Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Pháp luật quốc tế Phân tích nội dung quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục trong pháp luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.9 KB, 6 trang )

HỌ VÀ TÊN:

LỚP:

MSSV:
Câu 1 (5 điểm)
Phân tích nội dung quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục trong pháp luật quốc tế về quyền con
người? Trên cơ sở đó, hãy chỉ ra sự tương thích của pháp luật Việt Nam và luật
nhân quyền quốc tế về quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Tính khơng thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở
chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước”. Anh (chị) hãy
bình luận về nhận định trên?

BÀI LÀM
Câu 1
1. Khái niệm
Theo Điều 1 của Cơng ước về chống tra tấn các hình thức đối xử, trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT), tra tấn được hiểu là tra
tấn được hiểu là: bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm
trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thơng
tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người
đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã
thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ
một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau


đớn và đau khổ đó do một cơng chức hay người nào khác hành động với tư cách


chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công
chức.
Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục có thể hiểu là khơng ai có quyền được làm những hành
động gây đau đớn về thể xác và tinh thần như tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người khác dù với bất kì mục đích gì (trừng phạt,
giáo dục, rèn luyện,…)
2. Nội dung
Đối với Luật pháp quốc tế, Điều 7 ICCPR cụ thể hóa Điều 5 UDHR nêu
rõ, “khơng ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm; khơng ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa
học mà khơng có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Ngồi ra cịn được quy
định trong Công ước về chống tra tấn các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vơ
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984).
Theo Ủy ban giám sát ICCPR, mục đích của Điều 7 ICCPR là để bảo vệ cả
phẩm giá và sự bất khả xâm phạm về thể chất và tinh thần của các cá nhân. Việc
cấm tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục
phải được duy trì trong mọi tình huống, kể cả trong hồn cảnh khẩn cấp của quốc
gia.
Ủy ban cũng cho rằng, mọi hành động gây đau đớn về thể chất, tinh thần,
kể cả nhằm mục đích để giáo dục, rèn luyện một đối tượng nào đó (ví dụ trong
mơi trường giáo dục và y tế) cũng bị coi là tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo.
Tuy nhiên cần chú ý là chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục được coi là một quy phạm tập quán quôc tế (international
customary law) về nhân quyền, bởi vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có


nghĩa vụ phải tuân thủ, bất kể quốc gia đó có là thành viên của ICCPR, CAT hay
bất cứ điều ước quốc tế nào khác có liên quan hay khơng.
3. Sự tương thích

Việt Nam gia nhập Cơng ước chống tra tấn từ năm 1982, từ đó đến nay,
Việt Nam đã nỗ lực nội luật hóa các văn bản quy phạm pháp luật trong nước để
phù hợp với quy định của Công ước chống tra tấn.
Đối với pháp luật Việt Nam, quyền bảo vệ không bị tra tấn, bị đánh đập, bị
đối xử vô nhân đạo của người phạm tội được quy định tại Hiến pháp, Bộ luật dân
sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự chính là
nền tảng pháp lý để ngăn chặn và trừng trị những hành vi tra tấn, đối xử hay
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục người khác cho dù đó là người phạm
tội. Cụ thể hóa tại các điều 19, 20 Hiến pháp 2013, Điều 298; Điều 299 Bộ luật
Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009; (Điều 33, 34, 373, 374 BLHS 2015), là nền
tảng pháp lý về quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các nguyên
tắc: nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe con người (Điều 10); bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân (Điều 11). Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định về việc cấm tra tấn, truy bức, dùng
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 4 và Điều 8).
Bộ luật Hình sự khơng cụ thể hóa hết các hành vi theo khái niệm tra tấn
của Công ước mà chỉ dừng lại ở vấn đề liên quan như nhục hình, bức cung, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Hơn thế, khách thể của tội dùng nhục
hình và tội bức cung chỉ trong phạm vi điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án,
chưa bao trùm một số hoạt động như: xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội


phạm, tạm giữ, tạm giam, lấy lời khai của người làm chứng, bị hại... Đây là
những giai đoạn có thể xảy ra các hành vi tra tấn.
Trong những năm qua, cùng với tiến trình cải cách tư pháp, hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự ở nước ta đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, Tội
dùng nhục hình Điều 298 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009 (Điều 373 BLHS

2015 ) và tội bức cung Điều 299 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009,
(Điều 374 BLHS 2015) đều có dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Tình hình tội phạm
diễn biến phức tạp, số vụ án bị can khởi tố điều tra hàng năm đều tăng, tính chất
tội phạm ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt
dẫn đến áp lực công việc lớn và chạy theo thành tích cùng với ý thức năng lực
chun mơn cịn kém cùng với bất cập quy định của pháp luật như đã phân tích
trên là nguyên nhân dẫn đến án oan sai, gây ảnh hưởng đến uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật thực thi các hoạt động tư pháp.

Câu 2
Có ý kiến cho rằng: “Tính khơng thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở
chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước” theo em ý kiến
này là đúng.
Nhân quyền (human rights) là những quyền tự nhiên vốn có của con người
và khơng bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào, mọi thành viên của
nhân loại đều là chủ thể của các quyền con người và các quyền con người không
thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào.
Quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.


Trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước
ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người
như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965,
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Cơng ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Cơng ước quốc tế về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em

năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 v.v… và đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”,
đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hịa bình và tiến bộ xã hội của
toàn nhân loại. Đặc biệt trong Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm
“quyền con người” với nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị
của cá nhân con người. Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an
tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Việc tước quyền nào đó của người dân phải theo thủ tục pháp lý chặt chẽ,
chỉ cơ quan tư pháp - tịa án mới có quyền tước bỏ. Việc tước bỏ này rõ ràng k thể
thực hiện một cách tùy tiện và chỉ có cơ quan tịa án thực hiện được những phải
theo thủ tục pháp lý chặt chẽ. Bảo vệ quyền con người và vấn đề tòa án bảo vệ
cơng lý có sự liên quan mật thiết với nhau, khơng thể tách rời.
Từ những điều trên có thể khẳng định rằng quyền con người là một quyền
bất khả xâm phạm, là một quyền thiêng liêng một quyền cơ bản của mỗi công
dân, không thể tùy tiện bị tước bỏ hoặc bị hạn chế. Quyền con người đã được đề
cao ngay sau khi đất nước ta hịa bình trở lại, ngày nay đất nước ngày càng phát


triển một văn minh hơn thì đồng nghĩa với việc quyền con người cũng càng được
nâng cao lên.



×