Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Bài tập nhóm UPR (pháp luật quyền con người)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.64 KB, 49 trang )

Nhóm 9 – Lý luận Quyền con người:
Đánh giá của ASEAN đối với Việt Nam về Báo cáo phổ quát định kì
(UPR) Việt Nam năm 2023
Tại phiên họp của Hội Đồng nhân quyền, đại diện UB liên chính phủ
ASEAN về quyền con người (AICHR) có mặt tại phiên họp đưa ra những ý kiến
nhận xét đối với báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở
Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) 2023.
Asean đánh giá cao Việt Nam trong việc chuẩn bị báo cáo, hoan nghênh
những đóng góp của VN vào việc thành lập và hoạt động của UB liên chính phủ
ASEAN về nhân quyền. Việt Nam đã thực hiện một cách nghiêm chỉnh các
khuyến nghị từ hội nghị lần 3 (2018), việc soạn thảo báo cáo được thực hiện bởi
Nhóm cơng tác liên ngành gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên
quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền con người. ASEAN
ủng hộ, đề xuất là đại diện tham gia ứng cử vào thành viên Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Bên cạnh những đánh giá tích cực
thì ASEAN cũng nêu ra những điểm chưa làm được; đồng thời đưa ra những
khuyến nghị cho VN yêu cầu VN tiếp tục đóng góp tích cực vào “Tun bố
nhân quyền ASEAN”. Cụ thể như sau:
1. Về điểm tích cực

Cải cách pháp luật trên tinh thần Hiến pháp 2013, xây dựng nhà nước
pháp quyền, phát triển các chế định quyền con người, quyền công dân phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Nhiều chính sách quan trọng
ban hành với nỗ lực xây dựng chính phủ kiến tạo và thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững và đảm bảo quyền phát triển, quyền cho các nhóm dễ bị tổn
thương và quyền của người lao động.

1


Triển khai các ý kiến UPR chu kỳ II: Việt Nam đã chấp thuận 128/277


khuyến nghị và phê duyệt Kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện các khuyến
nghị đã chấp thuận theo cơ chế UPR tại chu kỳ II, phân công nhiệm vụ và tiến
hành khá hiệu quả.
Tăng cường giáo dục: VN luôn xem giáo dục nâng cao nhận thức về
quyền con người là một trong những nhiệm vụ ưu tiên nhằm thúc đẩy quyền con
người. Các nội dung về quyền con người được đưa vào sách giáo khoa phổ
thông và các môn học tại các trường đại học chuyên sâu về luật, cảnh sát và đào
tạo cán bộ thực thi pháp luật, nâng cao nhận thức của học sinh, sinh viên, đội
ngũ cán bộ.
Thực hiện cam kết quốc tế và hợp tác quốc tế về quyền con người: Việt
Nam phê chuẩn thêm 2 công ước về quyền con người gồm: Công ước về Quyền
của người khuyết tật và Cơng ước Chống tra tấn và các hình thức tàn bạo, vô
nhân đạo và hạ nhục con người. Việt Nam là thành viên thứ 7/9 Công ước quốc
tế cơ bản về quyền con người và tiếp tục xem xét khả năng gia nhập các Cơng
ước khác. Tích cực trong việc nộp các bản báo cáo về thực thi các công ước,
tăng cường coi trọng hợp tác.
2. Về điểm hạn chế
-

Việt Nam vẫn cịn phải đương đầu với khơng ít khó khăn từ hoàn cảnh đặc thù
và các thách thức toàn cầu. Khuôn khổ pháp lý về quyền con người vẫn đang
cần tiếp tục hồn thiện, rà sốt, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp lý để phù hợp
với Hiến pháp, đồng thời tăng cường thể chế bảo đảm quyền con người. Cơng
tác này cũng địi hỏi phải thiết lập các cơng cụ chính sách và cơ sở hạ tầng vật

chất liên quan, tạo áp lực rất lớn về nhân lực, thời gian và tài chính.
- Cơng tác giáo dục về quyền con người vẫn còn những tồn tại. việc giáo dục
quyền phụ nữ chủ yếu dừng lại ở cán bộ làm công tác quản lý mà chưa thực hiện
sâu rộng trong toàn thể xã hội, nhất là với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ


2


dân tộc thiểu số. Việc tuyên truyền, giáo dục, chủ yếu được thực hiện theo từng
đợt, thiếu tính thường xuyên, liên tục.
- Ở một số cơ quan chức năng, một bộ phận cán bộ còn mang nặng ý thức ỷ lại,
trơng chờ vào sự hỗ trợ kinh phí từ bên ngoài, chưa phối hợp chặt chẽ, để thực
hiện tốt các hoạt động tuyên truyền giáo dục quyền phụ nữ, quyền trẻ em.
- Giáo dục quyền công dân tuy đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật
nhưng trên thực tế, việc triển khai chưa được thực hiện một cách đầy đủ, rộng
rãi và thường xuyên; chưa gắn kết với nhau.
- Cịn nhiều khó khăn trong việc xóa bỏ nạn tảo hôn trong dân tộc thiểu số hoặc
đấu tranh chống bạo lực gia đình ở các khu vực nơng thơn. Đây cũng là thách
thức “kép” vì chính những cộng đồng đang giải quyết các vấn đề này cũng
thường là những cộng đồng lợi thế ít hơn trong tiếp cận với các dịch vụ xã hội,
hiểu biết của người dân về pháp luật, chính sách cũng như năng lực tuân thủ
pháp luật còn hạn chế.
3. Một số kiến nghị đặt ra
Một là, Việt Nam cần thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đối với phụ nữ
và trẻ em gái trong thời đại chuyển đổi kỹ thuật số; tiếp tục đề xuất Nghị quyết
về quyền con người; đóng góp cho nỗ lực của Hội đồng Nhân quyền trong lĩnh
vực quyền được chăm sóc sức khỏe, đặc biệt trong bối cảnh thế giới phục hồi
sau đại dịch COVID-19; thúc đẩy quyền được làm việc tử tế để đạt được
Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững; thúc đẩy đào tạo, giáo dục về
quyền con người.
Hai là, sẵn sàng hợp tác với các quốc gia thành viên và các bên liên quan
để duy trì các nguyên tắc của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, củng cố
hiệu lực và hiệu quả của Hội đồng Nhân quyền thông qua đối thoại, hợp tác và
tôn trọng lẫn nhau.
Ba là, cần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và cán bộ bày tỏ quan

điểm và tham gia đóng góp trong q trình dự thảo và xây dựng văn bản pháp
luật, giải quyết các vấn đề đặt ra của đất nước.
Bốn là, nghiên cứu, xây dựng luật chống phân biệt đối xử, luật phòng,
chống mại dâm. Nghiên cứu và phát triển hệ thống dịch vụ công hiệu quả và
3


thuận tiện hơn, đặc biệt là bảo hiểm xã hội, giáo dục và đào tạo, y tế và hỗ trợ
pháp lý. Tăng cường các nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động các
nguồn lực kinh tế từ hợp tác quốc tế để thực hiện các chính sách về an sinh xã
hội
Năm là, tăng cường giáo dục về nhân quyền nâng cao nhận thức của công
dân và năng lực của các cơ quan pháp lý liên quan nhằm bảo đảm tốt hơn các
quyền và tự do cơ bản của công dân trong khuôn khổ pháp luật quốc gia. Tiếp
tục rà soát pháp luật về lao động, nhằm bảo đảm nâng cao điều kiện làm việc và
vấn đề mối đe dọa về lao động cưỡng bức. Đồng thời, thúc đẩy chính sách bảo
đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa như tăng cường tiếp cận y tế, nước sạch,
giáo dục, dịch vụ, xóa bỏ bất bình đẳng./.
Phản biện của Đức về bản báo cáo của Việt Nam

Qua quá trình quan sát và tìm hiểu về việc thực hiện quyền con người ở Việt
Nam trong lĩnh vực y tế, chúng tôi xin được đưa ra một số nhận xét sau:
● Những thành tựu đã đạt được:

Trong bức tranh chung toàn cầu, Việt Nam- một quốc gia ở mức phát triển
trung bình thấp, đã phòng chống dịch hiệu quả và hơn thế nữa, đảm bảo tốt
quyền con người cho nhân dân và cả người nước ngoài ở Việt Nam. Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã có những biện pháp mạnh mẽ, tồn diện, trước mắt có
thể chịu thiệt hại về kinh tế, song bằng mọi giá phải bảo vệ tính mạng nhân dân.
Việt Nam đã huy động sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và nhân dân

nhằm triển khai thực hiện một loạt các biện pháp y tế công. Trong đó, Chính phủ
đặc biệt chú trọng triển khai các biện pháp dự phòng lây nhiễm; triển khai các
biện pháp khám và điều trị miễn phí... đây là một nỗ lực đáng ghi nhận của
Chính phủ Việt Nam nhằm bảo đảm quyền được tiếp cận điều trị Covid-19 cho
tất cả bệnh nhân.

4


Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe trực tiếp, Việt Nam
cịn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe của người dân, ngăn ngừa
bệnh tật từ xa như chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn. Tỷ lệ
hộ gia đình sử dụng nước sạch tăng lên qua các năm. Bảo hiểm y tế được phát
triển, mở rộng. Số lượng người tham gia bảo hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu
(chiếm 5,4% dân số) năm 1993 lên gần 88 triệu người (gần 91% dân số) năm
2020. Các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật của Bộ Y tế, các tổ chức xã hội, tổ
chức của/vì người khuyết tật và chính quyền các địa phương cũng tích cực triển
khai các hoạt động trợ giúp y tế cho người khuyết tật trong cộng đồng. Hội Bảo
trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam đã hỗ trợ 6.992 người phẫu thuật thay
thủy tinh thể, 349 người khuyết tật phẫu thuật chỉnh hình phục hồi chức năng,
184 người phẫu thuật tim,....
● Những hạn chế của Việt Nam

Việt Nam cũng thực hiện chưa tốt về quyền con người trên lĩnh vực y tế trong
thời gian qua, cụ thể: Các bệnh viện, cơ sở y tế, nhất là các cơ sở ý tế đã được
giao tự chủ chi thường xuyên nhưng do dịch bệnh COVID - 19 , số lượng khám
chữa bệnh giảm nhiều, nguồn thu giảm, trong khi phải tăng chi để thực hiện các
giải pháp phòng, chống lây nhiễm, nhiều cơ sở y tế không đủ để chi chi tiền
lương và đảm bảo hoạt động đơn vị. Giải ngân đầu tư cơng cịn chậm và nhiều
vướng mắc. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt tiêu

chuẩn.
Công nghiệp dược, thiết bị y tế chưa phát triển đáp ứng yêu cầu, phụ thuộc
vào nguyên liệu ở nước ngoài.Hiện tượng sử dụng thuốc chưa hợp lý cịn xảy ra,
bán thuốc khơng theo kê đơn cịn diễn ra phổ biến. Chưa thực hiện tốt việc quản
lý, tư vấn, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân trên địa bàn. Một số dịch
bệnh lưu hành, kể cả các dịch bệnh có thể dự phịng bằng vắc xin như sởi, bạch
hầu… có nguy cơ quay trở lại tuy nhiên tỷ lệ tiêm chủng ở một số vùng, nhóm
dân tộc, các đối tượng di cư cịn thấp. Cơng tác phịng chống các bệnh khơng lây

5


nhiễm như ung thư, tim mạch, đái tháo đường, tăng huyết áp cịn nhiều hạn chế.
Tình hình ngộ độc thực phẩm còn diễn biến phức tạp.
Nhiều cơ sở thẩm mỹ viện mở tràn lan, khơng có giấy phép, bác sĩ không đủ
chuyên môn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Với những người khuyết tật, theo
ước tính chỉ có tỷ lệ phần trăm rất nhỏ người khuyết tật có thu nhập thấp được
tiếp cận phục hồi chức năng và các dịch vụ cơ bản phù hợp. Các rào cản mà
người khuyết tật và gia đình họ phải đối mặt trong việc tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe.
● Một số kiến nghị

Thứ nhất, nhà nước Việt Nam nỗ lực hơn nữa trong việc xây dựng hệ thống
pháp luật quốc gia, tích cực nội luật hóa các ngun tắc, tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc
tế.
Thứ hai, trong giai đoạn 2019- 2022 vừa qua, Đại dịch COVID-19 đã gây ra
những ảnh hưởng to lớn về kinh tế cho Việt Nam và cả trên thế giới, Việt Nam
phải có những quyết định đúng đắn về chiến lược phát triển kinh tế để có thể cân
bằng lợi ích của người dân. Cần đẩy mạnh quan tâm hơn nữa, trang bị nhiều

thiết bị y tế mới ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa; bảo đảm chi
phí phù hợp với người dân ở nơi đây.
Thứ ba, Việt Nam cần phải giải quyết ngay các cơ chế, chính sách còn nhiều
vướng mắc, bất hợp lý khiến mỗi năm có hàng vạn người nghèo và cận nghèo
khơng có khả năng khám, chữa bệnh.
Thứ tư, Việt Nam cần phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan chỉ đạo các
đơn vị liên quan và địa phương triển khai công tác phịng ngừa khuyết tật bẩm
sinh và sơ sinh, Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và
Chương trình phát hiện sớm, can thiệp sớm trẻ em khuyết tật, trong đó ưu tiên
thực hiện phát hiện sớm, can thiệp sớm và điều trị đối với trẻ tự kỷ tại cộng
đồng; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương xây dựng
6


chiến lược, quy hoạch phát triển hệ thống các cơ sở phục hồi chức năng, chăm
sóc sức khỏe đối với người khuyết tật.
Trên đây là bản báo cáo nhận xét về Việt Nam của chúng tôi trong việc thực hiện
bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực y tế.

BÁO CÁO CỦA NHÓM NGO VỀ VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng thực hiện quyền con

thời, Việt Nam cũng khơng ngừng

người tại Việt Nam từ góc nhìn

nâng cao được nhiều thành cơng

NGO


trong cơng tác xây dựng và hồn

1.1.

Thành cơng trong cơng tác

thiện hệ thống chính sách và pháp

thực hiện QCN tại Việt Nam

luật, tạo điều kiện quan trọng trong

Bằng nỗ lực của mình, trong giai

việc đảm bảo QCN như việc đảm

đoạn 2019-2022, Việt Nam đã đạt

bảo quyền của nhóm người LGBT;

được nhiều thành tựu trong cơng tác

tích cực giảm hình phạt tử hình trong

QCN (QCN), được thể hiện qua một

hệ thống pháp luật hình sự, ….

số nét chính sau:


Thứ ba, Việt Nam không ngừng

Thứ nhất, mặc dù thế giới bước

nâng cao chất lượng QCN, cụ thể: từ

qua dịch bệnh COVID-19, song Việt

năm 2002 đến 2020, GDP đầu người

Nam vẫn đạt được tốc độ tăng

tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỷ

trưởng kinh tế khả quan. Đây được

lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày)

coi là một điều kiện thuận lợi để

giảm mạnh từ hơn 32% năm 2011

chính phủ Việt Nam đảm bảo tốt về

xuống còn dưới 2%; Y tế đạt nhiều

nguồn lực để đảm bảo việc thực hiện

tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng


QCN tại Việt Nam.

cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ

Thứ hai, Việt Nam đã tích cực

sinh giảm từ 32,6 năm 1993 xuống

tham gia nhiều tổ chức quốc tế và

còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ

các điều ước quốc tế về QCN. Đồng

sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ
7


70,5 năm 1990 lên 75,4 năm 2019,

-

Tình trạng nhận hối lộ trong việc

cao nhất giữa các quốc gia trong khu

khám chữa bệnh tại Việt Nam trở

vực có mức thu nhập tương đương.


thành một vấn nạn trong công tác

Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe

khám chữa bệnh;

tồn dân là 73, cao hơn trung bình

-

Khả năng tiếp cận cơ sở khám chữa

khu vực và trung bình thế giới, trong

bệnh và sự chênh lệch giữa các cấp

đó 87% dân số có bảo hiểm y tế;

khám chữa bệnh về nhân lực, vật lực

Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng

ảnh hưởng không nhỏ đến chất

cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính

lượng khám chữa bệnh.

đến năm 2019, 99% dân số sử dụng1.2.2. Bộ Cơng an

điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14%

-

Các hình thức tra tấn, bức cung, sử

năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận nước sạch

dụng nhục hình đã được giảm thiểu

nơng thơn cũng được cải thiện, từ

tuy nhiên đây vấn là một vấn đề lớn

17% năm 1993 lên 51% năm 2020;

cần được quan tâm và giải quyết triệt

….

để.

Đặc biệt, trong bối cảnh của đại

-

dịch COVID-19, Việt Nam đã tạm
gác công tác phát triển kinh tế để có

Vẫn cịn tình trạng bắt giữ người trái

phép;

-

Quyền tự do đi lại trong tình hình đại

những bước đi nhanh chóng trong

dịch gặp nhiều khó khăn do việc quy

cơng tác phịng, chống dịch COVID

định các mẫu giấy thơng hành trong

-19, đó là một chính phủ “đặt lợi ích

đại dịch.

của người dân lên trên lợi ích kinh 1.2.3. Bộ Lao động-Thương binh và Xã
tế”. Hơn nữa, Việt Nam đã tiến hành

hội

thành cơng việc tiêm chủng tồn dân

Mặc dù, chịu sự điều chỉnh chặt

vacxin COVID-19 trong toàn dân.
1.2.


chẽ của BLLĐ, tuy nhiên, vấn đề

Một số hạn chế trong công

QCN trong lĩnh vực lao động vẫn

tác thực hiện quyền con người ở
một số Bộ của Việt Nam

bộc lộ một số hạn chế:
-

1.2.1. Bộ Y tế

Vấn đề an toàn lao động của người
lao động vẫn chưa được đảm bảo;

8


-

-

Mức lương tối thiểu còn thấp chưa

những người làm mại dâm, những

đảm bảo được đời sống của người


người vi phạm pháp luật sau khi mãn

lao động;

hạn tù…

Sự phân biệt đối xử trong tuyển chọn

2. Khuyến nghị của NGO nhằm nâng

người lao động, sự phân biệt đối xử

cao chất lượng công tác quyền con

với cộng đồng LGBT, người phạm

người tại Việt Nam

tội, …;
-

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phát

Vấn đề bảo hiểm xã hội vẫn cịn

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa

chưa được NSDLĐ thực hiện một

đói, giảm nghèo… kết hợp với thực


cách nghiêm chỉnh.

hiện công bằng xã hội, nâng cao

● Lý giải ngun nhân những hạn

trình độ dân trí, đặc biệt là đối với

chế của Việt Nam trong thực hiện

đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,

quyền con người

vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

Thứ nhất, mặc dù Việt Nam ln

khó khăn

được xây dựng và hồn thiện tuy
Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc

nhiên, pháp luật vẫn đáp ứng được

tế về vấn đề nhân quyền nhằm trao

chưa đáp ứng được việc điều chỉnh


đổi, hợp tác nhằm nâng cao kinh

các vấn đề phát sinh trong xã hội

nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.

như luật về hội, …
Thứ hai, nhận thức của cán bộ,

Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hồn

cơng chức về nhân quyền cịn nhiều

thiện các chính sách, pháp luật nhằm

hạn chế, dẫn đến có những hành

đảm bảo ngày càng tốt hơn QCN đi

động cố ý hoặc vô ý vi phạm các

đơi với việc kiện tồn các cơ quan

quyền hợp pháp của công dân.

bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh

Thứ ba, điều kiện về cơ sở vật

cải cách hành chính, đẩy mạnh thực


chất và nhân lực cịn hạn chế trong

hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy

chăm sóc và hỗ trợ, giải quyết việc

quyền dân chủ của nhân dân trên cơ

làm tái hòa nhập xã hội cho các đối

sở pháp luật.

tượng người bị nhiễm HIV/AIDS,
9


Thứ tư, tăng cường công tác đào

Thứ năm, tuyên truyền, giáo dục

tạo nguồn nhân lực phục vụ trong

nhằm nâng cao nhận thức của người

công tác QCN;

dân về công tác nhân quyền;
Thứ sáu, huy động nguồn lực “xã
hội hóa” trong việc đảm bảo QCN.


10


Sau khi tiếp nhận các bản báo cáo của các Bộ, trình bày về những kết quả,
thành tựu đạt được trong quá trình thúc đẩy, phát triển quyền con người thì thay
mặt cho NGOs - Tổ chức phi Chính phủ tại Việt Nam, tơi sẽ đưa ra những phân
tích, đánh giá khách quan như sau:
Thứ nhất, đối với hoạt động của Bộ Giáo dục.
Giáo dục là vấn đề trọng yếu của một quốc gia, đấy là một vấn đề cơ bản
mà bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại, phát triển đều phải chú trọng thúc đẩy. Qua
đánh giá thực tế và bản báo cáo của Bộ Giáo dục thì chúng tơi có nhận xét rằng:
Về thành tựu đạt được:
● Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục cơ bản được
hoàn thiện; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, duy trì, nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; Ban
hành và tích cực triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới;
Chất lượng giáo dục được nâng lên. Như vậy, có thể thấy với những
thành tựu trên, Bộ GD đã từng bước đáp ứng quyền được giáo dục
quy định tại Điều 13, 14 ICESCR 1966.
● Miễn phí và phổ cập giáo dục tiểu học đối với tất cả mọi người; Có
thể tiếp cận với giáo dục ở cấp cao hơn một cách bình đẳng trên cơ
sở năng lực của mỗi người và từng bước miễn phí; Giáo dục cơ bản
cho những người chưa tiếp cận được hoặc chưa hoàn thành bộ
chương trình giáo dục tiểu học; Giáo dục có chất lượng ở cả trường
công và trường tư thục.
Về mặt hạn chế:
● Việc thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục ở một số địa phương còn
chưa nghiêm túc; chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn
thấp so với u cầu; Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số

(DTTS) còn thấp, vẫn tồn tại sự chênh lệch khá lớn về khả năng tiếp cận
giáo dục giữa các nhóm người, các nhóm dân tộc, đặc biệt tại các cùng
DTTS có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
● Tỷ lệ người DTTS chưa biết đọc, biết viết tiếng Việt còn khá cao; Trẻ em
vùng sâu vùng xa cịn gặp nhiều khó khăn về học tập (điều kiện kinh tế,
trường học cịn ít, thiếu giáo viên)
Với những bất cập trên Bộ Giáo dục chưa có các giải pháp thích hợp để
giải quyết, chưa thực hiện đáp ứng được hết quyền được học tập của trẻ
em được quy định tại Điều 18 - Công ước của LHQ về quyền trẻ em.
Trước thực tiễn như trên, NGOs đề xuất một số kiến nghị như sau:
● Hằng năm, trên cả nước, tại các trường cao đẳng, đại học đào tạo ra các
cử nhân ngành sư phạm rất nhiều thế nhưng tại các vùng cao, miền núi
11


vẫn ln có tình trạng thiếu giáo viên, NGOs đề xuất ý kiến Bộ Giáo dục
nên giao chỉ tiêu mỗi năm lấy một số lượng giáo viên thay nhau lên các
vùng miền này giảng dạy, vừa đáp ứng được nhu cầu việc làm, vừa giải
quyết được tình trạng thiếu giáo viên giảng dạy tại các cơ sở.
Thứ hai, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Trong thời gian qua, đại dịch Covid19 đã khiến cho nhiều lĩnh vực trong
đời sống xã hội bị ảnh hưởng, đặc biệt là những hoạt động của Bộ Văn hóa - Thể
thao - Du lịch. Bộ VH- TT- Du lịch tích cực đưa ra các phương án để phù hợp
với điều kiện thực tiễn như bấy giờ tuy nhiên do yếu tố khách quan nên Bộ phải
đối mặt với nhiều hạn chế và điều đó cũng đã ít, nhiều tác động tiêu cực đến
quyền con người. Cụ thể: Con người bị hạn chế tham gia các hoạt động văn hóa,
thể dục thể thao; Các địa điểm du lịch phải đóng cửa, khơng thể tiếp đón khách
du lịch tham quan,...
Việt Nam là quốc gia chú trọng việc phát triển văn hóa. Hiện nay, vấn nạn
bạo lực trên khơng gian mạng, phát ngơn vơ văn hóa ở giới trẻ đang ngày càng

gia tăng, NGOs thấy rằng Việt Nam chưa có những chính sách, biện pháp áp
dụng thực tế để hạn chế, ngăn ngừa vấn nạn này.
Chúng tôi chưa thấy Việt Nam có các biện pháp thực tế thúc đẩy giới trẻ
giữ gìn truyền thống văn hóa. Chẳng hạn như hát ca trù, dân ca quan họ, kịch
hí,... Đó là những nét đẹp truyền thống, bản sắc dân tộc cần được duy trì, phát
triển.
Kiến nghị mà chúng tơi đưa ra như sau:
Bộ VH- TT- DL nên đẩy mạnh hợp tác với Bộ Giáo dục trong việc giáo
dục con người, đặc biệt là trẻ em văn hóa lành mạnh, bài trừ những vấn đề tiêu
cực, đưa thực tiễn hơn là lý thuyết vào giảng dạy; đẩy mạnh việc trải nghiệm
thực tế; Về văn hóa trên khơng gian mạng thì Bộ nên cùng các cơ quan có liên
quan đưa ra quyết định hạn chế các thông tin bạo lực, mang tính bơi nhọ danh
dự, uy tín của NN, của các cá nhân,...



Thứ ba, hoạt động của Bộ Y tế
Những thành tựu mà Bộ Y tế đã đạt được như sau:
Thực hiện tốt công tác đảm bảo sức khỏe cho mọi người, mọi nhà. Đặc
biệt, trong 2 năm 2020 và 2021 dịch Covid-19 hoành hành trên cả nước,
Bộ Y tế kết hợp với toàn dân cả nước chống dịch; Các bệnh viện ln cải
tiến các thủ tục hành chính để thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về
việc cải tiến quy trình khám bệnh và nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh; Hỗ trợ và vận chuyển người bệnh một cách phù hợp với mức độ và
tình trạng bệnh lý của người bệnh trong suốt quá trình khám chữa bệnh.
Bên cạnh những hoạt động mang tích cực mà Bộ Y tế đã thực hiện được
thì cũng có khơng ít những hạn chế, tồn đọng:
● Sự phân hố giàu nghèo vẫn cịn xảy ra trong một số trường hợp
nhất định. Cụ thể:
12



Khi đến khám bệnh, viện người giàu được ưu tiên vào khám trước
người nghèo mà không cần xếp hàng đã tạo nên sự bất bình đẳng
mà lẽ ra sự ưu tiên là không thể xuất hiện.
● Hay là kể đến trường hợp các con, cháu của các người có tiềm lực
về tài chính ở nước ngồi đã được “ưu ái” trở về nước khi Nhà
nước có chính sách hỗ trợ người nước ngồi trở về trong đại dịch.
● Vẫn cịn 1 số trường hợp, bệnh viện từ chối nhận bệnh nhân cấp
cứu để rồi dẫn đến việc bệnh nhân tử vong.
NGOs nhận thấy những hạn chế này ảnh hưởng đến rất nhiều đến quyền
con người, nhất là với tình thế hiện nay, dịch Covid là vấn đề liên quan đến
mạng sống, chính vì thế mà Bộ Y tế cần phải đưa ra những biện pháp riêng,
mang tính cưỡng chế nhiều hơn nữa để giải quyết, hạn chế tối đa nhất những tồn
tại bất cập như trên để xã hội tiến đến văn minh, bình đẳng.


Thứ tư, Bộ Cơng an
Nói đến Bộ Cơng an là nói đến những hoạt động có tính chất an ninh quốc
phịng, đảm bảo xã hội ổn định. Sau khi phân tích, nghiên cứu đến các
chính sách, thực tiễn áp dụng của Bộ thì chúng tơi có đưa ra nhận xét như
sau:
Kết quả đạt được:
● Công tác điều tra, truy tố, đặc xá, tha tù ngày càng được đảm bảo,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thể hiện sự nghiêm
minh của pháp luật nhưng đồng thời cũng có những biện pháp cảm
hóa, giáo dục thể hiện chính sách khoan hồng, tạo cơ hội để người
có tội nhanh chóng có thể hịa nhập với cộng đồng;
● Trong q trình đấu tranh, phịng chống tội phạm, cán bộ chiến sỹ
thực hiện nghiêm túc việc bảo đảm quyền con người; Quan tâm

công tác định hướng tuyên truyền và đấu tranh phản bác các luận
điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở Việt Nam.
Tuy nhiên, Bộ Công an cũng có những hạn chế như sau:
- Tình trạng bức cung, dụ cung, dùng nhục hình trong hoạt động
điều tra vẫn còn xảy ra; Vẫn còn những trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự
người khơng có tội hoặc chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự; Cịn có những
vi phạm trong bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
Ttrong thời gian gần đây, số lượng các cán bộ công an, bộ đội sử dụng mạng xã
hội như tik tok, facebook,... để đăng tải các bức hình, video trong quân đội ngày
càng nhiều, làm ảnh hưởng đến tính cơ mật của an ninh quốc gia. Chính vì thế
mà NGOs đề nghị Bộ Cơng an phải có những hành động mang tính răn đe hơn
nữa đối với những trường hợp này. Đặc biệt, thời gian gần đây, trong quân ngũ
tại các địa điểm huấn luyện lính nghĩa vụ có lính nghĩa vụ tử vong. Đây là vấn
đề mang tính đặc biệt, xử lý kín của Bộ Cơng an, quốc phịng nhưng NGOs kiến
nghị các cơ quan có liên quan phải kịp thời ngăn chặn những tình huống như
trên. Trong quá trình điều tra đề cao tính cơng bằng, minh bạch; tránh làm dư
luận hoang mang.
13


Thứ năm, Bộ Lao động Thương binh xã hội
Kết quả đạt được:
● Cơ bản thực hiện tốt chính sách đối với người có cơng, bảo đảm an sinh
xã hội; đa có những chính sách nhằm chăm lo, trợ giúp đối tượng yếu thế,
nhất là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội; Thực hiện tốt công tác
quản lý NN hiệu quả với các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để
vừa phát huy vai trò của các tổ chức đại diện người lao động trong quan
hệ lao động, đồng thời bảo đảm các tổ chức này được thành lập đúng tơn
chỉ, mục đích theo quy định của pháp luật.
Hạn chế mà Bộ cần khắc phục:

● Nhóm người yếu thế trong xã hội vẫn chưa hoàn toàn được đối xử bình
đẳng, cơng bằng, chưa có nhiều chính sách thúc đẩy nhóm người yếu thế
trong xã hội tham gia vào đời sống xã hội, cải thiện mức độ e ngại trước
đám đông của họ;
● Người vô gia cư, người không nơi nương tựa ngày càng đông do sự chênh
lệch về kinh tế, về quan hệ trong đời sống; Tầm bao phủ của hệ thống an
sinh xã hội tại Việt Nam hiện nay còn khiêm tốn, nhất là đối với người
nghèo và nhóm người dễ bị tổn thương; Vấn đề việc làm cũng là vấn đề
mà Bộ cần phải giải quyết khi mà nhu cầu việc làm của người dân tăng
cao.
Thứ sáu, Bộ Công thương
Thành tựu:
Thời gian vừa qua, Bộ Công thương liên tục đẩy mạnh hợp tác với các
doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài, mở rộng thị trường kinh tế,
thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam ra thị trường thế
giới; Bộ Cơng thương khơng ngừng đưa ra các chính sách để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam; Tích cực chuyển đổi, ứng dụng các cơng nghệ thơng
tin vào q trình phát triển;...
Bộ Cơng thương tăng cường hợp tác, tạo thuận lợi cho thương mại song
phương, đa phương và hỗ trợ cho doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch.
Tuy nhiên, Bộ Cơng thương có những hạn chế sau:
● Tìm kiếm được thị trường tiếp nhận nơng sản của Việt Nam tuy nhiên
không đảm bảo được về mặt chất lượng của sản phẩm. Bộ chưa siết chặt
vấn đề tự tìm kiếm thị trường của người dân nên dẫn đến tình trạng nơng
sản ứ đọng do thương nhân nước ngồi đặt hàng nhưng không nhận, vấn
đề này khiến cho thu nhập của người dân không được đảm bảo, kinh tế
chậm phát triển dẫn đến ảnh hưởng đến quyền kinh tế của người dân.
● NGOs thấy rằng, chiến lược mà Bộ Cơng thương đưa ra khơng được thực
thi rõ ràng, cịn nhiều thiếu sót và chưa phù hợp với tình hình chung của
đất nước.

Trên đây là bản báo cáo đánh giá, nhận xét tổng quát của NGOs - Tổ chức
phi chính phủ tại Việt Nam về tình hình phát triển của các Bộ. Bản báo cáo thể
14


hiện cái nhìn khách quan, cơng tâm đối với hoạt động, chính sách của các Bộ.
Rất mong được sự đón nhận và phản hồi từ các Bộ có liên quan.

15


A. Những chính sách mới liên quan đến đảm bảo quyền học tập của

công dân
Trong thời gian đại dịch COVID-19 diễn ra, học sinh, sinh viên trên khắp
cả nước không thể đến trường, phải học trực tuyến ở nhà thì việc đáp ứng nhu
cầu về trang thiết bị và đường truyền rất quan trọng. Trong khi khả năng trang bị
cho con cái, đặc biệt đối với gia đình có hơn một người con học tiểu học và các
gia đình nghèo, yếu thế hoặc sống ở vùng sâu, vùng xa, là cực kỳ khó khăn. Để
đảm bảo việc học tập được giữ vững Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính
sách:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Thơng tin và Truyền thông đã kịp thời
ban hành Kế hoạch số 3667/KH-BTTTT-BGDĐT, phối hợp thực hiện Chương
trình “Sóng và máy tính cho em” với 3 nội dung: bảo đảm việc phủ sóng di
động; hỗ trợ máy tính phục vụ học trực tuyến; một số hỗ trợ khác cho các địa
phương đang thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg và tổ chức dạy, học
trực tuyến.
- Đến năm 2021 triển khai phủ sóng tồn bộ 283 điểm chưa có kết nối intơ-nét di động tại các địa phương thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg và
thực hiện học trực tuyến.
-Từ năm 2022-2023, hai Bộ tiếp tục phát động Chương trình để huy động

mọi nguồn lực trong xã hội, hướng tới mục tiêu 100% học sinh, sinh viên thuộc
hộ nghèo, cận nghèo trên tồn quốc được trang bị máy tính để có thể học trực
tuyến.
-Ngồi ra, đối với các địa phương thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CTTTg và tổ chức dạy, học trực tuyến, Chính phủ chủ trương có một số hỗ trợ khác
như: miễn phí 100% sử dụng các nền tảng dạy, học trực tuyến Việt Nam đã được
cơng bố; miễn phí data 4GB/ngày cho 1 triệu học sinh, sinh viên thuộc các đối
16


tượng ưu tiên nói trên; hỗ trợ các gói cước, hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ
việc dạy và học trực tuyến, bao gồm: máy chủ, chỗ đặt máy chủ, đường truyền
in-tơ-nét bảo đảm việc dạy, học trực tuyến ở các địa phương trong nước.
Gần đây nhất, Ban Chỉ đạo quốc gia phịng, chống COVID-19 và Thủ tướng
Chính phủ cũng chủ trương triển khai một “Kế hoạch thích ứng an tồn, linh
hoạt, kiểm sốt hiệu quả COVID-19 để phát triển kinh tế - xã hội”, trong đó có
nhiệm vụ và trách nhiệm của ngành Giáo dục - Đào tạo.


Thơng tư 33/2021/TT-BYT của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy
định về công tác y tế trường học trong cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo
dục nghề nghiệp có hiệu lực từ ngày 15/2/2022.



Thơng tư 43/2021/TT-BGDĐT quy định về đánh giá học viên theo học
Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và cấp THPT.



Nghị định số 81/2021/NĐ-CP về Cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ

sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm
học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo.



Quyết định số 1282/QĐ-BGDĐT Ban hành Kế hoạch tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai
đoạn 2022-2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

B. Những thành tựu đạt được trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền trên
thực tế
- Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản
được hoàn thiện. Bộ GD-ĐT đã rà sốt, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và
ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất
cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham
mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
17


Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục (sửa đổi, ban hành mới) năm
2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập
giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành với tỷ lệ huy động
trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước
đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh,
thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3...

- Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương
này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ.
- Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng
lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Theo báo cáo năm 2020 của Ngân
hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng
thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển.
- Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học
sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực. Trong Chương trình giáo dục phổ
thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú
trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục.
- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo
dục, đào tạo. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn
100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
- Đặc biệt là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển
đổi số trong ngành giáo dục. Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn
18


ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo
dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các
hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện
mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phịng, chống
dịch Covid-19. Tồn ngành Giáo dục đẩy mạnh tổ chức triển khai dạy học trực
tuyến, dạy học trên truyền hình. Đối với các địa phương cơ bản kiểm sốt được
dịch hoặc vùng xanh, vùng vàng, tận dụng thời gian dạy học trực tiếp, học thực
hành, ơn tập lí thuyết đã học trực tuyến, học trên truyền hình; tập huấn kĩ năng
dạy học trực tuyến, dạy học trên truyền hình cho giáo viên. Tiếp tục triển khai

đào tạo trực tuyến kết hợp trực tiếp, các cơ sở GDĐH đã kịp thời điều chỉnh kế
hoạch giảng dạy trong năm học 2021-2022, như tổ chức cho các khóa sinh viên,
học viên đang học được học trực tuyến bắt đầu kỳ học mới sớm hơn, bố trí lại
các giờ học lý thuyết, thực hành cho phù hợp với điều kiện phòng chống dịch
bệnh tại địa phương. Về việc chuẩn bị các điều kiện tổ chức dạy học, Bộ đã tổ
chức tập huấn giáo viên về phương pháp dạy học trực tuyến; tập huấn cho hơn
1.000 cán bộ, giáo viên ở các trường phổ thơng trên tồn quốc về tư vấn, hỗ trợ
tâm lý học sinh trong bối cảnh dịch COVID-19. Tổ chức xây dựng, lựa chọn hệ
thống bài giảng để tổ chức dạy học trực tuyến.

C. Những vấn đề còn chưa được bảo đảm
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác bảo vệ quyền học
tập cho mọi công dân ở Việt Nam trong những năm qua thì bên cạnh đó song
song với những thành tựu đạt được chúng ta nhận thấy vẫn còn tồn tại những
vấn đề chưa được bảo đảm trong việc bảo đảm quyền học tập cho mọi công dân,
cụ thể như:
Thứ nhất, nếu như ở các đô thị, quyền học tập của trẻ em được các gia
đình phần lớn quan tâm đảm bảo tốt thì ở các vùng miền núi, các vùng sâu, vùng
xa thì quyền học tập của trẻ vẫn còn bị hạn chế nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là
19


mức sống của người dân còn thấp, ý thức của gia đình các bậc cha mẹ chưa
cao…. vì vậy, vẫn xảy ra nhiều trẻ em không được đi học đúng độ tuổi, các trang
thiết bị như sách vở, bàn ghế, trường lớp để phục vụ nhu cầu học tập thiết yếu
của trẻ chưa được đảm bảo. Do đó, chất lượng giáo dục dù đã phấn đấu nhiều
nhưng vẫn cịn có sự yếu kém so với mặt bằng chung của cả nước.
Thứ hai, theo quy định pháp luật, quyền được học tập của trẻ em còn được
thể hiện qua việc: trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục cơng lập
khơng phải trả học phí. Quy định này thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta

luôn chăm sóc tới trẻ em, tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ em. Tuy nhiên, trong xã
hội diễn ra thực trạng, trẻ được miễn học phí nhưng lại phải đóng q nhiều
khoản tiền khác khiến một số gia đình gặp khó khăn trong việc đảm bảo quyền
được học tập cho trẻ em.
Thứ ba, là quyền học tập của trẻ em nhiễm HIV còn chưa được đảm bảo:
Các em bị nhiễm HIV đang rơi vào tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử gây trở
ngại cho việc học tập của trẻ em nhiễm HIV rất nổi cộm ở các nhà trường, song
chủ yếu là do người lớn chứ trẻ em thì rất vơ tư. Chỉ có rất ít trường học ở Việt
Nam hiện nay chấp nhận dạy dỗ trẻ em nhiễm HIV hịa nhập với trẻ em bình
thường, cịn đại đa số là khơng chấp nhận.
Thứ tư, sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục với chính sách hộ khẩu,
khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, vùng DTTS; giáo dục về nhân quyền trong các cấp học chưa được đầu tư
thỏa đáng. Chi phí giáo dục khá cao so với thu nhập của người dân đặc biệt là
khu vực thành thị. Trẻ em DTTS cịn gặp rào cản về ngơn ngữ khi bắt đầu tới
trường. Một bộ phận trẻ em nghèo, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt chưa được tiếp
cận với giáo dục.
Thứ năm, đối với trẻ em khuyết tật, nhiều trẻ em khuyết tật không tiếp cận
được các chương trình giáo dục vì thiếu các cơ sở giáo dục hòa nhập cho người

20


khuyết tật. Chưa có khơng gian, mơi trường để trẻ em khuyết tật được học tập,
sáng tạo theo cách của các em.
Thứ sáu, nguồn lực đầu tư cho giáo dục có hạn, chưa đáp ứng được yêu
cầu bảo đảm chất lượng giáo dục trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước,
hội nhập quốc tế. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh chưa
được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông mới
quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến

“dạy người” và “dạy nghề” cho học sinh; việc thi cử còn nặng về điểm số dẫn
đến gây áp lực cho học sinh…

21


LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
UPRVN 2023 ( BỘ CÔNG AN VIỆT NAM )
1. Tổng quan trong giai đoạn 2019-2022 Bộ Công an VN đã thực hiện

tốt những quyền sau:
- Quyền được sống, được tự do và an toàn cá nhân (Điều 6 ICCPR)
- Quyền được xét xử công bằng (Điều 10 và 11 UDHR).
- Quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 13 UDHR).
- Quyền kết hơn, lập gia đình và bình đẳng trong hơn nhân (Điều 16 UDHR;
Điều 23 ICCPR).
- Quyền tự do ngôn luận (Điều 19 UDHR; Điều 19 ICCPR).
- Quyền tham gia quản lí đất nước mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các
đại diện mà họ được tự do lựa chọn (khoản 1 Điều 21 UDHR, Điều 25 ICCPR).
- Quyền được làm việc và tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều
kiện làm việc công bằng ( Điều 23 UDHR, Điều 6, Điều 7 ICESCR).
- Quyền được giáo dục, học tập (Điều 26 UDHR).
- Quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa cộng đồng, được thưởng thức nghệ
thuật và chia sẻ tiến bộ khoa học ( Điều 27 UDHR, Điều 15 ICESCR).
- Quyền tham gia quản lí đất nước mình một cách trực tiếp hoặc thơng qua các
đại diện mà họ được tự do lựa chọn (Điều 21 UDHR, Điều 25 ICCPR).
* Ví dụ:
Vd 1: Ngày 15/9/2019, ba chiến sĩ Cơng an thuộc Phịng Cảnh sát cơ động,
Công an tỉnh An Giang đã cứu một người phụ nữ đốt xe rồi gieo mình xuống sơng
22



Hậu. Hành động này thể hiện lý tưởng “Vì nước quên thân, vì dân quên mình” đã
trở thành phẩm chất cao quý của người chiến sỹ Công an. (Điều này được thể hiện
trong quyền sống, quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, thân thể).
Vd 2: Qua công tác đấu tranh, xử lý tội phạm và tệ nạn ma túy cho thấy, hiện
nay tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố Thanh Hóa vẫn diễn
biến phức tạp. Các đối tượng hoạt động theo phương thức, thủ đoạn ngày càng
manh động, tinh vi, xảo quyệt. Đáng chú ý, tình trạng thanh thiếu niên sử dụng ma
túy có chiều hướng ngày càng gia tăng....Để chủ động phòng ngừa và đấu tranh
kiềm chế làm giảm tội phạm và tệ nạn ma túy, thời gian qua Công an thành phố
Thanh Hóa đã chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tăng cường cơng tác
lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh chống ma túy, đồng thời phát huy vai trị, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và tồn dân tích cực tham gia phịng ngừa, đấu tranh, tố giác tội phạm,
quản lý, giáo dục, giúp đỡ người nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng. (Điều
này thuộc quyền tham gia quản lý nhà nước và XH).
2. Những quyền bộ cơng an cịn làm chưa tốt:
- Đầu tiên là quyền không bị tra tấn, đối xử dã man, tàn nhẫn hay xúc phạm
nhân phẩm (Điều 7 ICCPR) và Quyền được bảo vệ sự riêng tư (Điều 17 ICCPR).
Điển hình là cịn xảy ra những vụ việc công an hành hung người dân. Vd về một vụ
việc thực tiễn: Ngày 28/04/2022, ơng Đặng Đình Đồn, Phó công an phường Sông
Bằng (Cao Bằng), bị xác định "thiếu kiềm chế", "bức xúc" đòi bắt người, tát vào
đầu nam thanh niên và phụ nữ. Hay như vẫn còn tồn tại việc tra tấn phạm nhân
trong các trại tạm giam. VD: Lê Chí Thành, cựu đại úy cơng an bị bắt giam vào
tháng 4-2021, bị những đòn thù tra tấn dã man ở Trại tạm giam Công an Thành phố
Thủ Đức.
- Tiếp đến là quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú (Điều 12 ICCPR). Do ảnh
hưởng đại dịch Covid-19, tuy việc giãn cách và hạn chế đi lại là cần thiết nhưng bộ
23



cơng an chưa có biện pháp tiện ích giúp người dân dễ dàng lưu thông trên đường,
và các mẫu giấy đi đường vẫn cịn phức tạp.
- Và cuối cùng, đó là quyền tự do ngơn luận và bày tỏ chính kiến (Điều 19
ICCPR). Cụ thể, đã để xảy ra một số vụ việc nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến
danh dự, nhân phẩm, tính mạng của nhiều người cũng như uy tín của lực lượng
Cơng an nhân dân. Cơng tác đấu tranh ngăn chặn, vơ hiệu hố hoạt động chống đối
của một số tổ chức cịn hạn chế. Ngồi ra cơng tác quản lý cán bộ, bảo vệ nội bộ
cũng còn sơ hở dẫn đến còn để xảy ra việc lộ, lọt bí mật trong ngành.
- Lý do mà BCA thực hiện các quyền trên chưa tốt là do:
+ Thứ nhất, lực lượng công an ngày càng phát triển, số lượng đang tăng dần
nhưng công tác tuyển chọn, đào tạo nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức chưa thật sự
kĩ càng và được đào sâu quan tâm nên các hiện tượng tiêu cực vẫn cịn xảy ra và
một số cán bộ khơng đủ khả năng cũng như kiến thức để giải quyết các vấn đề
ấy. Từ đó dẫn đến cách cư xử, thái độ làm việc không hợp lý, thiếu cẩn trọng và
kém chuyên nghiệp.
+ Thứ hai, còn tồn tại những cán bộ chưa ý thức được vai trò quan trọng của
bản thân trong việc làm gương và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nhất là
phải bảo vệ bí mật của ngành, của nhà nước vì đây là vấn đề nghiêm trọng ảnh
hưởng tới an nguy quốc gia.
+ Thứ ba, quyền lực của bộ công an đang lớn dần nên nhiều cán bộ trở nên khá
coi thường luật pháp, âm thầm lách luật và khơng làm đúng chức trách, nhiệm
vụ mình được giao, gây thêm nhiều bất lợi cho nhân dân. Ngoài ra cịn khơng ít
người dựa vào địa vị và thân phận cơng an của mình để thị uy, đe nẹp, chèn ép
người dân một cách vô lý.
3. Khuyến nghị

24



3.1. Về bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm và
an toàn thân thể.
Về thực trạng, hiệu quả bảo vệ đương sự trong phiên tòa chưa cao (ví dụ về
việc chồng cầm dao đâm chết vợ trong phiên tòa tại trụ sở Tòa án ở Bắc Giang).
Vì vậy cần:


Tăng cường cơng tác kiểm tra, bảo vệ an ninh quốc gia, an tồn xã hội



Đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, áp dụng các tiến bộ công nghệ trong
công tác cứu hỏa, cứu hộ, cứu giúp người bị nạn



Thực thi nghiêm trị hành vi xâm hại đến quyền sống, quyền được bảo hộ
tính mạng và an toàn thân thể.

3.2.

Quyền tự do đi lại, tự do cư trú.

Cần khắc phục một số nhược điểm như: yêu cầu về giấy đi đường, mẫu giấy,
ứng dụng khai báo,... Thấy rằng, thực thi trong bối cảnh hiện tại đó là: Sau giai
đoạn cao điểm của đại dịch Covid, BCA phối hợp cùng các cơ quan chức năng
đã từng bước khôi phục quyền tự do đi lại, tự do cư trú, và tự do xuất nhập cảnh
của công dân Việt nam và cơng dân nước ngồi.
3.3.


Quyền tự do ngơn luận, báo chí, hội họp

Việt Nam là quốc gia thuộc tốp cao có cơng dân tham gia mạng xã hội (MXH),
với hơn 70%, tức là hơn 70 triệu người cùng tham gia, chia sẻ thông tin, thực
hiện quyền tự do ngôn luận. Nước ta cũng có 780 cơ quan báo chí, thuộc đủ các
loại hình báo và tạp chí, phát thanh, truyền hình và báo điện tử, là cơ quan ngơn
luận của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đại diện ngơn luận cho đủ các tầng
lớp nhân dân, các nhóm xã hội lớn.
Giải pháp bảo đảm quyền:


Quản lý khơng gian mạng, bảo đảm an tồn khơng gian mạng, ngăn chặn
các hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận: cần phân loại các luồng ý
kiến để xử lý những ý kiến quá khích, đặc biệt là các ý kiến cố ý gây
nhiễu, đả kích, chống phá, gây rối dư luận xã hội.
25


×