Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Triết học ấn độ cổ đại nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 204 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

TRỊNH THANH TÙNG

TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI - NỘI DUNG, ĐẶC
ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019



ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

TRỊNH THANH TÙNG

TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI - NỘI DUNG, ĐẶC
ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.03.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. LƢƠNG MINH CỪ
2. TS. PHẠM LÊ QUANG
Cán bộ phản biện độc lập:
1. PGS,TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
2. PGS,TS. VŨ ĐỨC KHIỂN
Cán bộ phản biện:
1. PGS, TS. ĐINH NGỌC THẠCH
2. PGS, TS. VŨ ĐỨC KHIỂN
3. PGS, TS. NGUYỄN THANH


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019


LỜI CÁM ƠN
Để hồn thành luận án này, tơi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ hết
sức quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS, TS. Lương Minh Cừ và TS.
Phạm Lê Quang đã tận tâm hướng dẫn tôi nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cám ơn tập thể q thầy cơ trong Khoa Triết học,
Phịng Sau đại học Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tơi
trong qúa trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.

Cuối cùng, tơi xin được tỏ lịng biết ơn sâu sắc gia đình, những người
thân, bạn bè đồng nghiệp đã luôn là điểm tựa và là nguồn động viên to lớn về
mọi mặt để tơi hồn thành luận án này.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS,TS. Lương Minh Cừ và TS. Phạm Lê Quang. Tư liệu
tham khảo, trích dẫn trong nội dung của luận án là từ chính các văn bản gốc và
hồn tồn trung thực.
Tác giả


TRỊNH THANH TÙNG


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài............................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ................................................................... 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .............................................. 13
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ................................. 13

6. Cái mới của luận án ........................................................................................ 14
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án ....................................... 14
8. Kết cấu cơ bản của luận án............................................................................. 15
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 16
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI .................................... 16
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI ........................ 16

1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ cổ với quá trình hình thành và phát triển
của triết học Ấn Độ cổ đại.................................................................................. 18
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ với quá trình hình thành, phát triển

của triết học Ấn Độ cổ đại.................................................................................. 25
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN MINH VÀ CÁC THÀNH TỰU VỀ VĂN H A,
KHOA HỌC CỔ ẤN ĐỘ VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
TRIỀT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI ................................................................................ 40

1.2.1. Sự phát triển của nền văn minh cổ Ấn Độ với qúa trình hình thành và
phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại ................................................................. 40
1.2.2. Những thành tựu về văn hóa và khoa học cổ Ấn Độ với quá trình hình
thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại ...................................................... 50
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................ 62



Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
CỔ ĐẠI.............................................................................................................. 65
2.1. TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI K

VEDA - SỬ THI (khoảng từ thế kỷ

XV trƣớc Công nguyên đến thế kỷ VI trƣớc Công nguyên) ....................................... 65

2.1.1. Tư tưởng triết học trong kinh Veda ......................................................... 69
2.1.2. Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad ................................................. 83
2.1.3. Tư tưởng triết học trong Ràmàyana và Mahàbhàrata .............................. 92
2.2. TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI K


PHẬT GIÁO - BÀ LA M N GIÁO

(từ thế kỷ VI trƣớc Công nguyên đến thế kỷ III sau Công nguyên) ........................ ..100

2.2.1. Hệ thống triết học chính thống (The Orthodox Systems) ...................... 103
2.2.2. Hệ thống triết học khơng chính thống (The Heterodox Systems) ......... 117
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 133
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC ẤN
ĐỘ CỔ ĐẠI..................................................................................................... 136
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TRIẾT HỌC ẮN ĐỘ CỔ ĐẠI ............... 136


3.1.1. Tính thống nhất và đa dạng - đặc điểm nổi bật của triết học Ấn Độ cổ đại . 136
3.1.2. Sự đấu tranh và kế thừa - đặc điểm xuyên suốt trong triết học Ấn Độ
cổ đại ............................................................................................................... 146
3.1.3. Triết lý đạo đức nhân sinh với tư tưởng giải thoát - một trong những vấn
đề trung tâm của triết học Ấn Độ cổ đại ......................................................... 155
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI ................................. 168

3.2.1. Ý nghĩa về mặt tư tưởng của triết học Ấn Độ cổ đại ............................. 168
3.2.2. Ý nghĩa về mặt tôn giáo của triết học Ấn Độ cổ đại .............................. 173
3.2.3. Ý nghĩa về mặt đạo đức của triết học Ấn Độ cổ đại .............................. 176
Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................... 181
PHẦN KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................... 185

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 192
CÁC C NG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ C NG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN................................................................................................ 198


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với Ai Cập, Babilon và Trung Hoa, Ấn Độ cổ đại là một trong
những cái nơi văn hóa lâu đời, rực rỡ, phong phú, thâm trầm, có sức quyến rũ
kỳ diệu của văn minh nhân loại. Trong nền văn hóa cổ xưa ấy của Ấn Độ, triết

học là một trong những lĩnh vực đặc sắc, phát triển không thua k m bất kỳ một
nền triết học nào trên thế giới.
Trên mảnh đất Ấn Độ, với điều kiện thiên nhiên hết sức đa dạng nhưng
cũng vô cùng kỳ vĩ và khắc nghiệt; vốn là cái nôi sinh ra và nuôi dưỡng con
người, nhưng cũng luôn là những yếu tố chi phối, tác động đến đời sống con
người, cùng với chế độ chiếm hữu nơ lệ mang tính chất gia trưởng hà khắc, lại
bị kìm hãm bởi cơng xã nơng thơn bảo thủ, trì trệ và chế độ phân biệt đẳng cấp
xã hội - chế độ varna khắt khe, triết học Ấn Độ đã hình thành và phát triển; với
những nhà tư tưởng, những kinh sách, những trường phái triết học, tôn giáo đa
dạng và đặc sắc, như kinh Veda, kinh Upanishad, sử thi Ràmàyana và
Mahàbhàrata,
đạo


hagavad - gità, Luận văn kinh tế - chính trị Artha-sàstra; như

àlamơn, đạo Phật, đạo Jaina và các trường phái triết học như Sànkhya,

Vais’esika, Nyàya, Yoga, Mimàmsà, Vedànta và “Lục sư ngoại đạo”
(Sattirthakaràh), trong đó đặc biệt là trường phái Lokàyata hay Càrvàka...
Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại như những bông hoa trong vườn
hoa muôn hương sắc, nảy sinh trên mảnh đất đặc biệt màu mỡ đó. Nó ln quan
tâm đến số phận con người và ln trăn trở tìm kiếm lời giải đáp cho hàng loạt
câu hỏi liên quan đến vấn đề nhân sinh như: “Con người sinh ra từ đâu? Con
người sống như thế nào? Con người trú ngụ ở đâu khi chết đi?” (The

Upanishas, vol 2, 1951, p. 71); Ý nghĩa cao đẹp của cuộc đời con người là gì?
Vì sao con người lại phải chịu những đau khổ? Làm thế nào để giải phóng con
người khỏi nỗi khổ của cuộc đời? Chính cách đặt vấn đề và cách thức đi tìm


2

những phương pháp để giải quyết vấn đề về nhân sinh như thế đã làm cho triết
học Ấn Độ cổ đại có sức hấp dẫn kỳ lạ, trở thành đạo lý của người Ấn Độ,
mang giá trị nhân văn sâu sắc; do đó, nó thành thứ “triết học trẻ mãi”, bởi vì nó
khơng chỉ thể hiện mong muốn của người Ấn Độ trong quá khứ và hiện tại mà
còn thể hiện mơ ước của người Ấn Độ cả ở tương lai. Nó chính là triết lý sống,

nảy sinh từ đời sống và trở về với đời sống sinh động của con người (Dỗn
Chính - Lương Minh Cừ, 1991, tr. 1). Nó chỉ ra cho mỗi chúng ta bài học về
đạo làm người, không chỉ trong quan hệ giữa con người với con người, mà còn
cả trong quan hệ giữa con người với chúng sinh và thế giới xung quanh nữa;
như Will Durant đã nói trong Our Oriental Heritage do Simon and Schuster,
New York, xuất bản năm 1954, rằng văn hóa Ấn Độ nói chung và tư tưởng triết
lý nhân sinh trong triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng:
“sẽ dạy cho chúng ta bài học khoan dung cao thượng, dấu hiệu của
một tâm hồn già giặn; dạy cho chúng ta có một tâm hồn thanh thản, dễ
tiếp thu những ý mới, có một trí óc bình tĩnh hiểu được hết thảy, tha
thứ cho hết thảy, sau cùng có một tấm lòng nhân từ thương yêu mọi
sinh vật, chỉ tấm lòng đó mới đồn kết mọi người với nhau được thơi”

(Durant Will, 1954, p. 633).
Không những thế, triết học Ấn Độ cổ đại với tính chất nhân văn của nó,
đã đem lại cho nhân loại một cách nhìn mới về nhân sinh, đó là quan điểm cho
rằng tất cả tiền tài, danh vọng trong cuộc đời con người chỉ như ảo ảnh, phù du;
còn những giá trị tốt đẹp về tinh thần, trí tuệ, tâm hồn và đạo đức con người
mới là giá trị cao cả và vĩnh hằng; như sử gia người Pháp Jules Michelet (1798
- 1874), đã hết lời ca ngợi rằng:
“Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá nhiều, hãy uống cạn
ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở phương Tây cái gì cũng chật hẹp.
Hy Lạp nhỏ b làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô khan làm cho tôi
nghẹt thở. Hãy cho tôi hướng về Á châu cao cả và phương Đông thâm



3

trầm trong giây lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi,
mênh mông như Ấn Độ dương ngập tràn ánh nắng mặt trời rực rỡ, tốt
lành… tạo nên khơng khí thái hịa và tình thương vô bờ bến ngay giữa
những cảnh tượng xung đột.” (Jawaharlal Nehru, 1954, vol. 1, p. 60).
Nền triết học và tôn giáo ấy không chỉ ảnh hưởng sâu đậm đến truyền
thống văn hóa, đời sống tinh thần, đạo đức, tâm linh của dân tộc Ần Độ, mà còn
ảnh hưởng sâu rộng đến quan niệm, tư tưởng và triết lý nhân sinh của nhân dân
các nước trên thế giới. Việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nội dung, đặc điểm và ý
nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ góp phần giúp chúng ta hiểu

rõ truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc Ấn Độ, mà qua đó cịn cho chúng
ta thấy sự giao lưu, dung hợp giữa văn hóa Ấn Độ với nền văn hóa của các dân
tộc khác, cả phương Đông và phương Tây, trong đó có Việt Nam.
Khơng những thế, nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ đại cịn giúp chúng ta
có một cách nhìn tồn diện và hệ thống về lịch sử phát triển tư tưởng triết học
của nhân loại; góp phần rèn luyện tư duy lý luận, vươn tới đỉnh cao của khoa
học, như Ph. Ăngghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh
cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” (C.Mác và Ph.
Ăngghen, 1995, t. 20, tr. 489); “nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm
sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được
hồn thiện, và muốn hồn thiện nó thì cho tới nay, khơng có một cách nào
khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước.” (C.Mác và Ph. Ăngghen,

1995, t. 20, tr. 487). Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Triết học Ấn Độ
cổ đại - Nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử” làm đề tài luận án tiến sĩ
Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Với tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh phong phú và đặc sắc, triết học
Ấn Độ cổ đại đã được các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước tìm hiểu, nghiên
cứu ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau. Có thể khái qt các cơng trình


4

nghiên cứu về nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của triết học Ấn Độ cổ đại thành

những chủ đề chính như sau:
Chủ đề thứ nhất, là các cơng trình nghiên cứu về triết học Ấn Độ cố
đại trong quá trình vận động, phát triển của điều kiện lịch sử - xã hội và v n
h a Ấn Độ cổ. Trong đó nổi bật là những cơng trình như: Di sản phương Đông
của chúng ta (Our Oriental Heritage) của Will Durant, do Simon and Schuster,
New York, xuất bản năm 1954, với Quyển 2 có tựa đề Ấn Độ và những người
láng giềng của mình (India and Her Heighbors). Trong cơng trình này Will
Durant đã phân tích khá sâu sắc về lịch sử văn minh Ấn Độ trên các lĩnh vực
như địa lý, dân cư, dân tộc, lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội, tư tưởng, khoa
học, kỹ nghệ, tín ngưỡng, tơn giáo, ngơn ngữ, phong tục, tập qn, văn học,
nghệ thuật, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, kiến trúc... trong đó có triết học tơn
giáo Ấn Độ; hay tác phẩm The Discovery of India (Phát hiện Ấn Độ), 3 tập của

Jawaharlal Nehru, do The Oxford University Press, New Delhi, India, xuất bản
năm 1954, Phạm Thủy a, Lê Ngọc, Hoàng Túy và Nguyễn Tâm dịch ra tiếng
Việt, do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 1990; cuốn Ấn Độ cổ đại
(Tiếng Nga) của GM.

ongard - Levin và GF. Ilyn, Nhà xuất bản Khoa học,

Mátxcơva, xuất bản năm 1985; Ấn Độ qua các thời đại của Chiêm Tế, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 1986, Đại cương văn hóa phương Đông, Lương Duy Thứ
(chủ biên) - Phan Nhật Chiêu - Phan Thu Hiền, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998;
Hợp tuyển văn học Ấn Độ của Lưu Đức Trung - Phan Thu Hiền, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2000.

Tuy đây không phải là những cơng trình chun biệt về triết học, nhưng
trên nền tảng lịch sử và văn hóa chung, các tác giả như Will Durant, Jawaharlal
Nehru, Sarvepalli Radhakrisnan… cũng đã nghiên cứu khá tồn diện về triết
học, tơn giáo Ấn Độ trên cơ sở điều kiện địa lý, cư dân, lịch sử, kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và đưa ra những đánh giá, những nhận định khá sâu sắc về
triết học Ấn Độ.


5

Chẳng hạn, trong tác phẩm Di sản phương Đông của chúng ta (Our
Oriental Heritage), phần viết về lịch sử văn minh Ấn Độ (Ấn Độ và những

người láng giềng của mình - India and Her Neighbors), tư tưởng triết học được
Will Durant đề cập trong các Chương XIV: Những nền tảng của Ấn Độ (The
Foundations of India), gồm các vấn đề: “Đất đai”, “Nền văn minh cổ nhất”,
“Dân tộc Ấn - Aryan”, “Xã hội Ấn - Aryan”, “Tôn giáo trong các kinh Veda”,
“Các kinh Veda về phương diện văn học”, “Triết học trong các kinh Veda”;
Chương XV: Đức Phật (Buddha), gồm các vấn đề: “Bọn theo tà giáo”,
“Mahavira và các giáo đồ Jaina”, “Truyện Phật Thích ca”, “Lời dạy của Đức
Phật”, “Ngày cuối cùng của Đức Phật”; Chương XVIII: Thiên đường của các
vị thần (The Paradise of the Gods); Chương XIX: Đời sống tinh thần (The Life
of the mind), gồm các vấn đề như: “Khoa học Hindu”, “Sáu hệ thống triết học
Bàlamôn”, “Những kết luận về triết học Hindu”, “Sử thi ở Ấn Độ”...
Còn trong tác phẩm The Discovery of India của Jawaharlal Nehru, gồm 3

tập, 10 chương như: Chương 1: Pháo đài Ahmadnagar hai mươi tháng; Chương
2: Badenweiler, Laussanne; Chương 3: Sự tìm kiếm; Chương 4: Phát hiện Ấn
Độ; Chương 5: Qua các thời đại chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc dưới
triều Guptas; Chương 6: Những vấn đề mới; Chương 7: Giai đoạn cuối cùng
(1); Chương 8: Giai đoạn cuối cùng chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa đế
quốc (2); Chương 9: Giai đoạn cuối cùng (3); Chương 10: Một lần nữa ở pháo
đài Ahmadnagar, Jawaharlal Nehru không chỉ bàn đến văn minh, văn hóa Ấn
Độ với những nội dung, đặc điểm đặc sắc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc
Ấn Độ, mà cịn nghiên cứu về triết học tơn giáo Ấn Độ trong sự tác động, ảnh
hưởng với các yếu tố của văn hóa Ấn Độ, nhất là trong chương 4 và chương 5
của tập 1. Trong hai chương này, Jawaharlal Nehru đã nghiên cứu và trình bày
các điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa với sự hình thành triết học tôn giáo Ấn

Độ cổ đại qua các chủ đề lớn như: “Nền văn minh thung lũng Indus”, “Ấn Độ
giáo là gì?”, “Những ghi chép bộ kinh và thần thoại Ấn Độ sớm nhất”, “Kinh


6

Veda”, “Chấp nhận và phủ nhận cuộc sống”, “Kinh Upanishads”, “Chủ
nghĩa duy vật”, “Sử thi Mahàbhàrata”, “Bhagavad - gità”, “Mahavira và
Đức Phật”, “Đẳng cấp”, “Lời dạy của Đức Phật”, “Triết học Phật giáo”,
“Ảnh hưởng của đạo Phật vào đạo Hindu”, và đặc biệt là hai phần: “Tiếp cận
triết học Ấn Độ”, “Sáu hệ thống triết học”…; hay trong tác phẩm Ấn Độ cổ
đại của GM. Bongard - Levin và G.F. Ilyn, với ba phần lớn, gồm Phần thứ

nhất: Buổi bình minh của lịch sử; Phần thứ hai: Hình thức của những đế chế
đầu tiên; Phần thứ ba: Thời đại Kushana Gupta, trên cái nền chung là lịch sử
và lịch sử văn hóa Ấn Độ, các tác giả đã trình bày và phân tích những điều
kiện tự nhiên, lịch sử, dân tộc và văn hóa Ấn Độ cổ chi phối, ảnh hưởng đến
triết học và tôn giáo Ấn Độ cổ đại, trong đó có những nhận định và đánh giá
khá sâu sắc về nền triết học tôn giáo này, như các vấn đề: “Sự nổi lên của nền
văn minh - văn hóa Harappa”, “Chế độ varna”, “Tơn giáo và văn hóa của
thời đại Veda” (trong Phần thứ nhất), “Phật giáo và Jaina giáo” (trong Phần
thứ hai), “Sự thay đổi của các tơn giáo xã hội và hệ thống chủng tính varna”;
“Mahayana và Hindu giáo”, “Các trường phái triết học cơ bản của Ấn Độ
thời cổ đại” (trong Phần thứ ba)…
Tất cả các cơng trình trên đã tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan

đến điều kiện và tiền đề hình thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại. Đó là
điều kiện địa lý, tự nhiên, khí hậu, dân tộc... hết sức đa dạng, khắc nghiệt ở Ấn
Độ cổ đại. Đó cịn là điều kiện xã hội với chế độ nơ lệ mang tính chất gia
trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm bởi cơng xã nơng thơn, với sự khép kín về địa
bàn cư trú, về dân cư, về tổ chức hành chính và nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự
cấp, bảo thủ, trì trệ và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội - chế độ varna, là sự
phân biệt về chủng tính, sắc tộc, về hơn nhân, nghề nghiệp, về tôn giáo và cả về
sự giao tiếp hết sức khắt khe, cùng với những thành quả phát triển đặc sắc của
nền văn minh Ấn Độ cổ đại, qua các thời kỳ lớn như: thời kỳ văn minh sông
Ấn, thời kỳ văn minh Veda - Sử thi, thời kỳ Phật giáo và Bàlamôn giáo, với các



7

thành tựu khoa học và văn hóa nổi bật trên các lĩnh vực như: thiên văn, lịch
pháp, toán học, y học, văn học, nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc... đã chi phối,
ảnh hưởng và ghi dấu ấn đậm nét trong nội dung và đặc điểm của triết học Ấn
Độ cổ đại.
Chủ đề thứ hai, đ là các cơng trình nghiên cứu về quá trình hình
thành, phát triển và nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại. Trong đó
đáng chú ý là những cơng trình: Indian Philosophy của S. Radhakrisnan, do
New York, The Machillan, xuất bản năm 1951; và The Oxford University
Press, New Delhi, India, xuất bản năm 1956; Six Systems of Indian Philosophy
của Max Muller, do


havan’s book University, xuất bản năm 1899; Triết học

Ấn Độ - một cách tiếp cận mới, của Heinrich Zimmer, Nxb. Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội, xuất bản năm 2006, đã nghiên cứu và trình bày về triết học Ấn Độ
khơng phải dưới góc độ lịch sử hình thành, phát triển của các trường phái triết
học, tôn giáo Ấn Độ cổ đại, mà tiếp cận dưới góc độ các chủ đề triết học chính
của nền triết học này, như: “Triết học về thời gian”, “Triết học về sự hoan lạc”,
“Triết học về bổn phận”, “Triết học về sự vĩnh hằng”, qua nội dung các kinh
sách và tư tưởng của các trường phái triết học, tơn giáo Ấn Độ cổ đại.
Đó cịn là các tác phẩm như Đại cương triết học phương Đông của Minh
Chi và Hà Thúc Minh, an xuất bản Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh, xuất bản năm 1993; tác phẩm Nhập môn triết học Ấn Độ của Lê
Xuân Khoa, do Trung tâm học liệu, ộ giáo dục, Sài Gòn, xuất bản năm 1972;
tác phẩm Lịch sử triết học Ấn Độ của Thích Mãn Giác, an tu thư Đại học Vạn
Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1967; tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông, 5
tập của Nguyễn Đăng Thục, do Trung tâm học liệu, ộ Giáo dục, Sài Gòn, xuất
bản năm 1972; Triết sử Ấn Độ - Nhập mơn triết học Ấn Độ và Upanishad của
Hồng Sỹ Quý, Nxb. Hưng giáo đồng văn, Sài Gòn, 1972; và các tác phẩm
Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại của Dỗn Chính - Lương Minh Cừ, Nhà xuất bản
Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, xuất bản năm 1991, Tư tưởng giải


8


thốt trong triết học Ấn Độ của Dỗn Chính, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, xuất bản năm 1997; Mười tơn giáo lớn trên thế giới của Hồng Tâm
Xuyên (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999 ( ản dịch của
Dương Thu Ái và Phùng Thị Huệ)… Các cơng trình này đã đi sâu trình bày nội
dung của các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, qua đó đã đưa ra những nhận
định, đánh giá và rút ra những đặc điểm của nó.
Chẳng hạn, trong tác phẩm Đại cương triết học phương Đông của Minh
Chi và Hà Thúc Minh, dựa theo quan điểm của nhà nghiên cứu Aldous Huxley,
đã trình bày bốn đặc điểm của triết học Ấn Độ như: Một là, đằng sau thế giới
hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng có một thực tại duy nhất, khơng thay đổi
mà Huxley gọi là “thần tính”, Ấn Độ giáo gọi là rahmàn, Phật giáo gọi là “Niết

bàn”, “Chân như”… và mục tiêu cuối cùng của thực nghiệm tâm linh là tiếp xúc
cho được với “Cái đó”. Hai là, để tiếp xúc được với “Cái đó”, người ta khơng
dùng sự nhận thức thơng thường mà phải bằng sự trực giác (intuitive wisdom)
hay là sự “thực nghiệm tâm linh”. Ba là, con người ta có hai cái ta; một “Cái ta
thật” và một “Cái ta giả”. “Cái ta giả” là cái ta hiện tượng và “Cái ta thật” là cái
ta phổ biến cùng khắp vũ trụ, cái ta thanh tịnh, tuyệt đối, bất biến. Con người sở
dĩ đau khổ, chịu cảnh sinh tử luân hồi là do con người đánh mất “Cái ta thật” và
sống với “Cái ta giả”, cái ta hư vọng, tham lam, vị kỷ…. Bốn là, mục đích và ý
nghĩa của nhân sinh trong triết học Ấn Độ là mọi người hãy trở về với chân bản
tính của mình, trở về với “Cái ta thật” của mình. Một sự trở về có ý thức, trước
hết bằng lối sống đức hạnh, hướng thiện, vị tha, vô ngã để dần dần trở thành một
con người hoàn thiện (Minh Chi - Hà Thúc Minh, 1993, tr. 12 -13).

Còn trong tác phẩm Tư tưởng giải thốt trong triết học Ấn Độ của Dỗn
Chính, thơng qua việc trình bày những n t khái quát về triết học Ấn Độ và những
đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại, như tính thống nhất và đa dạng, sự thống
nhất giữa triết học và tôn giáo, triết lý đạo đức nhân sinh, vấn đề đời sống tinh
thần tâm linh con người, tính nhân văn… cuốn sách đã đặc biệt đi sâu phân tích,


9

lý giải về nguồn gốc, mục đích, nội dung, các con đường, cách thức của sự giải
thoát - một trong những vấn đề trung tâm, tối cao của tư tưởng triết học Ấn Độ.
Các cơng trình trong chủ đề thứ hai này, giúp chúng ta hiểu rõ được bức

tranh chung về triết học Ấn Độ qua các trường phái, các kinh sách với những nội
dung phong phú cùng với những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử đặc sắc của nó. Đó
là tư tưởng triết học trong kinh Veda, Upanhishad trong thời kỳ Veda - Sử thi (từ
thế kỷ XV trước C.N đến thế kỷ VI trước C.N) và đó là các trường phái Sànkhya,
Vais’esika, Nyàya, Yoga, Mimàmsa và Vedànta, gọi là các dasanas hay hệ thống
triết học tôn giáo chính thống, và ba mơn phái Jaina, Lokàyata và Phật giáo, gọi
là hệ thống triết học tơn giáo khơng chính thống. thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ
Phật giáo - àlamôn giáo (từ thế kỷ VI trước C.N đến thế kỷ III sau C.N).
Đặc biệt các cơng trình nghiên cứu về triết học Ấn Độ ở chủ đề thứ hai
còn cho thấy, nếu trong thời kỳ Veda - Sử thi, thế giới quan thần thoại tơn giáo
có tính chất đa thần tự nhiên là nội dung chủ yếu và tư tưởng triết học cịn mang
tính tản mạn, thì sang thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo các

trường phái triết học Ấn Độ đã đi sâu vào lý giải và trả lời cho những câu hỏi về
các vấn đề: thế giới quan, nhận thức luận, nhân sinh quan có tính khái qt, hệ
thống, mạch lạc, chặt chẽ hơn.
Chủ đề thứ ba, là các cơng trình nghiên cứu từng trào lưu, từng loại
kinh sách triết học Ấn Độ. Trong đó phải nói đến các cơng trình như: Tác
phẩm A Sourcebook in Indian Philosophy, do Sarvepalli Radhakrishnan và
Charles A. Moore biên soạn, Princeton University Prees, Princeton New Jersey
xuất bản năm 1973, gồm các phần: Thời kỳ Veda (kinh Veda, kinh Upanishad),
Thời kỳ Anh hùng ca (Bhagavad gità, Mahàbhàrata, Luật Manu, Artha-sàstra
của Kautilya), Hệ thống triết học tôn giáo khơng chính thống (Carvàka,
Jainism, Buddhism), Hệ thống triết học tơn giáo chính thống (Nyàya,
Vais’esika, Sànkhya, Yoga, Pùrva Mimàmsà, Vedànta). Trong đó, các tác giả

khơng chỉ giới thiệu khái qt về các kinh sách, các môn phái triết học Ấn Độ,


10

mà cịn trích dịch và chú giải từ ngun bản của các bản kinh cũng như của các
trường phái triết học ấy. Tiếp tục theo chủ đề nghiên cứu này là các tác phẩm
như The Upanishads, 4 vol, do Bonanaza Books, New York, xuất bản các năm
1949, 1953, 1956, 1959; The Bhagavad - gità, của Sarvepalli Radhakrisnan, do
Nhà xuất bản Allen và Unwin, London, xuất bản năm 1953; The Ràmàyana and
Mahàbhàrata của Dutt Romesh, London, xuất bản năm 1961; tác phẩm Áo
nghĩa thư Uphanisshad, do An Tiêm, Sài Gòn, 1972, Shri Aurobindo bình giải,

Thạch Trung Giả dịch; Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận của Kimura
Taiken, do Vạn Hạnh, Sài Gịn, xuất bản năm 1969 ( ản dịch của Thích Quảng
Độ); Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken, Vạn Hạnh, Sài
Gòn, xuất bản năm 1969 ( ản dịch của Thích Quảng Độ); Đại thừa Phật giáo
tư tưởng luận của Kimura Taiken, do Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản 1969 ( ản
dịch của Thích Quảng Độ); Những nhà tư tưởng lớn của Ấn Độ của Albet
Schweitzer, Nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, xuất bản năm 2003
( ản dịch của Phan Quang Định).
Trong các công trình trên, đáng chú ý là tác phẩm The Upanishads, một
tác phẩm công bố đầy đủ nhất nội dung 13 kinh chủ yếu của kinh Upanishads,
như: tập 1, gồm các kinh Katha Upanishad, I’sa Upanishad, Kena Upanishad,
Mundaka Upanishad; tập 2, gồm các kinh Taitiriya Upanishad, Chhàndogya

Upanishad; tập 3, gồm các kinh Aitareya Upanishad,

rihadàranyaka

Upanishad; tập 4, gồm các kinh S’vetàs’vatara Upanishad, Pras’na Upanishad,
Màndukya Upanishad. Không những thế, nội dung từng kinh trong tồn bộ bộ
kinh cịn được Swama Nikhilananda giới thiệu, bình chú và chú giải khá đầy đủ
và sâu sắc. Về chủ đề này cịn có các tác phẩm như Thiền luận của Daisetz
Teitaro Suzuki, do An Tiêm, Sài Gòn, xuất bản năm 1970, theo bản dịch của
Trúc Thiên; Chí tơn ca (Bhagavad - gità), Quảng Hóa, Sài Gịn, 1973 ( ản dịch
của Nguyễn Quỳnh); Phật giáo - những vấn đề triết học của O.O. Rozenberg,
Nhà xuất bản Tư tưởng, Mátxcơva, xuất bản năm 1987, Trung tâm tư liệu Phật



11

học Việt Nam, xuất bản bằng tiếng Việt, năm 1990 ( ản dịch của Ngô Văn
Doanh và Nguyễn Hùng Hậu); Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang,
do Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1967; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư
(Chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1988;
Sankara và triết học Ấn Độ (Tiếng Nga), của H. . Isaepva, Nhà xuất bản Khoa
học, Mátxcơva, xuất bản năm 1991; Phật pháp khái luận của Thích Ấn Thuận,
Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, xuất bản năm 1992,
( ản dịch của Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Đức Sâm); Triết

học tự nhiên ở Ấn Độ: Trường phái nguyên tử luận Vais’esika, Nhà xuất bản
Khoa học, Mátxcơva, xuất bản năm 1986; Veda, Upanishad - những bộ kinh
triết lý tơn giáo cổ Ấn Độ, do Dỗn Chính chủ biên, đã dịch, giới thiệu và chú
giải những bản kinh quan trọng nhất liên quan đến tư tưởng triết học cơ bản của
kinh Veda; dịch, giới thiệu và chú giải toàn bộ nội dung 13 kinh Upanishad
trong bốn tập, do onnza ooks, New York xuất bản vào các năm 1949, 1953,
1956, 1959, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2006, tái
bản có sửa chữa năm 2011, 2017, 2018…
Những cơng trình trên thường đi sâu vào nội dung của từng trường phái
hoặc từng loại kinh sách, với những vấn đề triết học - tôn giáo cụ thể như vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận, vấn đề đạo đức nhân sinh của triết học Ấn Độ cổ
đại. Chẳng hạn, tác phẩm Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận của tác giả Kimura

Taiken đã giành một số chương phân tích những vấn đề về luân lý đạo đức và
nhân sinh như vô thường, vô ngã, nghiệp báo, luân hồi, giải thoát, Niết bàn…
Tuy trong quan điểm về nguồn gốc của vấn đề giải thoát, theo quan niệm của ơng
cịn có những vấn đề cần bàn luận, nhưng qua đó cũng giúp chúng ta có thể hiểu
sâu hơn một trong những đặc điểm nổi bật của triết học Ấn Độ, đó là vấn đề giải
thốt. Trong Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Kimura Taiken đã viết:
“Đối với nhân sinh, Phật giáo cho là khổ, bởi vậy mới lấy tự do, giải
thoát làm tiêu chuẩn lý tưởng. Song sự khổ não và trói buộc ấy khơng


12


phải thực sự tồn tại khách quan, mà là căn cứ vào thái độ của tâm ta cả,
nghĩa là cứ khư khư chấp lấy cái “ngã” giả dối là cái “ta” chân thực, rồi
trù mưu, tính kế để làm cho nó thỏa mãn mọi ham muốn của cái ta ấy,
nên mới có khổ não, trói buộc. Nếu ta có thể vượt hẳn ra ngồi vịng
tham dục của cái “ngã” nhỏ nhoi ấy, thì khơng những ta sẽ khơng thấy
khổ, thấy trói buộc, mà trái lại, ta sẽ thấy một cảnh giới tự do và yên vui
vô hạn.” (Kimura Taiken, 1969 a, tr. 19).
Từ đó, ơng đã đưa ra ngun nhân sinh ra tư tưởng giải thốt trong triết
học tơn giáo Ấn Độ rằng:
“Đối với vạn hữu, đặc biệt là tự thân con người, người ta cảm thấy cần
phải so sánh, đối chiếu giữa cái chân tướng và giả tướng của vạn vật.
Và do cái ý hướng muốn xa lìa cái giả tướng để trở về với cái chân

tướng mà sinh ra tư tưởng giải thoát.” (Kimura Taiken, 1969 a, tr. 19).
Các cơng trình nghiên cứu về triết học Ấn Độ ở chủ đề thứ ba này, gồm
những tài liệu, những kinh sách với tính chất là những bản văn gốc, giúp nghiên
cứu sinh tìm hiểu, nghiên cứu về triết học Ấn Độ cổ đại một cách trung thực và
chính xác nhất.
Tóm lại, qua các cơng trình nghiên cứu trên, chúng ta đã có một cái nhìn
bao qt bức tranh chung về triết học Ấn Độ cổ đại, như điều kiện hình thành,
phát triển; các giai đoạn và các trường phái triết học chính với những nội dung
và các đặc điểm chủ yếu của nó; như tính đa dạng, triết lý nhân sinh là vấn đề
nổi bật… ở mức độ và nội dung khác nhau. Đây là những tài liệu quý báu để tác
giả tiếp thu, kế thừa trong nội dung luận án của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án: Từ sự trình bày khái quát quá trình hình thành,
phát triển và nội dung cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại, luận án nhằm làm rõ
những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của nó trên các mặt tư tưởng, tơn giáo và
đạo đức, trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Ấn Độ.


13

Nhiệm vụ của luận án: Một là, trình bày, phân tích làm rõ những đặc
điểm điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử - xã hội, cùng với sự phát triển của
các thời kỳ văn minh và các thành tựu về văn hóa, khoa học cổ Ấn Độ tác động,
ảnh hưởng, chi phối đến qúa trình hình thành, phát triển; đặc biệt đến nội dung

và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Hai là, trình bày, phân tích quá trình hình thành, phát triển của triết học
Ấn Độ cổ đại với những nội dung tư tưởng cơ bản của các trường phái triết học,
qua hai thời kỳ thời kỳ V da - Sử thi hay Veda - Anh hùng ca và thời kỳ Cổ
điển hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo.
Ba là, từ những nội dung tư tưởng của các trường phái triết học Ấn Độ
cổ đại, luận án phân tích, đánh giá chỉ ra những đặc điểm chủ yếu và ý nghĩa
lịch sử của nó, cả về mặt lý luận và về mặt thực tiễn, trên các mặt khác nhau
như: tư tưởng, tôn giáo và đạo đức trong đời sống của dân tộc Ấn Độ. Trong
quá trình trình bày, phân tích những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của triết học
Ấn Độ cổ đại, để có cái nhìn tồn diện, tác giả cũng đưa ra nhận định, đánh giá
về những hạn chế của triết học Ấn Độ cổ đại.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Đó là nghiên cứu nội dung, đặc
điểm và ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án khơng nghiên cứu tồn bộ
lịch sử triết học Ấn Độ mà chỉ tập trung nghiên cứu triết học Ấn Độ thời kỳ
Veda - Sử thi (khoảng từ thế kỷ XV trước Công nguyên đến thế kỷ VI trước
Công nguyên) và thời kỳ Phật giáo -

àlamôn giáo (từ thế kỷ VI trước Công

nguyên đến thế kỷ thứ III sau Công nguyên).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận; đồng thời tác giả
luận án còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích


14

và tổng hợp, lơ gích và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, đối chiếu và so sánh, trừu
tượng hóa, khái quát hóa và phương pháp văn bản học để nghiên cứu và trình
bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc độ triết học lịch sử, triết học văn
hóa và giá trị học.
6. Cái mới của luận án

Một là, luận án đã trình bày, làm rõ quá trình hình thành, phát triển của
triết học Ấn Độ cổ đại một cách hệ thống, với các giai đoạn phát triển và những
nội dung của các kinh sách, các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại.
Hai là, luận án đã phân tích làm rõ những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của
triết học Ấn Độ cổ đại đối với đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Ấn Độ;
đó là ý nghĩa về mặt tư tưởng, tơn giáo và đạo đức.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học: Việc tìm hiểu, nghiên cứu làm rõ những nội dung,
đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ đại, giúp người đọc có sự
hiểu biết một cách hệ thống và sâu sắc hơn về triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng
và về nền văn hóa của Ấn Độ nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn: Cùng với ý nghĩa về mặt khoa học, việc nghiên

cứu một cách hệ thống và cơ bản nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của triết học
Ấn Độ cổ đại, không chỉ giúp chúng ta có sự hiểu biết một cách hệ thống và sâu
sắc về triết học Ấn Độ mà qua đó, cịn giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự ảnh hưởng
của văn hóa Ấn Độ đối với nền văn hóa của dân tộc ta, qua quá trình tiếp thu,
kế thừa có chọn lọc và sáng tạo bởi ơng cha ta những tinh hoa giá trị văn hóa
thế giới nói chung, văn hóa Ấn Độ nói riêng, trong lịch sử. Đúng như tinh thần
“Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng
hiện nay” đã viết:
“Nhìn lại mấy nghìn năm lịch sử nước ta, nền văn hóa dân tộc Việt Nam
đã phát triển trong sự tiếp thu có chọn lọc và biến thành của mình nhiều
tinh hoa của những nền văn hóa lớn trên thế giới. Ông cha ta đã tiếp thu



15

tinh hoa văn hóa nhân loại trên tinh thần độc lập dân tộc, với lòng tự hào
sâu sắc về những giá trị của con người Việt Nam, của truyền thống lịch
sử và văn hóa Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1995, tr. 19 - 20).
8. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 200 trang được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết và 15 tiểu tiết.


16


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Cùng với việc sáng tạo nên một nền văn hóa phát triển lâu đời, rực rỡ và
độc đáo, dân tộc Ấn Độ cũng đã sáng tạo nên cho nhân loại một nền triết học
với triết lý thâm trầm về thế giới và nhân sinh, thể hiện trình độ tư duy khá sâu
sắc của người Ấn Độ.

Đây là nền triết học ra đời ở một xứ sở mà tất cả mọi người, từ thường
dân đến vua chúa, từ cơng nơng đến trí thức, từ võ sĩ đến bậc tư tế… đều có
niềm say mê kỳ lạ đối với triết học; bởi theo họ, triết học không chỉ giúp con
người hiểu biết, nắm bắt chân lý mà còn dạy cho con người thực hành chân lý,
là đạo sống của con người; như Will Durant, trong cuốn Di sản phương Đơng
của chúng ta (Our Oriental Heritage) đã viết:
“Khơng có xứ sở nào mà người ta mê triết học như Ấn Độ. Người Ấn
Độ không coi triết học là một mơn để tiêu khiển hoặc để trang sức trí
óc; mà coi đó là lợi ích bậc nhất, cần thiết cho đời sống hằng ngày; vì
vậy ở Ấn Độ các triết nhân được dân chúng tôn trọng như chúng ta tôn
trọng những người hoạt động và bọn phú gia. Thử hỏi có dân tộc nào
nghĩ đến việc tổ chức các buổi lễ long trọng rồi mời tôn sư các phái triết

học kình địch nhau tới để đấu khẩu trước cơng chúng xem ai thắng ai
bại, y như các võ sĩ tại đấu trường La Mã… Triết gia nào thắng thế
trong một cuộc tranh luận lớn thì được dân chúng phe mình tiếp đón
long trọng như một ngun sối khải hồn sau nhiều trận đổ máu”
(Durant Will, 1954, p. 533).


17

“Vì thế các người thầy triết học ở Ấn Độ cũng nhiều như con bn ở
Babylon. Khơng có đất nước nào lại có nhiều trường triết như vậy - for
teachers of philosophy were as numerous in India as merchants in

Babyonia. No other country has ever had so many schools of thought”
(Durant Will, 1954, p. 534); “Ở Ấn Độ,… học vấn và sự uyên bác luôn
luôn được quần chúng quý trọng, vì học vấn được coi là bao hàm cả tri
thức và đức hạnh. Đứng trước người có học vấn, kẻ thống trị và nhà quân
sự luôn cúi chào” (Jawaharlal Nehru, 1954, vol. 1, p. 45).
Những tư tưởng triết lý ấy trong các kinh sách của văn hóa Ấn Độ cổ đại,
theo Jean Herbert:
“cho đến nay vẫn còn được truyền tụng đến mức không thể tưởng tượng
được. Những người thợ thuyền sau một ngày làm việc cực nhọc vẫn có
thể thức thâu đêm quây quần quanh ngọn lửa bập bùng, chăm chú theo
dõi một tấn kịch đã ba ngàn năm qua. Ở các làng mạc, sau mỗi vụ mùa
người dân quê lao động lam lũ vẫn dám bỏ ra một phần lớn số gia sản

nhỏ b của mình để trả cho những nghệ nhân mỗi đêm đọc tụng và bình
giải kinh sách cho họ nghe.” (Jean Herbert, 1947, p. 241).
Tính chất độc đáo trong nội dung và đặc điểm của triết học Ấn Độ khơng
phải là cái có tính ngẫu nhiên vốn có, hay là cái được nảy sinh ra từ thế giới bên
kia nào đó; theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, x t đến cùng,
nó chính là sự phản ánh và chịu sự chi phối của điều kiện sống và của đặc điểm
điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Ấn Độ thời cổ đại. Đúng như C.
Mác và Ph.Ănghen đã viết:
“Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật
chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư
duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Khơng phải ý thức quyết định đời
sống mà chính đời sống quyết định ý thức.” (C.Mác và Ph. Ăngghen,

1993, t. 3, tr. 38).


18

Và trong đó, triết học chính là biểu trưng tinh túy nhất về mặt tinh thần
của một thời đại, một dân tộc, như C.Mác đã nói: “… các triết gia không mọc
lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc
mình, mà dịng sữa tinh tế nhất, q giá và vơ hình được tập trung lại trong
những tư tưởng triết học.” (C.Mác và Ph. Ăngghen, 1993, t. 1, tr.156).
Điều đó cũng đúng như Jawaharlal Nehru, khi nghiên cứu về nguồn gốc
sản sinh ra nền văn hóa, trong đó có triết lý tơn giáo Ấn Độ nói chung, nhân

sinh quan của người Ấn Độ nói riêng, đã khẳng định:
“Khơng thể khơng đồng ý rằng một nền văn hóa hay một quan điểm sống
dựa trên thuyết thế giới bên kia hay sự vô giá trị của thế giới lại có thể
sản sinh ra tất cả những biểu hiện về cuộc sống mạnh mẽ và muôn vẻ
như vậy. Thực vậy, rõ ràng là bất cứ nền văn hóa nào mà cơ bản mang
tính chất thế giới bên kia thì khơng thể tồn tại trong hàng ngàn năm như
vậy được.” (Jawaharlal Nehru, 1954, vol. 1, p. 42).
Triết học Ấn Độ cổ đại với những nội dung và đặc điểm của nó, khơng
phải là kết quả của sản phẩm dựa trên thuyết thế giới bên kia, hay là sản phẩm
thuần túy có tính tư biện của tư duy; mà nó chính là sự kết tinh tinh hoa giá trị
tinh thần và văn hóa của dân tộc Ấn Độ. Vì vậy, có thể nói, sự ra đời và phát
triển của tư tưởng triết học Ấn Độ, thể hiện rất đặc sắc trong nội dung và đặc

điểm của nó, khơng thể tách rời những điều kiện mà ở đó dân tộc này sinh tồn
và phát triển. Đó là điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội và văn hóa Ấn Độ cổ đại.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ cổ với quá trình hình thành và
phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ là một trong những đất nước có điều kiện địa lý điều kiện tự
nhiên và khí hậu với những đặc điểm đa dạng, phong phú nhưng cũng rất khắc
nghiệt. Chính điều kiện sống như thế đã tác động thường xuyên và ghi dấu ấn
đậm n t trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Ấn Độ cổ, trên


19


các lĩnh vực của xã hội, như phương thức sản xuất, cách thức sinh hoạt, phong
tục, tập quán, tâm lý, quan niệm, tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, tín
ngưỡng, tơn giáo.
Về điều kiện địa lý và điều kiện tự nhiên, Ấn Độ là một bán đảo lớn nằm
ở miền nam châu Á, hai mặt đông nam và tây nam giáp Ấn Độ dương. Theo
Will Durant: “Xứ đó là một tam giác mênh mơng, đáy ở phía bắc, tức dãy
Himalaya quanh năm tuyết phủ; đỉnh ở phía nam, tức đầu đảo Tích Lan, quanh
năm nóng như thiêu như đốt. Phía tây là a Tư mà dân chúng, ngơn ngữ, thần
thánh đều rất gần gũi với Ấn Độ thời Veda” (Durant Will, 1954, p. 392).
Phía bắc Ấn Độ là dãy Himalaya hùng vĩ, được coi là “nóc nhà của thế
giới”. Theo tiếng Sanskrit, Himalaya nghĩa là “xứ sở của tuyết”, quanh năm

tuyết phủ, là nguồn nước vô tận của các con sông lớn, như sông Ấn và sông
Hằng ở đại lục địa Ấn Độ. Với trí tưởng tượng hết sức phong phú của người Ấn
Độ, Himalaya là nơi tiếp giáp giữa cõi trời và trần gian, là nơi trú ngụ, đi về của
các đấng thần linh giữa thiên giới và hạ giới; đó cũng là nơi các vị đạo sĩ đã
chọn làm chỗ tu tập, suy tư, chiêm nghiệm về nguồn gốc của vũ trụ, về bản chất
của nhân sinh, tìm con đường giải thốt cho chúng sinh khỏi nỗi khổ của cuộc
đời. Nói về sự kỳ vĩ và ảnh hưởng của dãy Himalaya với đời sống của dân tộc
Ấn Độ, Jawaharlal Nehru đã viết:
“Tôi lang thang trên dãy Himalaya, nơi gắn chặt với những chuyện thần
thoại và truyền thuyết xưa, và nơi đã có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng và
văn học của chúng tơi. Lịng u mến núi non của tơi và tình ruột thịt với
Kashmir đã k o tơi đến đó, và tơi được nhìn thấy không những cuộc

sống, sinh lực và cái đẹp của hiện tại mà cả vẻ duyên dáng được ghi nhớ
của các thời đại đã qua.” (Jawaharlal Nehru, 1954, vol. 1, p. 18).
Miền cực bắc Ấn Độ là tỉnh Kashmir, quê hương xứ sở của kỹ nghệ dệt
lụa là, gấm vóc mang tính chất truyền thống cổ xưa nổi tiếng của Ấn Độ, có
nguồn gốc xa xưa từ nền văn minh thung lũng Indus thuộc Tây

ắc Nam Á


×