phần các giờ sinh hoạt này đều được tổ chức tại lớp.
Tận dụng những buổi sinh hoạt tại lớp, tôi đã tổ chức các hoạt động ngoại khóa
cho học sinh, tơi lựa chọn lồng ghép các chuyên đề giáo dục KNS cho HS thông
qua các hoạt động như: tổ chức các trị chơi để kích thích khả năng tư duy, động
não, sự nhanh nhẹn của học sinh; tổ chức cho học sinh lên hát, diễn kịch, giải
quyết tình huống; phát động HS lần lượt chia nhau viết và đọc “Nhật kí lớp”
trong giờ sinh hoạt; kể các câu chuyện trong cuốn “Hạt giống tâm hồn” cho học
sinh nghe để giúp các em hiểu những giá trị của cuộc sống, tình yêu thương bao
dung giữa con người trong xã hội với nhau. Hay tuyên truyền giáo dục các em
các kĩ năng ứng phó với đại dịch Covid 19…
Tùy vào thời gian của tiết sinh hoạt, tôi sẽ lựa chọn tổ chức các hoạt động

khác nhau. Một trong những hình thức tơi đã tổ chức là cho HS giải quyết tình
huống. GVCN có thể đưa ra tình huống hoặc HS trong lớp nêu ra những khó
khăn của mình gặp phải mà chưa giải quyết được. Sau đó cơ trị cùng nêu ý kiến
hỗ trợ giải quyết tình huống.
Tình huống 1: Bố mẹ bạn ln kì vọng và khen ngợi bạn trước mặt mọi
người rằng bạn học giỏi, lại chăm ngoan, có nguyện vọng trở thành bác sĩ. Trong
khi lực học của bạn chỉ ở mức trung bình, bạn cũng khơng có nguyện vọng và
khả năng thi vào trường Y. Trong trường hợp này bạn sẽ làm thế nào để vừa
không làm bố mẹ buồn, vừa giúp bản thân tránh khỏi áp lực?
10


Tình huống 2: Với truyền thống nghề nghiệp của gia đình là giáo viên, nên
mọi người ai cũng mong muốn bạn trở thành giáo viên. Tuy nhiên, vốn biết sức
học của mình chỉ ở mức trung bình nên bạn khơng có nguyện vọng thi sư phạm
mà bạn muốn làm họa sĩ vì bạn có khả năng vẽ rất tốt. Tuy nhiên nếu khơng có
sự ủng hộ của gia đình thì bạn khơng thể thực hiện được ước mơ của mình.
Trong trường hợp này bạn sẽ xử lí như thế nào?
Tình huống 3: Bạn là anh (chị) cả trong một gia đình khó khăn về kinh tế
lại đơng anh em đi học, gia đình sống chủ yếu vào nghề trồng lúa. Dù sức học
rất khá nhưng bạn sẽ khơng có điều kiện về tài chính để tiếp tục con đường học
vấn. Bạn sẽ làm gì trong trường hợp này?
Sau khi lắng nghe các tình huống, HS lớp tơi đã trao đổi rất sôi nổi và đưa ra
nhiều cách giải quyết thú vị. Có thể các giải pháp các em đưa ra chưa hẳn tối ưu
nhưng với tơi nó là một thành cơng vì qua đó tơi đã giúp các em thể hiện được
quan điểm của bản thân, cùng hợp tác để giải quyết vấn đề, giúp các em có sự tự
tin cần thiết để xử lý các tình huống sau này. Quan trọng hơn cả là nó đã tạo
khơng khí vui vẻ, thân thiện cho lớp.
Qua những buổi ngoại khóa như vậy, tôi đã lồng ghép giáo dục các KNS
như:

- Kĩ năng lắng nghe tích cực: được hình thành khi HS tập trung nghe tình huống
được đưa ra và tiếp thu ý kiến của bạn.
- Kĩ năng giải quyết vấn đề: Các em phải suy nghĩ để đưa ra ý kiến cá nhân của
mình về tình huống đã nêu một cách phù hợp nhất. Điều này giúp HS bày tỏ
được quan điểm cá nhân của mình, qua đó hình thành kĩ năng giải quyết vấn đề.
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng: Để giải quyết được tình huống, HS phải đặt
mình vào tình huống. Qua đó giúp các em hiểu rõ hơn về cảm xúc của ngừoi
khác và cảm thông với hoàn cảnh của họ.
- Kĩ năng giao tiếp: được hình thành khi HS trình bày cách giải quyết tình huống
của mình trước lớp, biết tơn trọng ý kiến của bạn ngay cả khi bất đồng quan
điểm.
2.3.6. Giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế.
Trải nghiệm là hoạt động giúp HS hình thành được nhiều kĩ năng từ thực
tế dưới sự hướng dẫn của hướng dẫn viên và GV. Trong năm học 2021 – 2022,
khi đại dịch Covid 19 đã được kiểm soát, trường THPT Yên Định 1 đã tổ chức
đợt trải nghiệm thực tế tại các địa điểm như đền Đồng Cổ (xã Yên Thọ, huyện
Yên Định) … tạo điều kiện cho HS hiểu thêm về truyền thống văn hiến của quê
hương, đất nước. Đây là cơ hội tốt để các em bộc lộ bản thân. Các hoạt động trải
nghiệm cụ thể sẽ giúp gắn kết các thành viên trong lớp với nhau và gắn kết
GVCN với HS. Vì vậy, GVCN nên động viên HS tham gia đầy đủ. Trước khi đi
trải nghiệm, GVCN phải phổ biến cho tất cả HS trong lớp nắm được một số quy
định để HS thực hiện như: có mặt đúng giờ, ln đi theo đồn, tn thủ sự quản
lí của GVCN và hướng dẫn viên... Đồng thời GVCN phải hướng dẫn HS chuẩn
bị chu đáo các đồ dùng cần thiết cho bản thân và cho tập thể lớp. Trong quá trình
hướng dẫn viên thuyết trình và tổ chức các hoạt động cho lớp, GVCN nên đồng
hành cùng HS trong suốt q trình để đơn đốc và giúp đỡ kịp thời. GVCN cũng
11


cần chủ động lên phương án tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho lớp và đơn

đốc HS chấp hành tốt các quy định.
Trong dịp trải nghiệm thực tế tại đền Đồng Cổ, tôi đã tổ chức cuộc thi “Ai
làm hướng dẫn viên” cho HS lớp chủ nhiệm. Cách thức tiến hành như sau:
+ Trước khi đi trải nghiệm, tôi chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm có ít nhất 1 HS
thuyết trình tốt), bầu nhóm trưởng các nhóm.
+ GVCN giao các nhóm tìm hiểu trên báo, Internet… về đền Đồng Cổ – địa
điểm các em sẽ đi thực tế để viết thành bài thuyết trình.
+ Trong quá trình đi trải nghiệm tại đền Đồng Cổ, đại diện các nhóm lần lượt
làm hướng dẫn viên thuyết trình cho cả lớp nghe về các thông tin mà các em đã
chuẩn bị.
+ GVCN và hướng dẫn viên của đoàn sẽ nhận xét, đánh giá. Nhóm nào có phần
thể hiện tốt nhất sẽ được trao quà.
+ Sau khi đi trải nghiệm về, các nhóm sẽ tập hợp những hình ảnh thu thập được
tại địa danh để làm thành một clip ngắn trình chiếu vào giờ sinh hoạt cuối tuần.
Khi tổ chức hoạt động cho HS, tôi chỉ đặt mục tiêu là trên cơ sở đã tìm hiểu
thơng tin từ trước, các em sẽ khắc sâu hơn hiểu biết về địa danh và có một
chuyến tham quan vui vẻ, đáng nhớ. Nhưng những gì các em đã làm được thực
sự vượt qua sự mong đợi của giáo viên, khiến các thầy cô ngạc nhiên. Tơi rất tự
hào về các em. Qua đó tơi cũng nhận thấy rằng chỉ cần GV có định hướng tốt thì
HS sẽ bộc lộ được nhiều khả năng của bản thân mà đơi khi chính các em cũng
chưa nhận ra.
Như vậy thông qua các buổi trải nghiệm thực tế này, tơi có thể lồng ghép
giáo dục các KNS như:
- Kĩ năng quản lí thời gian: được hình thành khi HS phải sắp xếp để có mặt tại
địa điểm tập trung đúng thời gian quy định. Từ đó rèn luyện cho các em ý thức
tuân thủ nguyên tắc về thời gian.Việc GVCN có mặt đúng giờ sẽ làm gương cho
HS trong lớp cùng thực hiện.
- Kĩ năng hợp tác: được hình thành khi HS tham gia các hoạt động và sinh hoạt
tập thể. Đặc biệt là việc hoạt động theo nhóm để sắp xếp các thông tin thu thập
được thành một bài thuyết trình hồn chỉnh.

- Kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp: Khi HS tham gia các hoạt động,
các em được bộc lộ bản thân nhiều hơn. HS có cơ hội giao tiếp nhiều hơn với
bạn bè và tự tin thể hiện mình trước đám đơng. Qua đó hình thành kĩ năng thể
hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp.
2.3.7. Giáo viên chủ nhiệm lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
thông qua mơn học của mình
Là giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng là giáo viên bộ môn giảng dạy môn
Địa lí, tơi thường lồng ghép các nội dung giáo dục KNS vào trong bài giảng
như: giáo dục HS ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên; biết tôn trọng và
bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc mình; nêu cao tinh thần tự giác, trách nhiệm
với bản thân, gia đình, quê hương, đất nước... Việc kết hợp linh hoạt các phương
pháp và kĩ thuật dạy học trong từng bài dạy không chỉ giúp HS tiếp thu bài tốt
hơn, phát huy được tính tích cực của các em mà cịn giúp hình thành ở các em
nhiều năng lực và phẩm chất cần thiết.
12


Ví dụ 1. Bài 20: Lớp vỏ địa lí, quy luật thống nhất và hồn chỉnh của lớp vỏ
địa lí. GV cho học sinh xem một số đoạn phim ngắn sau: “Phá rừng nhiệt đới”;
“Lũ lụt miền Trung”; “Lũ quét ở Hà Giang”; “Giáo dục môi trường”; hay
“Thảm họa thiên tai”; “ Bão Lớn”; “Hà Nội ngập lụt”. GV yêu cầu HS nghiên
cứu đoạn phim, từ đoạn phim trên học sinh cho biết những hậu quả xấu do tác
động của con người gây ra đối với môi trường tự nhiên? Việc phá rừng đầu
nguồn có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống và môi trường tự nhiên của chúng
ta? Các hành động mà các em có thể làm để bảo vệ mơi trường?
Ví dụ 2: Bài 41: Mơi trường và tài nguyên thiên nhiên: mục tiêu của bài là
giúp HS biết được hiện trạng về môi trường và vấn đề sử dụng tài nguyên thiên
nhiên hiện nay, thông qua đó các em có thể liên hệ thực tế với tình hình mơi
trường và thực trạng sử dụng tài ngun thiên nhiên ở nước ta. Từ đó có những
biện pháp tích cực để bảo vệ mơi trường và sử dụng hợp lí nguồn tài ngun. Vì

vậy tơi đã giao nhiệm vụ cho các em dưới dạng một bài tập thực hành. HS phải
vận dụng hiểu biết thực tế và kiến thức đã học để tìm hiểu việc sử dụng nước ở
địa phương bằng cách trả lời các câu hỏi gợi ý sau:
+ Địa phương em đang sinh sống có những loại tài nguyên nào?
+ Thực trạng sử dụng các loại tài nguyên này ở địa phương em như thế nào?
+ Em có những biện pháp nào để bảo vệ nguồn tài nguyên ở địa phương?
Bài tập này không chỉ giúp hình thành năng lực học tập mà cịn giúp HS có ý
thức tốt hơn trong việc sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và hình thành các
KNS như:
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin: Kĩ năng này được hình thành khi HS thu
thập các thơng tin, số liệu để trả lời câu hỏi gợi ý của GV.
+ Kĩ năng tự nhận thức: HS thảo luận để tìm ra nguyên nhân gây nên hiện tượng
suy giảm tài nguyên. Khi đó các em sẽ ý thức được hành vi của bản thân và có
những việc làm cụ thể để tránh lãng phí nguồn tài nguyên.
2.3.8. Giáo viên chủ nhiệm phát huy vai trị của ban cán sự lớp.
Khơng phải lúc nào GVCN cũng có mặt ở lớp để nắm bắt và giải quyết các
vấn đề liên quan. Việc phát huy vai trò của ban cán sự lớp, ban chấp hành chi
đoàn sẽ giúp GVCN theo sát hoạt động của lớp và kịp thời xử lí phát sinh. Vì
vậy ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đồn có thể ví như “cánh tay nối dài” của
GVCN. Để phát huy vai trị của đội ngũ cán sự lớp, tơi đã thực hiện các biện
pháp như sau:
Chia HS trong lớp theo các đơn vị tổ, phân cấp phân quyền quản lí đối với
từng bộ phận rõ ràng, khoa học. Các tổ trưởng chịu trách nhiệm quản lí và đơn
đốc các thành viên trong tổ thực hiện tốt nội quy. Lớp phó lao động đơn đốc lớp
trực nhật sạch sẽ, giữ gìn cơ sở vật chất lớp học và phân cơng lao động. Lớp
trưởng quản lí chung và liên hệ với GV khi cần thiết.
Giao cho ban cán sự lớp theo dõi và quản lí lớp trong các tiết học. Giao
quyền và trách nhiệm cho Bí thư chi đồn và ban chấp hành chi đoàn trong việc
triển khai thực hiện các hoạt động phong trào: tập luyện văn nghệ, đăng kí số
lượng học sinh tham gia các trò chơi, tập luyện thể dục thể thao để thi đấu...

Trong đó, GVCN nhấn mạnh: người chịu trách nhiệm đầu tiên trước GVCN là
lớp trưởng và Bí thư chi đồn. u cầu lớp trưởng chủ trì tiết sinh hoạt cuối
13


tuần, các thành viên trong ban cán sự lớp và ban chấp hành chi đoàn lần lượt
nhận xét, đánh giá từng mảng mình phụ trách. GVCN là người tổng kết hoạt
động của tuần và đưa ra hướng xử lí học sinh vi phạm, lớp phó lao động là
người sẽ lên kế hoạch cụ thể chi tiết đối với từng học sinh vi phạm liên quan đến
mảng mình phụ trách (lên kế hoạch phạt trực nhật lớp, phạt lao động, dọn vệ
sinh, tưới cây xanh khuôn viên trường...)
Tuy nhiên, để phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán sự lớp thì GVCN phải
chọn được ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đồn có năng lực, nhiệt tình, trách
nhiệm và được sự tín nhiệm cao của HS trong lớp.
- Kĩ năng tự nhận thức: Qua việc thực hiện nhiệm vụ của mình, mỗi thành viên
trong ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đồn phải ln ý thức được những gì
mình đang làm để làm gương cho cá bạn noi theo. Từ đó các em có những ứng
xử phù hợp với các tình huống nảy sinh.
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp: được hình thành khi cán sự lớp
trình bày ý kiến hoặc triển khai công việc trước tổ, tập thể lớp và qua trao đổi
thông tin với thầy cô.
- Kĩ năng ra quyết định: khi được giao đảm nhận nhiệm vụ nào đó, các em phải
đưa ra phương án tối ưu để giải quyết phát sinh từ thực tiễn khi khơng có mặt
GVCN.
- Kĩ năng tư duy phê phán: được hình thành khi HS HS phải thu thập thông tin,
nhận định vấn đề một cách khách quan khi theo dõi tổ, lớp để báo cáo tình hình
với GVCN.
2.3.9. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh
Giáo dục KNS cho HS không chỉ được thực hiện trong nhà trường. Vì vậy,
GVCN phối hợp với phụ huynh trong việc quản lí và giáo dục KNS cho HS là

việc làm cần thiết. Ngay từ khi nhận lớp, tôi yêu cầu HS cung cấp các thông tin
về bản thân và phụ huynh bằng việc yêu cầu HS điền thơng tin vào Sơ yếu lí
lịch. Từ đó, tơi lập các bảng biểu khoa học, chi tiết có đầy đủ các thơng tin của
phụ huynh HS để có căn cứ liên lạc và đánh giá sơ bộ về hoàn cảnh của từng
em.
GVCN phải thường xuyên trao đổi, thông báo tới phụ huynh những biểu
hiện của HS khi học tại trường, đặc biệt là những HS chưa chuyên cần, vi phạm
nội quy… thơng qua các hình thức như: trao đổi qua điện thoại, gặp trực tiếp
phụ huynh…Trao đổi với phụ huynh để nắm bắt hiệu quả của việc giáo dục
KNS cho HS đến đâu thông qua các biểu hiện như: Khi HS về nhà ứng xử với
những người thân ra sao? Cách giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
như thế nào? Quan hệ với bạn bè, người dân địa phương có hịa nhập hay
khơng?... Trong các buổi họp phụ huynh, tôi cung cấp cho phụ huynh thơng tin
như: giáo dục sức khỏe giới tính, tâm sinh lí lứa tuổi HS THPT, định hướng lựa
chọn nghề nghiệp cho tương lai... dưới hình thức tư vấn, tuyên truyền và thống
nhất các biện pháp để phối hợp giáo dục HS.
Có rất nhiều giải pháp để giáo dục KNS cho HS nhưng khơng có một giải
pháp nào là “vạn năng” có thể hình thành KNS cho HS ngay được mà việc hình
thành nên KNS cho HS là cả một quá trình và yêu cầu người GVCN phải biết
kết hợp linh hoạt các giải pháp phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh và từng
14


lứa tuổi HS. Có như vậy việc giáo dục KNS mới đạt được hiệu quả cao hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Về phía giáo viên
Trước tiên tơi chia sẻ các biện pháp giáo dục KNS mà tôi đã thực hiện cho
HS với 04 GVCN khác. Sau đó các GV tự vận dụng vào đối tượng HS lớp chủ
nhiệm của mình. Tơi tiến hành điều tra, thu thập ý kiến của GV về hiệu quả của
các biện pháp giáo dục KNS đó. Kết quả thu được như sau:

Bảng 01: Thống kê ý kiến của giáo viên chủ nhiệm về hiệu quả của các biện
pháp giáo dục kĩ năng sống cho HS
Kết quả
Câu hỏi
Phương án trả lời
Số
Tỉ lệ
lượng (%)
0
0
1. Các biện pháp giáo dục KNS đó có a. Khơng phù hợp
phù hợp với HS lớp chủ nhiệm không? b. Phù hợp
4
100
a. Không hiệu quả
0
0
2. Hiệu quả của các biện pháp giáo
b. Hiệu quả
3
75
dụcKNS đó như thế nào với HS?
c. Hiệu quả cao
1
25
a. Khơng khó
4
100
3. Các biện pháp giáo dục KNS nói trên
b. Khó

0
0
có khó thực hiện khơng?
c. Rất khó
0
0
a. Được
3
75
4. Các biện pháp giáo dục KNS đó có
b. Tùy điều kiện cụ thể
1
25
khả năng áp dụng rộng rãi được không?
c. Không
0
0
Như vậy, đa số GVCN đều cho rằng các biện pháp giáo dục KNS nói trên
đã mang lại hiệu quả cao, dễ thực hiện và hồn tồn có khả năng áp dụng rộng
rãi.
2.4.2. Về phía học sinh
Tơi đã áp dụng các biện pháp giáo dục KNS trên ngay tại lớp chủ nhiệm
của tôi là đối tượng HS lớp 10A9 (năm học 2021 – 2022) và đã đạt được kết quả
rất khả quan.
Đầu năm học, hầu hết HS trong lớp đều có đặc điểm chung là nhút nhát,
thiếu tự tin, ngại giao tiếp. Các em tham gia các hoạt động tập thể mang tính
chất đối phó, cịn đùn đẩy và thiếu trách nhiệm. Nhiều em tỏ ra lúng túng trước
những tình huống nảy sinh từ thực tế. Một số HS không xác định được mục tiêu
học tập nên hiệu quả học tập và rèn luyện chưa cao.
Bảng 02: Kết quả xếp loại học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10A9 giữa học

kì I năm học 2021 – 2022
Học lực
Hạnh kiểm
Tổng
Xếp loại
Trung
Trung
số Giỏi Khá
Yếu Tốt Khá
Yếu
bình
bình
Số lượng (HS)
42
0
09
23
10
18
12
10
2
Tỉ lệ (%)
100
0
21,4 54,8 23,8 42,9 28,6 23,8
4,7
15



Trước tình hình thực tế của HS lớp chủ nhiệm, tôi nhận thấy việc giáo dục
KNS cho các em là việc làm cấp thiết vì HS rất cần trang bị KNS cho bản thân
trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Sau khi tôi áp dụng các biện pháp giáo dục
KNS nói trên, từng cá nhân HS trong lớp đều đã tiếp thu, tự tích lũy cho mình và
vận dụng có hiệu quả vào thực tế cả ở trường và ở nhà nên đến cuối học kì 1 tình
hình của lớp đã được cải thiện rất nhiều.
Bảng 03: Kết quả xếp loại học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10A9 cuối học
kì I năm học 2021 – 2022
Học lực
Hạnh kiểm
Tổng
Xếp loại
Trung
Trung
số Giỏi Khá
Yếu Tốt Khá
Yếu
bình
bình
Số lượng (HS)
42
2
15
21
4
28
8
6
0
Tỉ lệ

(%)
100 4,7 35,8 50,0
9,5 66,7 19,0 14,3
0
Sang học kì 2 tơi vẫn áp dụng các biện pháp nêu trên và thấy được sự tiến bộ
rõ rệt của các em không chỉ về hành vi thái độ mà cả kết quả học tập cũng có sự
thay đổi tích cực. Trong năm học 2021 – 2022, tập thể lớp 10A9 đã đạt được
nhiều thành tích xuất sắc như:
- 02 HS đạt giải Học sinh giỏi cấp trường (1 giải nhì, 1 giải khuyến khích mơn
Địa lí). Có 5 lượt học sinh đạt giải trong cuộc thi Câu lạc bộ học tập do Đoàn
trường phát động.
- 03 HS được Ban chấp hành Đoàn trường tặng Giấy khen có thành tích xuất
sắc trong hoạt động và phong trào Đồn.
- 05 HS tham gia tích cực trong đội văn nghệ của Đoàn trường.
- Các giải thưởng trong các cuộc thi, hoạt động do nhà trường và Đồn trường
phát động như: giải nhì cuộc thi viết về thầy cơ nhân ngày 20 -11, giải nhì về
phong trào thi đua nhiều điểm tốt chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11,
ngày thành lập đoàn 26 /3 trong năm học 2021 -2022, giải ba cuộc thi Ai là họa
sĩ.
- Tập thể lớp đạt thành tích là “tập thể xuất sắc”.
- Xếp loại hai mặt giáo dục của HS trong học kì II cao hơn so với học kì I.
Bảng 04: Kết quả xếp loại học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10A9 học kì II
năm học 2021– 2022
Học lực
Hạnh kiểm
Tổng
Xếp loại
số Giỏi Khá
TB
Yếu Tốt Khá

TB
Yếu
Số lượng (HS)
42
12
22
8
0
38
04
0
0
Tỉ lệ
(%)
100 28,6 52,4 19,0
0
90,5 9,5
0
0
Từ kết quả học tập, rèn luyện và những thành tích mà lớp chủ nhiệm của
tôi đã đạt được trong năm học 2021– 2022, tơi thấy các biện pháp giáo dục KNS
mình đã áp dụng cho HS đem lại hiệu quả rõ rệt.
Để đánh giá một cách khách quan những hiệu quả của các biện pháp giáo
dục KNS nói trên, tơi tiếp tục thực nghiệm với đối tượng HS các lớp 10A1,
10A5, 10A14, 10A17 trong năm học 2021 – 2022. Trước khi áp dụng đề tài, tôi
thống kê xếp loại hai mặt giáo dục của HS các lớp học kì I như sau:

16



Bảng 05: Kết quả xếp loại học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10A1, 10A5,
10A14, 10A17 cuối kì I năm học 2021 – 2022.
Học lực (HS)
Hạnh kiểm (HS)
Lớp
Sĩ số
Giỏi Khá
TB
Yếu Tốt Khá
TB
Yếu
10A1
43
02
14
26
01
18
20
04
0
10A5

43

0

11

30


02

18

15

08

02

10A14

42

0

10

30

02

15

12

13

02


10A17

42

02

28

14

01

20

18

04

0

Trong học kì II, GVCN các lớp đã áp dụng các biện pháp giáo dục KNS
nói trên. Sau quá trình triển khai thực hiện, HS các lớp đều đã có chuyển biến
nhất định trong hành vi và ứng xử. Kết quả học tập và rèn luyện cuối học kì II
của các em đã cao hơn nhiều.
Bảng 06: Kết quả xếp loại học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10A1, 10A5,
10A14, 10A17 cuối học kì II năm học 2021 – 2022
Học lực (HS)
Hạnh kiểm (HS)
Lớp

Sĩ số
Giỏi Khá TB
Yếu Tốt Khá
TB
Yếu
10A1
43
12
23
8
0
35
8
0
0
10A5

43

6

27

10

0

33

10


0

0

10A14

42

4

28

12

0

32

9

1

0

10A17

42

14


22

6

0

36

6

0

0

Như vậy, những kết quả thực nghiệm đó cho thấy: các biện pháp giáo dục
KNS nêu trên đã tác động tích cực đến việc hình thành KNS cho HS, góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17


3.1. Kết luận
Mục tiêu của các hoạt động giáo dục trong nhà trường là trang bị tri
thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất giúp HS có hành trang vững chắc bước vào
tương lai. Để đạt được mục tiêu đó thì việc giáo dục KNS cho các em là việc
làm rất quan trọng. Nó khơng chỉ giúp các em có định hướng học tập đúng đắn
mà cịn giúp các em có bản lĩnh vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Việc
giáo dục KNS là cả một quá trình mà nhân tố có vai trị quan trọng nhất để giáo

dục KNS ở nhà trường là các thầy cơ giáo, trong đó GVCN đóng vai trị nịng
cốt. Vì ở trường, thầy cơ chủ nhiệm được ví như người cha, người mẹ thứ hai, có
tác động sâu sắc tới từng HS trong lớp. Mỗi hoạt động của lớp đều có sự đồng
hành của GVCN nên hơn ai hết, GVCN có nhiều cơ hội để thực hiện các biện
pháp giáo dục KNS cho các em. Giáo viên có thể giáo dục KNS cho HS thông
qua các buổi lao động, tiết sinh hoạt cuối tuần, hoạt động GDNGLL, trải nghiệm
thực tế… Giáo dục KNS cho HS khơng khó, chỉ cần GVCN thực sự tâm huyết,
chịu đầu tư thời gian và công sức để lên kế hoạch hoạt động cụ thể thì nhất định
sẽ đạt được kết quả mong muốn.
GVCN phải áp dụng linh hoạt các biện pháp giáo dục KNS nói trên, vận
dụng phù hợp với đối tượng HS lớp chủ nhiệm. Đó chính là “nghệ thuật” chủ
nhiệm của mỗi thầy cô. Để làm được điều đó thì GVCN phải căn cứ vào đặc
điểm, hồn cảnh và điều kiện thực tế của lớp để xây dựng kế hoạch chi tiết cho
mỗi hoạt động. Có như vậy, việc lồng ghép giáo dục KNS cho HS đạt hiệu quả
cao nhất. GVCN ln thay đổi hình thức tổ chức để tránh lặp lại, gây nhàm
chán. Khi tổ chức các hoạt động, cần đảm bảo tất cả HS trong lớp đều được
tham gia (dù đóng góp của các em cho hoạt động là nhiều hay ít). Các biện
pháp giáo dục KNS nêu trên hồn tồn có thể áp dụng ở những trường có cùng
điều kiện với trường THPT Yên Định 1.
3.2. Kiến nghị
Để việc việc giáo dục KNS cho HS THPT đạt kết quả cao, đáp ứng nhu cầu
của mỗi HS, tiến tới thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục,
tơi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau:
- Sở Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức nhiều hơn các lớp tập huấn, bồi dưỡng
thường xuyên cho GV về nội dung giáo dục KNS, đặc biệt là cho GVCN.
- Nhà trường cần tổ chức các buổi hội thảo, góp ý, trao đổi về các giải pháp để
giáo dục KNS cho HS trong một số buổi sinh hoạt công tác chủ nhiệm.
- Nhà trường cần có chủ trương thống nhất lồng ghép các chuyên đề giáo dục
KNS cho HS trong các buổi sinh hoạt cuối tuần và các buổi sinh hoạt tập thể,
cần định hướng cho GVCN các lớp thực hiện giáo dục KNS một cách đồng thời,

thống nhất nội dung chung.
- Nhà trường cần quan tâm sâu sát hơn vấn đề giáo dục KNS cho HS; tạo điều
kiện về cơ sở vật chất giúp GV có điều kiện thuận lợi trong công tác chủ nhiệm
cũng như công tác giáo dục KNS cho HS.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm và trình độ chun mơn cịn
hạn chế nên đề tài này khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
18


sự đóng góp ý kiến của các thầy, cơ giáo đồng nghiệp để đề tài của tơi được
hồn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 27 tháng 05 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.

Trịnh Thị Huyền

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, NXB Giáo
dục Việt Nam, năm 2010.
2. Giáo dục kĩ năng sống trong mơn Địa lí ở trường trung học phổ thơng, NXB
Giáo dục Việt Nam, năm 2010.
3. Luật Giáo dục năm 2005.

4. Sách giáo khoa Địa lí lớp 10 – Lê Thơng (chủ biên) - NXB giáo dục – Năm
xuất bản 2014.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Yên Định 1
Cấp đánh
Kết quả
Năm học
giá xếp loại
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá
(Phòng, Sở, xếp loại (A,
xếp loại
Tỉnh...)
B, hoặc C)
1.
Hướng dẫn HS Trường THPT Sở GD&ĐT
C
2011 - 2012
Quan Sơn 2 cách vẽ biểu đồ
hình cột trong SGK Địa lí 12

2.
Khai thác kiến thức từ tranh ảnh Sở GD&ĐT
C
2012
trong SGK vận dụng vào dạy
2013
học mơn Địa lí lớp 11 ở trường
THPT Quan Sơn 2
3.

4.

Hướng dẫn học sinh lớp 10 Sở GD&ĐT
trường THPT Quan Sơn 2 giải
các bài tập địa lí tự nhiên đại
cương trong ơn thi học sinh giỏi
mơn Địa lí lớp 10
“Hướng dẫn học sinh trường Sở GD&ĐT
THPT Yên Định 1 cách trả lời
các dạng câu hỏi phần địa lí tự
nhiên đại cương lớp 10 trong ôn
thi học sinh giỏi.

C

2016
-2017

C


2017
-2018

21



×