Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN cơ sở triết học và cơ sở thực tiễn của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.22 KB, 21 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: CƠ SỞ TRIẾT HỌC VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐƯỜNG
LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Những vấn đề lý luận chung về kinh tế nhiều
1.
thành phần ở Việt Nam
Cơ sở triết học của đường lối phát triển kinh tế nhiều
2.
thành phần ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về các thành phần kinh
2.1.
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu và chủ trương phát
2.2.


3.

1
2
2
5
5

triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Cơ sở thực tiễn rút ra từ cải tổ, cải cách của các nước

xã hội chủ nghĩa trên thế giới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

8
11
18
19


MỞ ĐẦU
Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam từ năm 1986 đến
nay là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu chi phối các hoạt động tư
tưởng, lý luận của chúng ta hiện nay. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay có
thể phát triển theo hai khả năng: đó là phát triển đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa và chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó hồn toàn phụ thuộc vào nhân
tố chủ quan của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Bên cạnh đó cịn khơng ít
người băn khoăn, nghi ngờ về khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta khi
chúng ta thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác, các thế lực
thù địch và bọn phản động ln tìm mọi cách chống phá chúng ta trên mặt trận
tư tưởng với mục tiêu là xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở
nước ta bằng các luận điệu như: kinh tế thị trường thì khơng thể đi cùng chủ
nghĩa xã hội; kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản; chế
độ chúng ta là chế độ xã hội chủ nghĩa thì khơng cần phải định hướng xã hội chủ
nghĩa… tất cả những quan điểm trên đều là những luận điệu sai trái, phản khoa
học mà chúng ta cần phải đấu tranh, bác bỏ. Thực tiễn đường lối phát triển kinh
tế nhiều thành phần ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay là dựa trên cơ sở triết học
và cơ sở thực tiễn khoa học, không phải ý muốn chủ quan của Đảng ta. Do đó,
nghiên cứu vấn đề “Cơ sở triết học và cơ sở thực tiễn của đường lối phát triển
kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay” làm đề tài tiểu
luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3


NỘI DUNG
1. Những vấn đề lý luận chung về kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ, luôn vận động, phát triển theo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất.

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản
xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với
nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia
đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư
bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ cơng hữu) với các hình thức sở hữu
như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời cịn có hình
thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong
cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Nền
kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần:
kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:
Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí,
vai trị then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà
nước (được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho
các doanh nghiệp nhà nước thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo doanh
nghiệp nhà nước được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo
cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong những
ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng,
an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy
hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
4


cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
theo quy định của pháp luật. Bảo đảm cơng khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt
hàng cho doanh nghiệp nhà nước sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng

đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng qn sự, quốc phịng. Nhà nước chỉ
đóng vai trị là “nhạc trưởng”, “bà đỡ”, quản lý vĩ mơ nền kinh tế, chứ không
can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về kết quả
sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ
hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên
tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà
nước tại doanh nghiệp...
Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh
doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư
bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể
(hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang
trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản
trong nước và tư bản ngoài nước), tập đồn tư bản. Ngày nay, phân cơng lao
động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp khơng cần quy mơ
lớn vẫn có thể áp dụng cơng nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ
kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết
nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm, mà
không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm.

5


Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà
nước theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở
hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân

trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài;
giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư
nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển
mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo
mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự
lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và
mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là
công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích
hình thành các tập đồn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản
xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức
sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vơ hình
của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các
chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu
được hưởng lợi ích khi cơng ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu
quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp.
Ngồi tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, cịn có các tài sản từ các nguồn khác
(được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích
lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các
tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và
bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh
nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử
dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi
ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng
buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý
sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất 6


kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các
tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, cơng ty trách

nhiệm hữu hạn, có quy mơ nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành
phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn
của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt
động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã
của những công nhân văn minh là hợp tác xã xã hội chủ nghĩa (ở nước ta chưa
có loại hình hợp tác xã này), còn hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn
tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một loại hình kinh tế hỗn hợp...
Các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân
thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành
phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với
nhau. Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau và gần
tương đương nhau; nhưng thành phần kinh tế công với các doanh nghiệp nhà
nước “tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan
trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành
phần khác không đầu tư”, thì thành phần kinh tế cơng giữ vị trí, vai trị then
chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế cơng cùng với kinh tế tư
nhân là nịng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp
luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp
vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Cơ sở triết học của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam từ năm 1986 đến nay
2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
7


Khi nghiên cứu sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội,

chủ nghĩa Mác - Lênin ln khẳng định ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội, ngoài
quan hệ sản xuất thống trị, điển hình cũng cịn tồn tại những quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần suy đến cùng là do
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi xem xét tiến trình vận động của lịch sử xã hội loài
người, đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kết luận: Sự chuyển biến từ hình thức sở hữu này tới một hình
thức sở hữu khác cao hơn bao giờ cũng phải dựa trên sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
C.Mác cho rằng: “Không một xã hội nào lại diệt vong khi tất cả những lực
lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn còn
chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới cao hơn không bao giờ xuất hiện
khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó cịn chưa chín muồi
trong lịng bản thân xã hội cũ [1, tr.15- 16].
Một hình thức kinh tế khơng bao giờ mất đi trước khi quan hệ sản xuất của
nó vẫn cịn tác dụng. Nền kinh tế nhiều thành phần không phải tồn tại tự nó, mà nó
thường xuyên biến đổi, tác động qua lại với nhau. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều kết cấu kinh tế khác nhau, khơng phải chỉ có kết cấu
kinh tế xã hội chủ nghĩa mà cịn có kết cấu kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Một trong những đặc trưng nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được V.I.Lênin đề cập trong các tác phẩm: Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và
tính tiểu tư sản (1918), Bàn về thuế lương thực (1921) và nhiều tác phẩm khác
đó là sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế tồn tại đan
xen với nhau trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tương ứng với các
thành phần kinh tế đó là các chế độ sở hữu và với những trình độ tổ chức sản
xuất khác nhau. Điều mà V.I.Lênin lưu ý là, Nhà nước với tên gọi là Nhà nước
xã hội chủ nghĩa là để xác định phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội chứ
chưa có nghĩa là nền kinh tế đó đã là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cần phải biết sử dụng thành phần kinh tế tư bản nhà nước, tư bản tư
8



nhân để phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế, thực
hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin đã chỉ rõ sự cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng cần phải biết sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần
kinh tế khác: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ
nghĩa xã hội, không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt
tình do cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng
sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế.
Nếu khơng, các đồng chí sẽ khơng tiến đến chủ nghĩa cộng sản được; nếu
khơng, các đồng chí sẽ không dẫn được hàng chục và hàng chục triệu người đến
chủ nghĩa cộng sản” [5, tr.189].
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phải trải qua
những chặng đường, những bước đi cụ thể, nhiều bước quá độ ngắn, ở đó chưa
thể có ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được, do vậy địi hỏi phải sử dụng
một cách có hiệu quả các thành phần kinh tế phi chủ nghĩa xã hội. Năm 1918,
V.I.Lênin đã từng giả định thời hạn của thời kỳ quá độ. Năm 1921, trong tác
phẩm Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin viết: “Những điều trên đây viết năm
1918, có một loạt sai lầm về thời hạn. Các thời hạn đều dài hơn như đã giả định
hồi đó. Điều đó khơng có gì là lạ” [6, tr.189]. Chính thực tiễn đã điều chỉnh nhận
thức về thời hạn về các chặng đường của thời kỳ quá độ.
V.I.Lênin đã chứng minh tính hiện thực của bước quá độ từ chủ ngfhiax tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. “Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng
chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta lại chia
ra nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng
ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính
sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ” [6,

tr.119- 120].
9


Sự khéo léo trong chính sách, theo V.I.Lênin đó chính là cần thiết phải sử
dụng một cách có hiệu quả các thành phần kinh tế phi chủ nghĩa xã hội để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin viết: “Danh từ quá độ
có nghĩa là gì? vận dụng nó vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội không? bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [5, tr.248]. Luận
điểm trên cho thấy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tồn tại
nền kinh tế đa thành phần. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nghiên
cứu thực tiễn nền kinh tế của nước Nga lúc bấy giờ, V.I.Lênin đã xác định đó là
nền kinh tế khơng thuần nhất, ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen và
tác động lẫn nhau, đó là những yếu tố của 5 thành phần kinh tế xã hội khác nhau
là kinh tế gia trưởng, tiểu sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ
nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu và chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln hướng tới
mục đích là đất nước được độc lập, nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Để
đạt được mục đích đó chỉ có thể dưới chủ nghĩa xã hội. Như vậy, Hồ Chí Minh
ln gắn tiền đề kinh tế với tiền đề chính trị, trong đó tiền đề kinh tế có ý nghĩa
quyết định, tiền đề chính trị sẽ định hướng phát triển kinh tế đúng mục tiêu và
con đường mà chính trị đã đặt ra. Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
người chỉ rõ: Muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây
dựng con người mới xã hội chủ nghãi. Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
xã hội xã hội chủ nghãi là cả một quá trình lâu dài, đầy gian nan, vất vả đòi hỏi
mọi người dân Việt Nam phải đem hết khả năng của mình để cống hiến cho sự

nghiệp cách mạng. Cách mạng tháng Tám thành công, chúng ta đã giành được
chính quyền về tay nhân dân, song đất nước gặp mn vàn khó khăn, giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm hoành hành… Để thực hiện được mục tiêu chính trị,
bảo vệ chính quyền cách mạng, từng bước khắc phục khó khăn để xây dựng
10


chính quyền nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên tư tưởng xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần với tư cách là xây dựng nền dân chủ nhân dân phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát
huy mọi tiềm năng, mọi thành phần của đất nước cho công cuộc kháng chiến.
Nhận thức rõ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để
thực hiện xây dựng nền kinh tế trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là
lương thực, thực phẩm cho kháng chiến, Hồ Chí Minh xác định nước ta phải
phát triển 6 thành phần kinh tế khác nhau đó là: “kinh tế địa chủ phong kiến bóc
lột địa tơ; kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa; kinh tế hợp tác xã
tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông thơn, có tính chất nửa xã
hội chủ nghĩa; kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư
bản của tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia” [3, tr.221]. Không những chỉ ra 6
thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh cịn nói rõ xu hướng phát triển của các
thành phần kinh tế đó. Mặc dù thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa
tô là thành phần kinh tế đã lỗi thời, nhưng để thực hiện chính sách đại đồn kết
dân tộc, thu hút số địa chủ vừa và nhỏ tham gia kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ
trương chỉ thực hiện chế độ giảm tô, giảm tức nhằm hạn chế dần sự bóc lột và
tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến.
Trong các thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh
tế quốc doanh tồn tại ở các cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Đây là
thành phần kinh tế mới ra đời trong chế độ dân chủ mới. Theo Hồ Chí Minh:
“Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới, cho nên chúng ta

phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó” [3, tr.221].
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, theo Hồ Chí Minh là thành phần kinh
tế của giai cấp tư sản dân tộc, mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột giai cấp cơng
nhân, nhưng họ cũng góp phần vào phát triển kinh tế, góp cơng, góp của cho
cuộc kháng chiến. Người khẳng định: “ Là giai cấp tư sản khơng dính líu với đế
quốc, hoặc dính líu rất ít. Một mặt thì họ bị đế quốc và phong kiến ngăn trở, cho
nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong kiến. Nhưng mặt khác, họ là giai cấp
11


bóc lột, cho nên họ cũng sợ giai cấp bị bóc lột nổi lên đấu tranh. Vả lại về mặt
kinh tế, họ cịn dính líu ít nhiều với địa chủ phong kiến, cho nên đối với việc cải
cách ruộng đất, họ cịn do dự. Do đó mà tư sản dân tộc vừa muốn cách mạng
vừa muốn thoả hiệp. Bởi vậy, giai cấp cơng nhân cần phải vừa đồn kết với họ,
vừa đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của cơng nhân. Có như vậy, giai cấp tư
sản dân tộc mới phát triển được tác dụng cách mạng của họ, và phát triển kinh tế
của họ [3, tr.214- 215].
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, quan điểm
nhất quán của Hồ Chí Minh là: Chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Nhưng họ
phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa
số nhân dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (xuất bản năm 1953), Người
cho rằng: “Nhà tư bản thì khơng khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ
bóc lột cơng nhân q tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp cơng
nhân” [4, tr.222]. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa nhà tư bản trong xã hội
tư bản với nhà tư bản trong chế độ dân chủ mới và cũng là sự hướng dẫn cần
thiết đối với thành phần kinh tế này. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “vì lợi ích lâu dài, anh
chị em thợ cũng để cho chủ được một số hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ
và thợ đều tự giác tự động tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” [4, tr. 222].
Thực tiễn đất nước ta ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước non trẻ
của ta vừa phải kháng chiến chống thù trong, giặc ngoài, vừa tiến hành “kiến

quốc”, nhờ huy động được mọi thành phần kinh tế, chúng ta đã phá được chính
sách bao vây kinh tế của địch, bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân, phục vụ kịp
thời cho kháng chiến, đồng thời cũng đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng
Việt Nam là xây dựng chế độ dân chủ mới theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng chủ
trương cải tạo hồ bình đối với cơng thương nghiệp tư bản tư doanh. Khi chế độ
dân chủ mới ra đời và phát triển thì thành phần kinh tế địa chủ phong kiến sẽ bị
thủ tiêu. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng trong chế độ mới cịn sự tồn tại của 5
thành phần kinh tế khác nhau đó là: “Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã
hội vì nó là của chung của nhân dân); các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội
12


và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội); kinh tế cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ (có
thể tiến dần vào hợp tác xã tức là nửa chủ nghĩa xã hội); kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh). Trong năm loại ấy, kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển
mau hơn cả. Cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội
chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản [4, tr.248].
Như vậy, các nhà kinh điển Mác- Lênin và Hồ Chí Minh đã khẳng định
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu còn tồn tại kết cấu kinh tế
nhiều thành phần, đó là thực tế khách quan. Vấn đề đặt ra là phải có chủ trương,
chính sách đúng đắn vừa phát huy được vai trò của kinh tế xã hội chủ nghĩa, vừa
phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế phi xxa hội chủ
nghĩa, khắc phục những hạn chế, tiêu cực, từng bước dẫn dắt các thành phần
kinh tế đó vận động theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận kinh tế
nhiều thành phần là phủ nhận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Cơ sở thực tiễn rút ra từ cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ
nghĩa trên thế giới
Bước vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều biến động

báo hiệu một cuộc khủng hoảng mang tính tồn cầu. Mở đầu là cuộc khủng
hoảng năng lượng năm 1973 đặt ra cho nhân loại những vấn đề bức thiết cần
phải giải quyết (bùng nổ dân số, hiểm hoạ môi trường, tài nguyên cạn kiệt…).
Những biến động này đã tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, dân tộc. Để thích
nghi với điều kiện đó, hàng loạt các quốc gia đã từng bước điều chỉnh các chính
sách về đối nội, đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh đó, Liên Xô đã tiến hành công cuộc cải tổ nhằm đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng. Tại Đại hội lần thứ 27 Đảng Cộng sản Liên Xơ,
Tổng bí thư M.Goocbachop đưa ra chủ trương cải tổ với đường lối “đẩy mạnh
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (chiến lược tăng tốc). Chiến lược này
rất được người dân kỳ vọng, nó có thể đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng
hoảng và xây dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân văn đúng như bản chất
của nó.
13


Tuy nhiên, trong q trình cải tổ, do khơng lường hết khó khăn, thiếu sự
chuẩn bị chu đáo, máy móc, giáo điều trong việc vận dụng các quy luật khách
quan…do đó, cơng cuộc cải tổ đi vào bế tắc, hậu quả là nền kinh tế tụt hậu. Năm
1989, tổng sản phẩm quốc dân giảm 4- 5%, năng suất lao động xã hội giảm
2,5%, sản xuất trong nước trì trệ… Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Liên Xơ
vội chuyển sang cải tổ chính trị theo hướng cực đoan, chấp nhận chế độ đa đảng,
thiết lập chế độ tổng thống (1990) dẫn đến nội bộ Đảng Cộng sản chia rẽ, các
thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội ngóc đầu dậy, một số nước cộng hồ địi li
khai. Đất nước rơi vào khủng hoảng tồn diện, cơng cuộc cải tổ bị trượt ra khỏi
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, từ đó dẫn đến sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô.
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô là do một loạt các nguyên
nhân và yếu tố: bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, chủ quan và khách
quan, quá khứ và hiện tại… Tuy nhiên, xét trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta có thể

nhận thấy những sai lầm trong việc vận dụng các quy luật kinh tế trong quá trình
cải tổ.
Quá trình cải tổ, cải cách thường lấy yếu tố kinh tế để phục vụ cho chính
trị. Nhưng từ năm 1988, Liên Xơ đã dùng chính trị phục vụ kinh tế. Sự đảo lộn
đó đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Mục tiêu và phương tiện đã bị đánh
đồng không thể phân biệt được.
Từ chỗ coi nhẹ hoặc phủ nhận kinh tế thị trường chuyển sang nhấn mạnh
và mong muốn nhanh chóng thiết lập cơ chế thị trường mà khơng có định hướng
xã hội chủ nghĩa rõ ràng, khơng có bước đi đồng bộ, cơ chế cũ bị xố bỏ trong
khi cơ chế mới chưa được hình thành. Trong những năm 1990- 1991, Liên Xơ
rơi vào tình trạng rối ren. Trong thời kỳ “chữa cháy” này, Liên Xô đề ra “kế
hoạch 500 ngày” với hy vọng chuyển nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường trong 500 ngày. Xét về mọi khía cạnh, đó là một điều không
tưởng. Lúc này Liên Xô đã kiệt quệ về nhiều mặt. Trước đó, Liên Xơ đã tiến
hành khai thác vô tội vạ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Giữa những năm 80, cuộc
chạy đua vũ trang của Liên Xô đã tiêu hao tài lực, vật lực của bản thân một
14


cường quốc nhất nhì thế giới. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tự
do, Nhà nước đã không quản lý được sự vận động, phát triển của nền kinh tế,
q trình tư nhân hố diễn ra một cách ồ ạt, thị trường giá cả được thả nổi, cạnh
tranh một cách tự do cá lớn nuốt cá bé, kinh tế nhà nước khơng cịn giữ được
vai trị chủ đạo của nền kinh tế.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, là quá trình phát triển
và hoàn thiện từng bước với những khúc quanh co của lịch sử, không thể đốt
cháy giai đoạn. Chủ nghĩa tư bản đã trải qua hàng trăm năm để có thể tích luỹ
lâu dài. Và cho đến nay nó vẫn tiếp tục điều chỉnh để tồn tại, phát triển, thích
nghi với những điều kiện trong tình hình mới. Để vượt qua chủ nghĩa tư bản, cần
tiếp thu những thành quả công nghệ tiên tiến của nó. Trong khi xây dựng chủ

nghĩa xã hội cần lấy phát triển sức sản xuất làm nhiệm vụ trọng tâm thì Liên Xơ
chỉ chú trọng đến sự thay đổi về quan hệ sản xuất nên sức sản xuất xã hội phát
triển chậm chạp. Trong khi các nước tư bản phát triển chuyển mạnh sang nền
kinh tế theo chiều sâu, đã có một vị trí khá xa về trình độ phát triển thì Liên Xơ
chủ yếu đầu tư phát triển chiều rộng, dựa vào xuất khẩu tài nguyên, khai thác
nguồn lực đất nước một cách vô độ. Do vậy, chính ngay tại đất nước có nguồn
tài ngun khống sản và nhiên liệu - năng lượng có quy mô lớn, tiềm năng vô
tận, lại thiếu thốn trầm trọng các nguồn lực đó do sử dụng lãng phí, khơng hiệu
quả. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã mắc phải bệnh chủ quan, duy ý chí,
xem thường các quy luật khách quan, sử dụng các chính sách kinh tế không phù
hợp với điều kiện thực tế của đất nước, đặc biệt trong việc mở rộng thị trường tự
do một cách ồ ạt, thiếu sự quản lý của nhà nước, vai trị chủ đạo của kinh tế nhà
nước khơng cịn. Điều đó đã đóng góp một phần khơng nhỏ cho sự tan rã chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô cũng như các nước xã hội chủ nghĩaở Đông Âu là
sự sụp đổ của một thể chế chính trị- xã hội, một mơ hình chủ nghĩa xã hội cứng
nhắc, chứ không phải là sự xụp đổ của hình thái kinh tế chủ nghĩa cộng sản,
không phải là dấu chấm hết của chủ nghĩa cộng sản, là “sự kết thúc của lịch sử”
như ai đó đã lầm tưởng và mong muốn.
15


Trong bối cảnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa, tại Hội nghị Trung
ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (12-1978) đã quyết định cải
cách và mở cửa nền kinh tế. Đây là cuộc cải cách lớn, toàn diện về kinh tế, từ tư
duy lý luận đến hoạt động thực tiễn, từ quan hệ sở hữu tài sản tới cơ chế quản lý
kinh tế, từ điều hành nền sản xuất tới thu nhập… Trong Hội nghị này, Đặng Tiểu
Bình được coi là người khởi xướng cơng cuộc cải cách đã chỉ rõ: Muốn sản xuất
phát triển phải cải cách thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, xây dựng thể chế
mới, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

Tiếp sau đó, tại các Đại hội và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản
Trung Quốc từ khoá XII đến khoá XVI tiếp tục bổ sung, hoàn thiện lý luận về
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
Từ thực tiễn ở Trung Quốc, có thể khái quát những nội dung cốt lõi mà
Trung Quốc đã tiến hành trong cải cách nền kinh tế đó là:
Loại bỏ sự tập trung hố q mức và sự kìm kẹp hành chính, mở rộng
quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, tính độc lập trong tổ chức phát
triển kinh doanh của các vùng lãnh thổ; khuyến khích phát triển các cơ sở kinh
tế tư nhân nhỏ, các hợp tác xã, mở rộng quan hệ thị trường và thu hẹp phạm vi
hoạt động của chỉ thị, kế hoạch hoá và phân chia ngân sách; bãi bỏ hạn chế về
mức tiền lương; chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế trên cơ sở giải pháp
chủ yếu là chuyển giao quyền hạn cho cấp dưới.
Giải tán các cơng xã, áp dụng các hình thức hợp tác xã kiểu mới ở nông
thôn, điều chỉnh giá giữa sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, đầu tư mạnh
vào nông nghiệp, áp dụng “khốn gia đình”; ban hành luật về chuyển đổi quyền
sử dụng đất đai đã mở đường cho sự tác động của cơ chế thị trường vào nông
nghiệp và nông thôn. Nhờ vậy đã thúc đẩy tăng nhanh sản phẩm nông nghiệp
mặc dù phương pháp canh tác truyền thống chưa thay đổi.
Cùng với phương thức “khốn gia đình” trong nông nghiệp, hầu hết các
doanh nghiệp công nghiệp nhà nước đều được chuyển sang hệ thống “khoán về
kinh tế”; 8 ngành công nghiệp được chuyển sang hệ thống hợp đồng theo sơ đồ
“chi phí- sản phẩm”; quan hệ kinh tế giữa trung ương và địa phương được thực
16


hiện theo cơ chế “khoán kinh tế khu vực” (cái mà ở Trung Quốc được gọi là
nuôi ăn từ nồi của mình); các tổ chức ngoại thương cũng thực hiện chế độ khoán
theo nghĩa vụ với nhà nước.
Thực hiện chương trình hiện đại hố khu vực kinh tế nhà nước, bao gồm
việc tổ chức các tập đoàn lớn, đổi mới kỹ thuật và áp dụng các phương pháp

quản lý khoa học. Trong tương lai chỉ có những cơ sở hạ tầng quan trọng nhất
(đường sắt, liên lạc điện thoại và viễn thông, điện tử và cung cấp nước…) và
những doanh nghiệp được xây dựng bằng vốn đầu tư mới của nhà nước (bằng số
tiền lãi của các tổ chức tín dụng-tiền tệ nhà nước) mới thuộc sở hữu nhà nước.
Hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước lớn và quan trọng sẽ được biến thành các
tập đoàn với quyền hạn và hoạt động kinh tế rộng rãi nhất. Các doanh nghiệp
nhà nước vừa và nhỏ có quyền lựa chọn hình thức tổ chức và hoạt động như: cổ
phần hoá, cho thuê, chuyển thành sở hữu tập thể hoặc bán cho tư nhân.
Cải cách các chính sách giá và tỷ giá theo cơ chế thị trường. Từ năm
1993, Trung Quốc áp dụng hầu như trong cả nước cơ chế giá cả tự do đối với
ngũ cốc và các mặt hàng nông nghiệp khác, hệ thống tem phiếu bị bãi bỏ. Từ
đầu năm 1994, áp dụng tỷ giá ngoại tệ thống nhất dựa theo tỷ giá giao dịch trên
thị trường liên ngân hàng; cấm sử dụng ngoại tệ ở trong nước, áp dụng chế độ
bán bắt buộc ngoại tệ thu được từ các hoạt động ngoại thương cho các ngân
hàng được uỷ quyền.
Thực hiện nhanh chóng cơ chế kinh tế mở cửa ra thế giới. Theo Luật
Ngoại thương được thông qua năm 1994, Trung Quốc đã bãi bỏ việc lập kế
hoạch theo chỉ thị hoạt động xuất, nhập khẩu; trao cho các doanh nghiệp quyền
hoạt động kinh tế đối ngoại, bãi bỏ việc cấp quota đối với một loạt hàng hoá.
Các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng một loạt ưu tiên và ưu đãi về thuế. Các
khu vực kinh tế tự do (khu phố Đông ở thành phố Thượng Hải, Thẩm Quyến ở
tỉnh Quảng Tây,…) đã và đang là các trung tâm thu hút tư bản nước ngoài và là
“các trung tâm phát triển”. Bên cạnh đó, nhà nước vẫn duy trì chế độ bảo hộ
cứng rắn đối với những mặt hàng nhập khẩu quan trọng (dầu lửa, sản phẩm dầu
khí, sắt thép…) và vẫn giữ độc quyền về ngoại thương đối với 16 loại hàng hoá.
17


Qua hơn 30 năm cải cách nền kinh tế, Trung Quốc đã đạt được những
thành tựu vô cùng to lớn, GDP (tổng giá trị sản phẩm nội địa) bình quân tăng

9,7%, lần lượt vượt qua Ý, Pháp và Anh vào các năm 2004, 2005, 2006. Thể chế
chính trị xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc vẫn được giữ vững.
Những thành công trong cải cách kinh tế ở Trung Quốc cũng như những
thất bại trong cải tổ kinh tế ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
là những kinh nghiệm quý để chúng ta tham khảo, tránh được những sai lầm,
khuyết điểm bảo đảm cho quá trình đổi mới kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta phát triển đúng hướng, có hiệu quả.
Tóm lại: Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin,
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một tất yếu lịch sử. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản,
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, sau khi giai cấp cơng nhân giành được chính quyền
thì khơng thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được mà phải cải tạo nó dần
dần. Đến Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi
giành được thắng lợi chính trị, giai cấp vơ sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của
mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào đầu những năm 20
của thế kỷ XX càng khẳng định tính đúng đắn của việc sử dụng và cải tạo dần
dần đối với những thành phần kinh tế của xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen
đã vạch ra. Nhận thấy chính sách cộng sản thời chiến khơng cịn thích hợp trong
điều kiện đất nước đã hồ bình, V.I.Lênin đã dũng cảm thừa nhận: “Chúng ta đã
thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối
theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”. Từ đó, V.I.Lênin khẳng định cần phải thay thế
chính sách cộng sản thời chiến bằng chính sách kinh tế mới (NEP). Một trong
những nội dung cơ bản của NEP là lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần.
V.I.Lênin viết: “Không cịn nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người
sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng
xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hồn tồn khơng
18



cần thiết ở những nước tư bản phát triển”. Một trong các biện pháp quá độ đặc
biệt mà V.I.Lênin nói ở đây chính là việc sử dụng và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Điều đó được V.I.Lênin giải thích rõ như sau: “Vậy thì danh từ q độ
có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay
có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”.
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước tiểu nông, do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất cịn nhiều hạn chế và khơng đồng đều nên tất yếu cịn tồn tại
nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn nữa, một số thành phần
kinh tế của phương thức sản xuất cũ cịn có tác dụng tích cực nhất định đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích rất rõ tại sao phải phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá
trình Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
thể hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.

19


KẾT LUẬN
Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam từ năm 1986
đến nay là một tất yếu khách quan, phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với điều kiện thực tiễn của đất nước. Chúng ta chỉ
có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội khi chúng ta giữ vững được định
hướng xã hội chủ nghĩa trong đổi mới nói chung, trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay nói riêng. Quá trình đổi mới đất nước đã

tạo cho chúng ta những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng đặt ra những thách
thức lớn. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa là “một nguy cơ lớn” [2, tr.38] mà Hội
nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII xác định, Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục
khẳng định. Mặt khác, trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay,
bên cạnh những thành phần kinh tế phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa
xã hội thì cũng cịn những thành phần kinh tế ln có xu hướng tự phát lên chủ
nghĩa tư bản, mặt trái của cơ chế thị trường tác động không nhỏ đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Vì vậy, để đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội địi hỏi Đảng, Nhà
nước phải ln có đường lối đúng đắn để bảo đảm đất nước luôn phát triển đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ
trương nhất quán của Đảng ta. Đây là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối đúng đắn, sáng
tạo dựa trên cơ sở triết học và cơ sở thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, đó sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới của chúng ta
đi đến thắng lợi, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.

5. V.I.Lênin, (1920) “Diễn văn tại Đại hội toàn Nga của công nhân ngành
vận tải đường thuỷ ngày 15 tháng 3 năm 1920”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 40,
tr.245- 254, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
6. V.I.Lênin (1921), “Bàn về thuế lương thực”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 43,
tr.244- 296, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.

21



×