Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận dẫn nhập triết học ấn độ đề tài PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM CARVAKA TRONG KINH PAYASI (D 23)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.17 KB, 16 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI CƯƠNG - KHĨA 15 (2020-2024)


Pháp danh: THÍCH BỔN PHÁP
Thế danh: VÕ NGỌC DƯ
MSSV: 2050000022

PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM CARVAKA TRONG KINH PAYASI (D 23)
Tiểu Luận Giữa Kì IV
Mơn: DẪN NHẬP TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ

Thành phố. Hồ Chí Minh, 04-2022

1


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI CƯƠNG - KHĨA 15 (2020-2024)


Pháp danh: THÍCH BỔN PHÁP
Thế danh: VÕ NGỌC DƯ
MSSV: 2050000022

PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM CARVAKA TRONG KINH PAYASI (D 23)
Tiểu Luận Giữa Kì I
Mơn: DẪN NHẬP TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
GVHD: NS.TS.TN. HUYỀN TÂM



Thành phố. Hồ Chí Minh, 04-2022

2


ĐIỂM

NHẬN XÉT CỦA GIÁO THỌ
….…………………………………………………………
…….………………………………………………………
……….……………………………………………………
………….…………………………………………………
…………….………………………………………………
…………….………………………………………………
…………….
………………………………………………..
…….………………………………………………………
…….………………………………………………………

3


MỤC LỤC
PHẦN A. DẪN NHẬP.........................................................................1
PHẦN B. NỘI DUNG.........................................................................2
CHƯƠNG 1. TÓM TẮT KINH PĀYĀSI.............................................2
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM DUY VẬT CỦA CĀRVĀKA.......................4
2.1. VẤN ĐỀ NHẬN THỨC LUẬN CỦA CĀRVĀKA........................4
2.2. VẤN ĐỀ SIÊU HÌNH HỌC CỦA CĀRVĀKA.............................4

2.3 VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CỦA CĀRVĀKA........................................5
CHƯƠNG 3. PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM DUY VẬT CỦA CĀRVĀKA THEO
PĀYĀSI..........................................................................................5
PHẦN C. KẾT LUẬN........................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................13

4


PHẦN A. DẪN NHẬP
Ấn Độ vào khoảng hơn 2.500 năm trước là thời điểm phát triển đỉnh cao về triết
học. Nhiều trường phái triết học phát triển trên nền tảng kinh Veda như phái Số Luận
(Sāṃkhya), Du Già Luận (Yoga), Chánh Lý Luận (Nyāya), Thắng Luận Phái (Vaiśeṣika).
Tiền Di Mạn Sai (Pūrva Mīmāṃsā), Phệ Đàn Đa (Vedānta). Nhưng cũng có những
trường phái không chấp nhận thẩm quyền của kinh điển Veda, khơng chấp nhận có Đấng
Sáng Thế, trong đó nổi bật là Thuận Thế Phái (hay còn gọi là Duy Vật Khoái Lạc –
Cārvāka), Kỳ Na Giáo (Jaina) và Phật Giáo.
Phái chủ nghĩa Duy vật Ấn Độ dường như xuất hiện từ xa xưa. Các dấu tích của
trường phái này được tìm thấy trong các Sử thi và kinh sách Phật giáo. Nó khơng mảy
may tin một chút gì về tâm linh hay nhân quả. Con người chỉ là sự cấu tạo của vật chất,
nên chết là hết. Tuy là trường phái chủ trương về duy vật, một phạm trù của vật chất,
cách hưởng thụ niềm vui của tinh thần và xác thịt, cũng như cổ xưa như bản thân của
nhân loại và hiển nhiên tồn tại với nhân loại, nhưng Chủ nghĩa duy vật là một thứ siêu
hình học chưa bao giờ gợi cảm hứng cho các nhà triết gia Ấn Độ. Kỳ na giáo và Phật
giáo xuất hiện đã ngay lập tức đưa ra nền tảng đạo lý và tinh thần để bác bỏ chủ nghĩa
duy vật. Quan điểm này được thể hiện rõ qua bài kinh Pāyāsi (kinh Tệ-túc) thuộc Trường
Bộ Kinh (D. 23). Tại sao đức Phật bác bỏ quan điểm nhận thức của Cārvāka? Phật giáo
đã phê phán quan điểm của Cārvāka như thế nào? Cũng chính vì lý do này mà người viết
chọn đề tài: “PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM CARVAKA TRONG KINH PAYASI (D 23)”
để mà nghiên cứu.

Kết cấu của đề tài, bài tiểu luận được chia làm ba phần chính bao gồm Dẫn Nhập,
Nội Dung và Kết Luận. Phần Nội Dung chia làm ba chương như sau:

Chương 1. Tóm tắt kinh pāyāsi
Chương 2. Quan điểm duy vật của cārvāka
Chương 3. Phê bình quan điểm duy vật của cārvāka theo
pāyāsi


PHẦN B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TÓM TẮT KINH PĀYĀSI
Bài kinh là cuộc đối thoại giữa tôn giả Kumāra Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) và
vương tử Pāyāsi tại rừng Simsapā (Thi-xá-bà) phía Bắc thành Setavyā (Tư-ba-ê), một đô
thị của nước Kosala.
Vương tử Pāyāsi là một người theo tư tưởng vật. Ông quan niệm rằng:

“itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ p
halaṁ vipāko”ti.1 “Khơng có đời sau, khơng có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác
khơng có quả báo”. Lần đó thấy các vị Bà-la-mơn, trưởng giả ở trong địa phân ông quản
lý lũ lượt ra khỏi thành vào rừng Simsapā để viếng thăm tôn giả Kumāra Kassapa và năm
trăm vị Tỷ-kheo vừa mới du hành đến. Ông cảm thấy khó chịu vì những Bà-la-mơn, gia
chủ ở trong tịnh ấp của ơng tin vào giáo lý của Phật. Ơng truyền lệnh đồn người dừng lại
chờ ơng đi cùng, với hy vọng trước mặt mọi người ông sẽ dùng lý luận của mình bẻ gãy
lý luận của Phật giáo, buộc tơn giả Kumāra Kassapa và mọi người có mặt phải tin luận
thuyết của mình.
Vua Pāyāsi nêu chủ trương rằng: “Khơng có đời sau, khơng có các lồi hóa sanh,
hành vi thiện ác khơng có quả báo”. Ơng có mười bốn lấn khẳng định quan điểm lập
trường của mình bằng các ví dụ minh họa xảy ra trong cuộc sống. Tuy nhiên những ví dụ
ơng đưa ra đều bị tơn giả Kumāra Kassapa đánh bại bằng mười bốn ví dụ vơ cùng thuyết
phục.

Đầu tiên, tôn giả Kumāra Kassapa đặt câu hỏi mặt trời và mặt trăng thuộc thế
giới này hay thế giới khác. Ông chấp nhận chúng thuộc thế giới khác, nhưng khơng chấp
nhận có tái sinh hay nhân quả nghiệp báo. Tơn giả Kumāra Kassapa bảo ơng đưa ra ví dụ.
Ơng đưa ra ví dụ rằng bạn ơng có những người làm các bất thiện pháp và chết; trước khi
những người bạn đó chết, ơng đến thăm và bảo họ sau khi sanh vào đọa xứ hãy đến tin
cho ông biết; khi đó, ơng sẽ tin có ln hồi, nhân quả nghiệp báo; nhưng không ai đến
báo cho ông biết; như vậy ơng kết luận khơng có ln hồi, khơng có nhân quả nghiệp
báo. Để bác bỏ tà thuyết này, tôn giả Kumāra Kassapa đưa ra ví dụ như người ăn trộm
trước khi bị xử tử hình xin về nhà thăm bà con quyến thuộc là điều không thể được.

1 />layout=sidebyside&reference=none¬es=none&highlight=true&script=latin. Truy cập ngày: 13-4-2022.

2


Cũng tương tự ví dụ trên, tiếp theo, vua Pāyāsi nói rằng những người giữ giới,
làm các thiện pháp cũng khơng ai về báo với ơng là người đó đã sanh về thiên giới. Để
phá vỡ lý luận này, tôn giả Kumāra ví dụ như người bị té vào hầm phân, được đưa ra và
tắm gội sạch sẽ, cho ở lâu đài và hưởng năm món dục thì sẽ khơng bao giờ muốn trở lại
hầm phân nữa.
Vua Pāyāsi tiếp theo lại lặp lại ví dụ trên, những người có giới đức sau khi chết
không ai về báo cho ông biết chỗ thác sanh. Ngài Kumāra Kassapa giải thích về tuổi thọ
của chư Thiên Tam Thập Tam: một trăm năm ở nhân gian bằng một ngày một đêm ở cõi
Trời 33. Sau khi nghỉ ngơi một hai ngày, xuống thăm bạn cũ thì đã chẳng cịn ai nữa.
Vua Pāyāsi lần này dùng lý luận của tôn giả Kumāra để phản công. Ông hỏi vặn
lại làm sao Ngài biết có chư Thiên ở cõi Tam Thập Tam, làm sao biết tuổi thọ ở cõi đó
như vậy. Ngài Kumāra đưa ra ví dụ như có người mù bẩm sinh khơng thể thấy được trăng
sao hay cảnh vật mà bảo rằng những vật đó khơng tồn tại là khơng đúng. Ngài giải thích
thêm rằng đời sau phải được nhìn thấy bằng thiên nhãn thanh tịnh nhờ công phu tu hành,
chứ không thể thấy bằng mắt trần.

Lần này, vua Pāyāsi phản công trực tiếp vào Tăng đồn. Ơng lý luận rằng có
những Sa-mơn, Bà-la-mơn được dạy rằng nếu họ trì giới nghiêm mật, làm các thiện pháp
thì sau khi chết sẽ được quả báo tốt đẹp hơn. Nhưng họ lại tham sống, sợ chết, không
dám tự sát để kiếp sau được cuộc sống an lạc hơn. Điều này chứng tỏ ngay bản thân họ
cũng không tin chắc rằng có kiếp sau. Để bác bỏ luận điệu sai trái này, tơn giả Kumāra
đưa ra ví dụ người phụ nữ đang mang thai, vì muốn biết cái thai là con trai hay con gái
nên đã tự mổ bụng mình, như vậy đã hại chết con và bản thân. Khơng thể tìm đời sau một
cách vơ trí như vậy.
Lần thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ 10, vua Pāyāsi đưa ra những ví dụ ơng chứng
kiến những người từ sống chuyển sang chết để tìm linh hồn nhưng không thấy. Tôn giả
Kumāru Kassapa lại năm lần bảy lượt đưa ra những ví dụ để cho thấy đó là những cách
ấu trĩ ngây thơ để tìm linh hồn. Ngài khuyên vua nên từ bỏ ác tà kiến ấy, nhưng vua
khơng từ bỏ vì sợ những người duy vật khác chê cười. Tơn giả Kumāra lại tiếp tục đưa ra
ví dụ về sự nguy hiểm của việc chấp chặt tà kiến: nghe theo người hướng dẫn sai lầm để
rồi phải bỏ mạng trên sa mạc, hoặc như người lượm phân khô đem về nhà nhưng giữa
đường bị mưa ướt lấm lem cả người. Nhưng vua vẫn khăng khăng chấp tà kiến của mình
vì sợ bị chê cười. Tơn giả Kumāra lại ví ơng như người đàn ơng ngu si, đi tìm của cải

3


nhưng cứ ôm khư khư cái túi gai đã nhặt ban đầu không chịu bỏ xuống để nhặt những thứ
đắt giá hơn mang về cho vợ con. Đến đây thì vua hoàn toàn bị thuyết phục và xin quy y
Tam Bảo.
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM DUY VẬT CỦA CĀRVĀKA
2.1. VẤN ĐỀ NHẬN THỨC LUẬN CỦA CĀRVĀKA
Học thuyết nhận thức của trường phái Cārvāka cho rằng nhận thức (pratyaksa)
chỉ là phương tiện của tri thức bền vững. Giá trị của suy luận bị bác bỏ. Suy luận có thể
xem chỉ là hành động mạo hiểm liều lĩnh.
2.2. VẤN ĐỀ SIÊU HÌNH HỌC CỦA CĀRVĀKA

Chủ nghĩa Duy vật chỉ chấp nhận cái biết qua giác quan. Họ cho rằng những gì
thấy được, nghe được, cảm nhận được bằng các giác quan mới tồn tại. Những giáo lý chủ
trương có linh hồn, nghiệp báo, nhân quả, luân hồi đều là tà thuyết, mị dân, lừa bịp quần
chúng để trục lợi. Suy luận đối với họ là khơng chắc chắn, vì họ nghi ngờ cả tiền đề. 2
Những nhà triết gia Cārvāka chỉ cấp nhận sự tồn tại của bốn thành tố: đất, nước,
lửa và khơng khí. Họ bác bỏ thành tố thứ năm: ether, bởi nó khơng thể nhận thức được
mà chỉ do suy luận. Tương tự vậy họ cũng bác bỏ sự tồn tại của linh hồn, Thượng đế và
kiếp sau. Trong kinh Pāyāsi diễn tả vua Pāyāsi đã làm nhiều cách khác nhau để quan sát
một người từ lúc sống đến lúc chết, nhưng khơng thể thấy được linh hồn thốt xác. Vì
vậy, vua kết luận khơng có linh hồn trong cơ thể con người. Chết là hết.
Vì cho rằng chết là sự chấm dứt mãi mãi một kiếp sống, nên họ khơng tin có
nhân quả nghiệp báo ln hồi. Vua Pāyāsi cũng đã thử nghiệm trước khi đưa ra chủ
thuyết của mình. Ơng u cầu những người tốt, người xấu mà quen biết với ơng lúc họ
sắp chết rằng nếu có tái sinh, hãy về báo cho ông hay. Nhưng không một ai về báo, vì thế
ơng quả quyết rằng khơng hề có nghiệp báo luân hồi.
2.3 VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CỦA CĀRVĀKA
Những người theo triết lý của Cārvāka xem khoái lạc, nhục dục là đỉnh cao của
cuộc sống. Hãy cứ ăn, uống và vui vẻ, bởi vì một khi thân xác biến thành tro bụi, sẽ
khơng có hy vọng để trở lại đây nữa. Khơng có thế giới bên kia, khơng có chuyện linh
hồn tồn tại sau khi chết.
Đạo đức theo Cārvāka là chủ nghĩa khối lạc cá nhân thơ thiển, khối lạc trong
cuộc sống, đồng thời là mục đích duy nhất của cá nhân. Trong bốn giá trị nhân bản:
2 An Introduction to Indian Philosophy, p.65-66.

4


Dharma, Artha, Kāma và Moksa, chỉ có Kāma hay khối cảm được xem là mục đích cuối
cùng. Artha hay giàu có là phương tiện để thục hiện mục đích trên. Trong khi đó, cả
Dharma và Moksa đều bị phủ nhận.

Đối với vấn đề thoát khổ, Thuận Thế Phái cho rằng khơng thể có sự thốt khổ
hồn tồn, vì vậy hãy hưởng thụ vui chơi cho thỏa thích. Cārvāka phê phán gay gắt lối tu
khổ hạnh để trả nghiệp và đạt được tâm thanh khiết của đạo Jain. Chính vì những quan
điểm đi ngược lại hoàn toàn kinh Veda và đạo đức xã hội đương thời, Cārvāka được xếp
vào loại “phi chánh thống”, là “tà đạo”.
CHƯƠNG 3. PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM DUY VẬT CỦA CĀRVĀKA THEO
PĀYĀSI
Có thể nói cuộc tranh luận giữa vua Pāyāsi và tôn giả Kumāra Kassapa là một
cuộc đối thoại không cân sức giữa một bên là tà kiến và một bên chánh kiến, giữa sai lầm
và chân lý. Vua Pāyāsi nói lên quan kiến của mình như sau: “Tơn giả Kassapa, tơi có thủ
thuyết và tri kiến như sau: ‘Khơng có đời sau, khơng có các loại hóa sanh, hành vi thiện
ác khơng có quả báo’”. Cịn tơn giả Kumāra Kassapa thì khẳng định “có đời sau, tin có
lồi hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”. Vào đầu cuộc đối thoại, tôn giả Kumāra
Kassapa đã đưa ra một câu hỏi đánh vào yếu điểm của đối phương nhằm hạ đo ván đối
thủ ngay hiệp đầu tiên. Câu hỏi đó là “Mặt trăng và mặt trời thuộc thế giới này hay thế
giới khác”. Câu hỏi này buộc vua Pāyāsi phải trả lời chúng thuộc thế giới khác, tức là
buộc vua gián tiếp thừa nhận có chúng sanh ở đó dù khơng thể thấy được họ bằng mắt
trần. Tức là vua Pāyāsi đã bị hạ đo ván ngay trong câu hỏi đầu tiên. Nhưng vua vẫn cố
gượng dùng những lí lẽ để bảo vệ lập trường của mình. Từ đây bắt đầu một cuộc đối
thoại thú vị và những ví dụ của tơn giả Kumāra Kassapa càng làm rõ hơn tính chất sai
lầm trong luận thuyết của Cārvāka.
Trước tiên, Thuận Thế Phái, mà đại diện là vua Pāyāsi ở trong kinh này, cho rằng
khơng hề có kiếp sau, khơng có địa ngục, khơng có thiên đường. Cho nên làm các ác
pháp không bị đọa địa ngục, làm các thiện pháp không được sanh lên thiên đường. Để
minh chứng cho luận thuyết này, vua đưa ra các ví dụ những người xấu mà vua quen biết
khi chết không có ai về báo cho ơng biết chỗ thác sanh, những người tốt mà vua quen biết
khi chết cũng không có người nào trở về báo tin cho ơng chỗ tái sinh. Tà thuyết này có
quá nhiều sơ hở và tôn giả Kumāra đã khai thị cho vua bằng các ví dụ vơ cùng thuyết

5



phục: làm sao một người bị xử trảm lại có thể được về nhà thăm người thân để dụ cho
người bị đọa ba đường ác không thể nào tiếp xúc được với người thế gian; làm sao một
người đã ra khỏi hầm phân hôi thối dơ bẩn lại muốn quay trở lại hầm phân để dụ cho
người đã lên cõi Trời thù thắng thì khơng muốn trở lại nhân gian dơ bẩn; và tuổi thọ của
cư dân cõi Trời dài hơn nhiều so với nhân gian, khi họ muốn nghỉ ngơi vài ba ngày ở
Thiên Đàng rồi xuống thăm lại người thân thì ở thế gian đã trải qua vài ba trăm năm nên
không thể gặp nhau được.
Quan điểm “không có kiếp sau” là hồn tồn sai lầm. Nếu một người có trí,
người ta sẽ đặt câu hỏi: Tại sao con người lại khác nhau nhiều đến như vậy? Nhất là trong
xã hội phân biệt giai cấp quá rạch ròi như Ấn Độ. Tại sao lại có người sang, kẻ hèn,
người giàu, kẻ nghèo, người đẹp, kẻ xấu, người thông minh, kẻ tối dạ...? Nó phải có một
nguyên nhân, cũng giống như bất cứ vật gì trên thế gian này cũng đều có nguyên nhân.
Chẳng hạn nguyên nhân của việc học giỏi là chăm học, nguyên nhân của việc không hạnh
phúc là do làm tổn thương người khác, nguyên nhân của giàu có là chăm làm và tiết
kiệm, nguyên nhân của cây xoài là hột xoài cùng các điều kiện cần thiết,... Đó là những
sự việc ta có thể nhìn thấy dễ dàng. Tuy nhiên, tại sao có những người sinh ra đã giàu có,
tướng mạo khả ái, giai cấp cao sang? Tại sao có những người cố gắng học nhưng không
thể nhớ được dữ liệu như người khác dù khỏe mạnh từ nhỏ, bố mẹ thơng minh?... Vậy thì
phải có một nguyên nhân trước khi người đó có mặt trên thế gian. Tức là phải có những
hành động trước kiếp này để định hình nên kiếp sống hiện tại. Điều đó có nghĩa là phải
có kiếp sống quá khứ. Ở phương Tây, người ta đã dùng đến thuật thôi miên để khiến cho
người trị liệu nhớ về kiếp quá khứ gần nhất, và các dữ liệu thu thập được xác minh là
đúng, và nhờ đó phá được nhiều vụ án giết người mà khoa học khơng thể giúp ích. Và
những hành động của kiếp này lại làm nguyên nhân định hình cho kiếp sống tương lai.
Cho nên, dù ta chưa có Thiên Nhãn Thơng, nhưng bằng sự suy luận hợp lý, ta vẫn biết
rằng kiếp sau là một điều chắc chắn cho đến khi nào ta chưa đạt tâm giải thốt và tuệ giải
thốt.
Quan điểm khơng có địa ngục, khơng có thiên đường cũng là vơ lý. Vũ trụ này là

một vũ trụ công bằng, vận hành bằng luật nhân quả bù trừ. Người ta hưởng những gì
xứng đáng với hành động và tâm của họ. Ví dụ như ở thế gian, một người phạm pháp tùy
mức độ nặng nhẹ sẽ bị xử lý theo luật thế gian, hoặc là bồi thường thiệt hại hoặc là ở tù,

6


hoặc là tử hình. Nhưng nếu một người vi phạm tội quá nghiêm trọng, giết quá nhiều
người, hoặc giết người có ân lớn với cuộc đời, thì một cái mạng của người đó khơng thể
bù lại hành động của họ. Vậy phải có một chỗ để cho họ trả nghiệp cho tương xứng, tức
là địa ngục, để họ phải bị hành hạ chết đi sống lại trăm nghìn vạn kiếp. Tương tự đối với
một người làm thiện nghiệp. Nếu vật chất thế gian không thể tương xứng với công sức
của họ bỏ ra, thì phải có một cõi tốt đẹp hơn tương ứng để họ sinh vào và hưởng thành
quả của mình, đó là các cõi trời. Một người làm thập thiện nghiệp sẽ được sinh vào cõi
Trời thuộc Dục Giới. Nhưng một người hành thiện và tu thiền định, ly dục thì sinh vào
cõi trời Sắc Giới, cao hơn là cõi trời Vơ Sắc Giới. Vì tâm họ đã ly dục, nên không tương
ứng với cõi Trời Dục Giới. Nếu họ khơng cịn chấp thủ điều gì nữa, họ sẽ vượt ra ngồi
ba cõi, an trú Niết Bàn, khơng cịn tái sinh nữa. Cũng ví như ở thế gian, những người có
khả năng tài chính, sở thích và cá tính giống nhau thường tụ hội với nhau. Một người
khơng có thói quen nói tục chửi thề sẽ khơng thể sống ở khu có nhiều người nói tục chửi
thề. Một người cao sang giàu có khơng sống được trong khu ổ chuột bẩn thỉu.
Niềm tin khơng có kiếp sau, khơng có địa ngục, khơng có thiên đường là một tà
kiến hết sức nguy hiểm. Nếu một người khơng tin có địa ngục, không sợ nhân quả, họ sẽ
không ngại làm điều xấu ác đối với súc sinh, người thân, bạn bè, đồng nghiệp, đối với đất
nước khác, gây oan trái đau khổ cho tha nhân, làm rối loạn trật tự xã hội. Nếu khơng tin
có thiên đường, người ta sẽ khơng tích cực giúp đỡ tha nhân, người ta ngó lơ trước sự đau
khổ của kẻ khác, xã hội sẽ khơng có sự tương thân tương ái, cuộc sống sẽ kém ý nghĩa,
thế giới lồi người sẽ khơng thể tiến bộ. Nếu một thế giới mà tất cả mọi người trong đó
đều sống vì sự lợi ích của bản thân bất chấp sự đau khổ của kẻ khác, luôn đấu tranh giành
giật chém giết đẫm máu, thế giới sẽ sớm đi vào bờ diệt vong. Đó là chưa kể những quả

báo xấu người ta phải gánh chịu trong những kiếp sau trong vịng ln hồi.
Quan điểm khơng có kiếp sau, chết là hết, thiện ác khơng có quả báo này khơng
phải ngày xưa mới có, mà ngày nay cũng rất phổ biến. Nó phổ biến trong những người
theo chủ nghĩa vô thần, chạy theo vật chất, tôn sùng khoa học trên khắp thế giới. Đó có
thể là những người xung quanh chúng ta. Do khơng tin thiện ác có quả báo và chạy theo
việc hưởng thụ dục lạc vật chất nên cái xấu ác đang ngày càng lan tràn, chiêu cảm ngày
càng nhiều thiên tai, dịch bệnh... làm con người khốn đốn, đau khổ hơn bao giờ hết. Bằng

7


chứng là dịch Covid-19 đã hoành hành một năm qua mà chưa có dấu hiệu chấm dứt,
cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới.
Sau đó, vua Pāyāsi lại dùng lí lẽ của ngài Kumāra để bẻ ngược lại bằng cách hỏi
làm sao biết được có cư dân cõi Trời và biết tuổi thọ của họ như vậy. Với lý luận này,
ngài Kumāra Kassapa đưa ra ví dụ người mù bẩm sinh khơng thấy được trăng sao, khơng
có nghĩa là trăng sao khơng có. Người mù dụ cho người cịn vơ minh vọng kiến, bị thân
ngũ uẩn giới hạn cái thấy biết. Cịn người hết vơ minh, có được thiên nhãn, thì thấy được
những điều vượt xa thế giới này. Muốn hết vô minh, đạt thiên nhãn thanh tịnh thì phải tu
tập ly dục. Đây cũng là một gợi ý cho vua Pāyāsi: nếu vua muốn biết như các vị Thánh
thì hãy tu như họ.
Tiếp theo đó, vua Pāyāsi lại ngoan cố khẳng định lập trường khơng có kiếp sau
của mình bằng một ví dụ hết sức vơ lý, và đồng thời tiến thêm một bậc là công kích trực
diện vào giới tu sĩ. Vua lập luận rằng những Bà-la-mơn, Sa-mơn trì giới thanh tịnh, tu
hành nghiêm chỉnh, nhưng lại khơng dám tự sát để giải thốt kiếp này, để được kiếp sau
an lạc hơn. Lý luận này gián tiếp chỉ trích rằng ngay cả bản thân những tu sĩ cùng khơng
thật sự tin có kiếp sau, có địa ngục và thiên đường. Lý luận ngây ngô của vua Pāyāsi
được tơn giả Kumāra phản bác bằng một ví dụ có tính thuyết phục vơ cùng cao. Ngài ví
như có người mẹ đang có thai, khơng thể chờ đến ngày sinh nở để xem con mình là trai
hay gái nên đã mổ bụng mình để xem. Thật sự trên đời khơng có người mẹ nào lại dại dột

hại con và hại mình như vậy. Và ví dụ của vua Pāyāsi đưa ra cũng vô lý tương tự như
vậy. Những người tu hành thanh tịnh, có trí khơng ai lại tự kết liễu đời mình để được một
kiếp sau sung sướng chưa có. Mặt khác sự sống của họ đem lại lợi ích cho chúng sinh,
chư Thiên và lồi người. Ví dụ vơ lý của vua Pāyāsi chứng tỏ sự đuối lý của mình. Ơng
đã thấy sự bất hợp lý trong nhận thức của mình, song vẫn cố gắng cãi cho đến cùng.
Sau khi hoàn toàn bị đánh bại bới lý luận có kiếp sau, có quả báo, có luân hồi của
Ngài Kumāra Kassapa, vua Pāyāsi tiếp tục chuyển đề tài về linh hồn. Ơng phản bác lý
luận có linh hồn bằng nhiều ví dụ, tựu trung là do ơng khơng nhìn thấy linh hồn nên nó
khơng tồn tại. Đây cũng là một lập luận ngây thơ hay nói đúng hơn là thiếu trí tuệ của
chủ nghĩa duy vật. Để phản bác lập luận này, tôn giả Kumāra Kassapa đã phương tiện
đưa ra những ví dụ như đập đánh cái tù và để tìm tiếng, chẻ cái đồ quay lửa để tìm lửa.
Những ví dụ tìm linh hồn mà vua đưa ra thật là ngây thơ, ấu trĩ, kém trí tuệ. Không phải

8


cái gì mình khơng thấy là khơng tồn tại. Như ngày nay, khoa học phát triển đã biết sự tồn
tại của các loại sóng, từ trường, dù chúng khơng có hình tướng gì cả. Cho nên, khơng
phải là cái gì mình khơng thấy được là khơng tồn tại. Suy rộng ra, nếu đánh giá sự việc
chỉ hoàn toàn dựa trên sự nhận biết của các giác quan là phiến diện, thiếu chính xác.
Linh hồn mà vua Pāyāsi đề cập, trong Phật giáo gọi là Thức. Một con người
muốn tồn tại được, ngoài thân vật lý cấu tạo bởi bốn chất “đất, nước, gió, lửa” hay cịn
gọi là chất rắn, chất lỏng, khí, hơi ấm, người đó cần có Thức và một điều kiện nữa là thọ
mạng còn. Cũng giống như bóng đèn điện, nếu khơng có điện thì nó khơng thể phát sáng.
Tới đây, vua Pāyāsi đã bị thuyết phục, nhưng ơng khơng muốn từ bỏ tà kiến ấy vì
sợ người đồng quan điểm chê cười. Tôn giả Kumāra lại phải ba phen đưa ra ví dụ cho
thấy sự kém trí tuệ của vua khi đã thấy rõ những điều ông tin tưởng là sai lầm mà không
chịu buông bỏ. Nếu một người biết hướng thượng, họ sẽ sẵn sàng từ bỏ những sai lầm cũ
để tiếp nhận chân lý, để bản thân khơng bị tổn hại và lại cịn đem lại lợi ích cho người
xung quanh, như người lãnh đạo thơng minh đã dẫn đồn người qua sa mạc an tồn và

như người biết bỏ lại những gì khơng đáng giá và mang về nhà những thứ quý giá. Bằng
những ví dụ khéo léo và hết sức thuyết phục, tôn giả Kumāra Kassapa đã đưa một người
mang tư tưởng sai lầm trở về với chánh kiến.
Từ bài kinh Pāyāsi, ta thấy rằng những lý luận được xuất phát từ một bậc Thánh
có trí tuệ giải thốt là vơ cùng hợp lý và thuyết phục. Cho rằng rằng cái gì khơng thấy
được, khơng sờ được thì khơng có, khơng tồn tại là kết luận vội vàng và chủ quan. Do sự
hạn chế của ngũ uẩn, con mắt chỉ cho phép nhìn thấy những gì thuộc thế giới vật lý.
Những gì thuộc ngoài thế giới vật lý phải cần con mắt tuệ để biết. Con mắt tuệ đó chỉ có
thể thành tựu bằng sự tu hành chân chính: từ chối dục lạc thế gian, ly tham, ly dục để đạt
sự tịch tịnh vi diệu siêu thoát. Trong bài kinh Saleyyaka (M.41), Đức Phật, đấng Đại
Giác, cho biết người nào hành phi pháp thì khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; người nào hành đúng pháp thì sau khi thân hoại mạng chung
được sanh thiện thú, Thiên giới.
Nhưng dù có hay khơng có kiếp sau, khôn ngoan nhất là hành động theo đạo đức.
Trong bài kinh Apannaka (M.60), Đức Phật đã phê phán quan điểm duy vật này bằng
cách đưa ra hai trường hợp: (1) phủ nhận nghiệp báo và tái sinh, (2) chấp nhận nghiệp
báo và tái sinh. Ở trường hợp (1), những ai phủ nhận nghiệp và tái sinh thì sẽ từ bỏ ba

9


thiện nghiệp và thực hành ba ác nghiệp vì họ không thấy sự nguy hiểm, hạ liệt, cấu uế
của các bất thiện pháp và khơng thấy sự lợi ích và thanh tịnh của các thiện pháp. Sau khi
thân hoại mạng chung sẽ bị đọa ba đường ác. Dù không biết có đời sau hay khơng, nhưng
khi chấp chặt tà kiến này, hiện tại sẽ bị người trí quở trách. Cịn nếu có đời sau, thì trong
hiện tại bị quở trách, và sau khi chết sẽ bị đọa lạc. Ở trường hợp (2), những ai tin có nhân
quả luân hồi sẽ thực hành thiện nghiệp vì họ thấy sự nguy hiểm của bất thiện pháp và lợi
ích của thiện pháp. Dù có hay khơng sự tái sinh, nhưng khi tin có luân hồi và thực hành
thiện nghiệp, hiện tại họ sẽ được người trí tán thán. Nhưng nếu có sự tái sinh, họ sẽ được
người trí khen ngợi ngay trong hiện tại và sau khi chết sẽ được sanh cõi lành. Do vậy, dù

có hay khơng có nhân quả và ln hồi, tốt hơn hết nên chấp nhận rằng nhân quả nghiệp
báo là có thật, sống có trách nhiệm với bản thân, lợi lạc cho tha nhân và bản thân có cuộc
sống an lạc.
Cārvāka quan niệm khơng có sự thốt khổ hồn tồn và khuyến khích lối sống
hưởng lạc vật chất. Quan niệm này là một sự nguy hiểm cho bản thân người hưởng thụ và
cho môi trường sống. Con người nếu không biết tu tập trở về với nội tâm thanh tịnh, năng
lượng phân tán nhiều trong sự hưởng thụ dục lạc sẽ hao mòn hết năng lượng sống. Chúng
ta không thiếu những bằng chứng về các vị vua hưởng thụ quá độ mà phải chết trẻ vì
bệnh tật như Vua Quỷ, Vua Lợn ở Việt Nam, hay những người đã đẩy cuộc đời mình vào
cái chết trẻ do hưởng thụ chất kích thích heroin... Những người đó say đắm trong dục lạc
để tìm hạnh phúc tạm bợ, rồi lại chết vì dục lạc. Vì vậy, Đức Phật dạy thiểu dục tri túc.
Hơn nữa, Phật ví người hưởng dục lạc như khát mà uống nước muối, càng uống càng
khát, không bao giờ thỏa mãn đủ. Chỉ có con đường ly dục mới đạt được an lạc tuyệt đối.
Về vấn đề môi sinh, ngày nay chúng ta đang hứng chịu những biến động lớn của thiên
nhiên đe dọa đến sinh mạng và sức khỏe của con người. Đó là kết quả của việc hưởng thụ
vật chất quá nhiều, gây ra môi trường ô nhiễm, bão tố, lũ lụt, hạn hán, động đất, sóng
thần, dịch bệnh... Lời dạy “thiểu dục tri túc” của Đức Phật cách đây hơn 2.500 năm được
khẳng định lại giá trị chân lý của nó: Lối sống hưởng thụ dục lạc sẽ ảnh hưởng xấu tới
bản thân và tha nhân.

10


PHẦN C. KẾT LUẬN
Trường phái triết học Chủ nghĩa Duy vật Khối lạc Cārvāka khơng cịn tồn tại đến
ngày nay. Tư tưởng của trường phái này được phản ánh trong các bản kinh Nikāya của
Phật giáo hay trong các bản kinh Veda. Tuy nhiên, từ những bài kinh hiếm hoi đề cập đến
Chủ nghĩa Duy vật Khối lạc, ta có thể thấy sơ lược quan kiến của họ: Họ không tin có
đời sau, khơng tin có nhân quả, họ chỉ tin những gì mắt thấy được, tai nghe được. Vì
khơng tin có nghiệp báo luân hồi, chết là hết, nên họ chủ trương hưởng thụ dục lạc. Quan

điểm này hết sức nguy hiểm và đã được Phật giáo phê phán, chỉ rõ những nguy hại của
nó, đó phạm các ác nghiệp và sẽ đọa lạc trong ba đường ác. Một người trần mắt thịt
khơng thể thấy được những gì vượt ngồi vật chất, cho nên dù có hay khơng có nhân quả,
nghiệp báo, luân hồi, tốt hơn hết là nên tin nó có thật để có đời sống hướng thượng, tốt
đẹp cho bản thân và xã hội, tức là từ bỏ ba ác nghiệp của thân khẩu ý, thực hành ba thiện
nghiệp, sống thiểu dục tri túc.
Dù trường phái Cārvāka khơng cịn tồn tại trên đất Ấn Độ, nhưng chủ nghĩa vô
thần, tôn sùng vật chất đang lan tràn trên thế giới ngày nay, từ cuộc cách mạng công
nghiệp vào khoảng thế kỷ XVII. Lối sống tôn sùng vật chất đã mang đến những hệ lụy
khủng khiếp cho loài người: thời tiết cực đoan, thiên tai, hạn hán, động đất, sóng thần,
bão lụt, dịch bệnh... Nếu con người cịn tiếp tục hưởng thụ vơ độ, phá hoại thiên nhiên,
thì thiên nhiên sẽ vẫn còn tiếp tục nổi giận và trả thù con người thảm khốc. Vì vậy, để có
đời sống an ổn, cả thế giới nên sống theo lời Phật dạy: thiểu dục, tri túc.
Làm sao để có thể sống thiểu dục tri túc? Đó là chủ đề của một bài khác sẽ được
trình bày sau.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu sách:
1. Hịa Thượng Thích Minh Châu dịch, 2018, Kinh Trường Bộ, 23. Kinh Pāyāsi , Hà
Nội: NXB Tơn Giáo.
2. Hịa Thượng Thích Minh Châu dịch, 2018, Kinh Trung Bộ, 41. Kinh Saleyyaka,
Hà Nội: NXB Tơn Giáo.
3. Hịa Thượng Thích Minh Châu dịch, 2018, Kinh Trung Bộ, 60. Kinh Apannaka,
Hà Nội: NXB Tôn Giáo.
4. Satishchandra C. & Dheerendramohan D., 1948, An Introduction to Indian
Philosophy, India: Calcutta University Press.

2. Tài liệu web:
1. />
layout=sidebyside&reference=none¬es=none&highlight=true&script=latin.



×