PHẦN MỞ ĐẦU :
Bi kịch là một hình thức kịch dựa trên sự đau khổ của con người, khiến cho khán
giả cảm thấy bị thu hút hoặc hứng thú khi xem. Thể loại bi kịch thường được vận
dụng vào các loại hình hư cấu khác như phim ảnh, tiểu thuyết, truyện tranh,…nhằm
tạo cho người xem những mối đồng cảm với hoàn cảnh của nhân vật và đạt đến
mức độ xúc động sâu sắc. Bi kịch có thể là yếu tố chủ đề của tác phẩm, hoặc ám chỉ
đến tâm điểm chính là một kết thúc chứa đựng sự mất mát to lớn về nhiều mặt.
Chúng ta biết đến bi kịch cổ điển Pháp, nhân vật chính thường xuất thân từ một gia
đình giàu có, q phái hoặc hồng gia. Họ thường là một nhân vật cao quý và anh
hùng, nhưng có một lỗ hổng bi thảm. Bi kịch cổ điển có một cốt truyện thống nhất.
Câu chuyện thường kể về quý tộc hay hoàng tộc, tham vọng của họ, cố gắng thống
nhất hoặc cứu một vương quốc,... Ngoài ra, số phận và sức mạnh thần thánh là
những yếu tố quan trọng trong các bi kịch cổ điển.
Trong văn học cổ điển Pháp thế kỉ XVII, bi kịch là loại hình nghệ thuật lớn mạnh,
nhanh, liên tục, đạt tới tột đỉnh vinh quang và đã gây nên nhiều chấn động lớn.
Corneiller và Racine là những đại diện ưu tú nhất cho những thời kì khác nhau và
những phong cách khác nhau của bi kịch cổ điển Pháp.
Tác giả
1. Cuộc đời
- Sinh tại Ruăng xứ Normăngđi, trong một gia đình cơng chức. Sau khi tốt nghiệp
trường dịng ơng học luật và đỗ luật sư. Sông một cuộc sống dễ chịu ở quê nhà, say
mê thơ ca và sân khấu.
- Pie Cornay là một trong những tên tuổi lừng lẫy nhất của lịch sử văn học Pháp. Vì
vị tí của ơng, vì những sáng tác lớn của ơng, Cornay đã đóng một vai trị đặc biệt.
- Trước hết, ơng được coi như người đã khai sinh ra nền nghệ thuật sân khấu dân tộc
Pháp. Từ Cornay trở về trước, kịch dân gian Pháp cịn rất non trẻ, chưa có tổ chức,
chưa có quy tắc sáng tác, chưa thành một loại hình nghệ thuật hẳn hoi, chỉ thuần túy
giải trí bằng cái cười dễ dãi. Phải đến Cornây, những vở kịch lớn thỏa mãn được
nhưng địi hỏi mới của cơng chúng nghệ thuật mới thực sự chiếm lĩnh sân khấu
Pháp.
- Sau nữa Cornay còn được coi như người dọn lối cho hàng loạt sáng tác viết theo
phương hướng của chủ nghĩa cổ điển Pháp.
3 thời kì sáng tác
Các thời kì sáng tác
Thời kì 1
- Năm 1629, ông viết vở kịch đầu tiên – Mêlitơ.
- Năm 1635, ông viết vở bi kịch đầu tiên Mêđê, rút ra từ đề tài thần thoại. Dù
Cornay đã cố sáng tạo thêm nhiều hình tượng trung tâm của vở kịch có tính người
hơn, nhưng vở kịch vẫn chưa thu được kết quả đáng mong đợi.
- Sau đó, hướng về mảng đề tài Tây Ban Nha, Cornay viết một số bi hài kịch , trong
đó nổi bật lên như một ngơi sao chói lọi là vở Lơ Xit (1637). Vở kịch châm ngịi
cho những cuộc bút chiến nảy lửa lơi cuốn hầu hết mọi tầng lớp xã hội.
Thời kì 2
- Quan trọng nhất là thời kì sáng tác thứ hai (1636 – 1643), thời kì của những kiệt
tác trứ danh nhất. Mượn đề tài từ văn học Cổ đại, Cornay đã làm sống lại lý tưởng
anh hùng La Mã cộng hòa với những con người xuất chúng.
- Năm 1640, Cornay viết hai vở Orax và Xinna. Năm 1643, Cornay viết vở Pôliơctơ
và Cái chết của Pômpê.
- Năm 1644, vở kịch Rôđôguyn ra đời đánh dấu một bước ngoạt mới trong sáng tác
của Cornay. - Hiện tượng đột xuất trong thời kì sáng tác thứ ba này là vở bi kịch
Nicơmeđơ (1651) báo hiệu sự chuyển hướng mới trong khuynh hướng tư tưởng
nghệ thuật kịch của Cornay. Sau thất bại cuối cùng với vở kịch Xuyrêna (1674) ông
vĩnh viễn rút khỏi sân khấu và mất năm 1684.
Thời kì 3
- Phù hợp với yêu cầu chính trị cấp bách của thời đại, bi kịch của Cornay gây được
sự chú ý đầu tiên.
- Cornay khẳng định hành động là linh hồn của bi kịch và phải là duy nhất; trong
kịch người ta vừa nói vừa hành động và nói để hành động.
- Thêm nữa, sức hấp dẫn của những bi kịch này còn là ở sức mạnh phi thường về
nghệ thuật bộc lộ ở những cốt truyện li kì, nhưng tình huống éo le và căn thảng, ở
hình tượng chói lọi của người anh hùng gang thép, một ngôn ngữ rắn rỏi, cơ đúc, ở
một bút pháp sang sảng tính hung biện, một mặt phản ánh được khơng khí rạo rực,
sơi nổi của nửa đầu thế kỉ XVII, một mặt thỏa mãn được nhu cầu thẩm mỹ của cơng
chúng Pháp thời kì đó.
- Theo quan điểm của Cornay, làm nổi bật lên một bản lĩnh mãnh liệt xung đột với
một tình thế phi thường tịn tại trong lịch sử thì đó là bi kịch
2. Đặc điểm bi kịch
3. Kiểu nhân vật anh hùng
- Tình cảm và lí trí là hai khía cạnh riêng biệt, đối lập khơng thể dung hịa trong bản
tính con người, phải dứt khoát chọn một trong hai khái cạnh đó. Tiếng gọi cảu lí trí
giục giã người ta gác bỏ tình cảm, khước từ lợi ích riêng. Nó là thước đo để định giá
phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng trong bi kịch Cornay, nó biến bi kịch
Cornay thành “ trường học của những tâm hồn dung cảm”. Nó hướng người anh
hung của Cornay đi lên phục vụ cho lí tưởng cao cả thể hiện tập trung ở Nhà nước
phong kiến chuyên chế.
- Trong tác phẩm của Cornay, mọi yếu tố từ hành động, hoàn cảnh lịch sử cho đến
tính cách đều tập trung làm nổi bật lên ý chí anh hùng, dấu hiệu của nhân cách cao
thượng. Cả văn phong cũng là văn phong hành động.
Tác phẩm
Sau gần nửa thế kỉ hoạt động văn học, Cornay đã để lại một sáng tác phong phú.
Nổi tiếng nhất trong những tác phẩm của Corneille là những vở: Lơ Xit (1636),
Orax, Xinna (1640), Pơliơctơ, Người nói dối (1643).
Vở kịch vào hang nổi tiếng nhất của Cornay và của sân khấu cổ điển Pháp, ra mắt
nhất lần đầu, với tư cách là một vở bi – hài kịch, tại rạp hát Mare (Pari) tháng XII
năm 1636. Thắng lợi của nó thật là huy hồng.
1. Tóm tắt vở kịch Andromaque
Như hầu hết các tác phẩm của Racine, bi kịch Andromaque tuân thủ đầy đủ các quy
tắc của chủ nghĩa cổ điển, từ thể loại (bi kịch viết bằng thơ, gồm có 5 hồi) đến đề tài
(lấy đề tài từ bi kịch Hy Lạp cổ đại). Vở kịch xoay quanh 4 nhân vật chính là
Andromaque, người vợ góa của đại tướng Hector và là tù nhân của Pyrrhus;
Pyrrhus, con đại tướng Achille và là vua xứ Épire; Hermione, con gái nàng Helene
và là người yêu của Pyrrhus, và chàng Oreste, con đại tướng Agamennon, vô cùng
yêu nàng Hermione.
Viết Andromaque, Racine đã lấy đề tài từ một vở bi kịch cổ đại Hy Lạp. Sau cuộc
chiến tranh Troie, Hemione con gái của Ménélas được hứa gả cho Pyrrhus con trai
của Achille. Song, Pyrrhus lại quay lưng với nàng vì đã u say mê Andromaque,
vợ góa của vị tướng thành Troie Hector. Mặc cho Pyrrhus tìm đủ mọi cách ép buộc,
Andromaque vẫn chung thủy với người chồng đã mất. Trong lúc đó, người Hy Lạp
phái Oreste, người đang đơn phương yêu Hermion, đến đòi Pyrrhus giao đứa con
của Hector. Nhân cơ hội này, Pyrrhus ép Andromaque phải lấy hắn để cứu đứa bé.
Buộc phải lựa chọn giữa tình yêu chồng và tình thương con, Andromaque quyết
định vờ chấp nhận lấy Pyrrhus rồi tự tử ngay sau lễ cưới để vẹn tròn nghĩa vụ.
Hermione biết tin, giận dữ chấp nhận tình yêu của Oreste và yêu cầu Oreste giết
Pyrrhus cho mình. Trong lễ cưới, Oreste giết chết Pyrrhus đang sơ hở khơng hề
phịng bị. Pyrrhus chết, Hermione đau đớn tự sát, cịn Oreste tuyệt vọng hóa điên ,
phải chạy trốn lệnh truy nã của hoàng hậu mới Andromaque.
2. Bi kịch và cuộc đấu tranh bảo toàn vẻ đẹp lý tưởng trong Andromaque
Vở kịch Andromaque là một tấn bi kịch xoay quanh các nhân vật. Trong vở kịch, có
thể nói bi kịch nhất chính là chàng Pyrrhus, một vị vua trẻ tài ba, lịch thiệp, giỏi
giang, nhưng lại rơi vào vịng xốy si mê với người đà bà bị xem là nô lệ của vương
quốc.
Sự say mê ấy nung nấu ruột gan chàng, thơi thúc chàng tìm cách thỏa mãn, cố gắng
tìm mọi cách để chiếm được tình yêu của Andromaque. Vì đắm đuối trong tình yêu
với Andromaque mà chàng trở thành một kẻ hung bạo, quẫn trí, lại có phần khinh
bạc, không giống như bản chất lịch thiệp, hào sảng của một vị vua trẻ tuổi mà chàng
đã từng xây dựng.
Chàng dám chống lại cả vương triều tổ quốc Hy Lạp hùng mạnh, dám gạt bỏ hết lề
thói, quy ước của vương triều, để rồi đến mức quên cảnh giác cả tính mạng, và cuối
cùng tự chuốc lấy bi kịch cho bản thân.
Racine đã mang đến cho sân khấu tấn kịch của cuộc sống đương thời. Đó là tấn bi
kịch của một người phụ nữ góa chồng, để đảm bảo tương lai cho đứa con trai bé
bỏng của mình mà bị ép phải lấy một người đáng sợ - đứa con trai của kẻ thù; đây
còn là bi kịch về một cô gái đã được hứa hôn trả thù kẻ nuốt lời hứa. Dù thoạt nhìn,
những mối quan hệ giữa bốn nhân vật Pyrrhus, Andromaque, Hermione và Oreste
có vẻ chồng chéo, phức tạp, hành động kịch thực chất vẫn đơn giản, vì động lực của
hành động chỉ là những tình cảm, những thèm khát của con người, khơng có bàn tay
can thiệp của những thế lực bên ngoài. Bằng “kỹ thuật” nắm bắt lấy hành động của
các nhân vật ông đã xây dựng từng hình tượng nhân vật gắn với những nét tương
phản rõ rệt, qua đó là nổi bật hình tượng người vợ, người mẹ lý tưởng Andromaque.
Là một người mẹ, Andromaque sẵn sàng vì con mà hy sinh cả tự do, cả cuộc đời. Là
một người vợ, Andromaque quyết tâm giữ trọn tấm lòng với người chồng anh hùng
đã hy sinh trong chiến đấu. Kiên quyết cự tuyệt Pyrrhus, nhưng lúc cần phải hành
động vì con, Andromaque vẫn biết cách nhóm lên hy vọng ở kẻ si tình. Hình tượng
nhân vật Andromaque là hình tượng đẹp đẽ, trong sáng nhất của vở kịch. Ở
Andromaque là sự kết hợp hài hòa giữa người vợ và người mẹ lý tưởng.
Pyrrhus là hình ảnh của con người nửa sau thế kỷ XVII, kiểu con người vẫy vùng
tuyệt vọng trong những thèm khát chuyên chế. Ở Pyrrhus cũng có những phẩm chất
tốt đẹp thẳng thắn, quảng đại, nhưng chỉ vì say đắm Andromaque, Pyrrhus trở nên
đáng sợ và mù quáng: sẵn sàng quên hết những tàn tro thù hận của cuộc chiến Troie,
sẵn sàng chống lại người Hy Lạp, sẵn sàng dồn ép người phụ nữ đơn độc và khi có
được tình u thì say sưa đến chểnh mảng việc phịng bị cho bản thân. Cái chết đến
với nhân vật này là một kết cục tất yếu.
Nhân vật Hermione lại là một kiểu khác của con người hoang mang giữa cuộc sống.
Những trạng thái của nhân vật này thay đổi thất thường theo sự thay đổi của người
yêu: sự bối rối thất vọng trước những phũ phàng của Pyrrhus lập tức trở thành niềm
kiêu hãnh khi đứng trước Andromaque vì biết Pyrrhus đã thay đổi thái độ, rồi kiêu
hãnh lại thành giận dữ đến mức mất cả tự chủ. Ở Hermione, cảm xúc mãnh liệt vượt
ra ngồi sự dẫn dắt của lý trí đã dẫn đến những quyết định sai lầm không thể cứu
vãn nổi.
Nhân vật Oreste trong vở kịch khơng có một tính cách rõ ràng, chỉ là một người bị
nỗi thèm khát lôi kéo và đẩy tới kết cục bi thảm.
Đối lập với ba nhân vật đó là Andromaque. Khơng có quyền lực và địa vị như
Pyrrhus, Hermione hay Oreste, điểm nổi bật nhất ở Andromaque là hồn tồn khơng
có sự phân biệt giữa lý trí và tình cảm. Tình cảm gắn liền với ý thức về bổn phận và
trách nhiệm nên ln được lý trí soi sáng và dẫn dắt. Tình cảm đi đơi với lý trí tạo
nên sức mạnh tuyệt đối ở người phụ nữ đơn độc. Sự cân bằng đó giữ cho nhân vật
này chiến thắng hết thảy, khơng rơi vào bi kịch.
3. Kết luận
Có thể nói, có hai cuộc đấu tranh trong bi kịch Andromaque. Trên sân khấu, xuyên
suốt vở kịch, là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa những khát khao bản năng mù quáng
của vị vua Pyrrhus với tình cảm được lý trí dẫn đường của người vợ, người mẹ
Andromaque. Đó là cuộc đấu tranh để giữ toàn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của
con người trước sức mạnh quyền lực và những sai lầm trong nhận thức.
Thơng qua vở kịch, ngịi bút Racine đã vẽ nên một một cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ
vẻ đẹp lý tưởng của con người trong thời đại quyền lực lên ngôi và những dục vọng
bản năng lên tiếng. Kết cục bi thảm của những Pyrrhus, Hermione và Oreste có ý
nghĩa như một lời cảnh tỉnh. Chiến thắng của Andromaque ở cuối vở bi kịch chính
là chiến thắng của vẻ đẹp lý tưởng của con người.
I
Bi kịch của corneille
Phù hợp với yêu cầu chính trị cấp bách của thời đại, bi kịch của Corneille
gây được sự chú ý đầu tiên. Corneille khẳng định hành động là linh hồn của bi
kịch và phải là duy nhất; trong kịch người ta vừa nói vừa hành động và nói để
hành động.
Sức hấp dẫn của những bi kịch này còn là ở sức mạnh phi thường về nghệ
thuật bộc lộ ở những cốt truyện li kì, nhưng tình huống éo le và căng thẳng, ở
hình tượng chói lọi của người anh hùng gang thép, một ngôn ngữ rắn rỏi, cô
đúc, ở một bút pháp sang sảng tính hung biện, một mặt phản ánh được khơng
khí rạo rực, sơi nổi của nửa đầu thế kỉ XVII, một mặt thỏa mãn được nhu cầu
thẩm mỹ của cơng chúng Pháp thời đó. Theo quan điểm của Corneille, làm
nổi bật lên một bản lĩnh mãnh liệt xung đột với một tình thế phi thường tồn tại
trong lịch sử thì đó là bi kịch.
Tình cảm và lí trí là hai khía cạnh riêng biệt, đối lập khơng thể dung hịa
trong bản tính con người, phải dứt khốt chọn một trong hai khía cạnh đó.
Tiếng gọi của lí trí giục giã người ta gác bỏ tình cảm, khước từ lợi ích riêng.
Nó là thước đo để định giá phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng trong bi
kịch Corneille, nó biến bi kịch Corneille thành “trường học của những tâm
hồn dung cảm”. Nó hướng người anh hùng của Corneille đi lên phục vụ cho lí
tưởng cao cả thể hiện tập trung ở nhà nước phong kiến chuyên chế.
1
1
Vở kịch Lơ xít
Thời gian, xuất xứ của vở kịch Lơ xít
Lơ xít (Le Cid – Thủ lĩnh) của nhà thơ Pháp Corneille. Vở kịch được viết
vào những năm 1636 cũng là năm nước Pháp phải đối đầu với đội quân xâm
lược Tây Ban Nha, chiến sự dữ dội ở thành Corbi Lơ-xít. Là kiệt tác kịch đầu
tiên của Corneille, vở kịch nổi tiếng đầu tiên của phong cách cổ điển chủ
nghĩa được dựng diễn trên sân khấu Pháp.
Nhân vật chính của vở kịch là Rơ-đrigơ, được qn Mơ-rơ đặt cho danh
hiệu là “Lơ xít”. Xuất xứ trực tiếp của vở kịch này là vở thời niên thiếu của
xit cua Ghi-len đơ Ca-xto-rô. Lấy một biến cố lịch sử thế kỉ XI chống người
Ả rập xâm lược làm đề tài. Corneille đã tước bớt một cách đáng kể cốt truyện
vở kịch Tây Ban Nha, chuyển trọng tâm từ những biến cố bên ngoài sang
những cảm xúc nội tâm của các nhân vật tập trung trong cuộc đấu tranh giữa
tình yêu và nghĩa vụ.
2
Nội dung
Vở bi kịch tập trung vào mâu thuẫn giữa tình u và danh dự. Rơđrigơ
(Rodrigue), con trai Đơng Điegơ (Don Diègue), yêu Simen (Chimène), con
gái Đông Goocma (Don Gormas). Mối tình ấy hầu như đã được hai gia
đình thừa nhận, nhưng xảy ra xung đột giữa hai ông bố vì tranh giành địa vị
trong triều đình. Đơng Goocma làm nhục Đơng Điegơ. Vì danh dự, Rơđrigơ
phải trả thù cho cha, giết Đơng Goocma. Vì danh dự, Simen xin vua trừng trị
Rôđrigơ. Vừa lúc ấy, giặc Môrơ (Maure) tấn công thành Xêvilia (Sevilla).
Rôđrigơ được cử ra mặt trận, đánh thắng giặc. Nhưng Simen vẫn đòi lấy đầu
người yêu. Hiệp sĩ Đông Xăngsơ (Don Sanche) vốn yêu Simen, nguyện đấu
kiếm với Rôđrigơ, trả thù cho nàng, mong chiếm trái tim nàng. Đông Xăngsơ
thua, nhưng được Rôđrigơ tha chết. Nhà vua tuyên bố danh dự của Simen đã
được bảo toàn. Hai người có thể kết hơn. Lơ xít là tác phẩm hay nhất của
Corneille. Cuộc tranh luận về Lơ xít đều xoay quanh các quy tắc của chủ
nghĩa cổ điển, nhưng thành công lớn của vở kịch vẫn được mọi người thừa
nhận.
3
Nghệ Thuật
Vở kịch Lơ xít thể hiện phong cách sân khấu của Corneille với đề tài có
tính chất phi thường, đột xuất, với cốt truyện phức tạp, nhiều biến cố, với
những nhân vật siêu phàm do tinh thần quả cảm và ý chí mãnh liệt.
Về mặt ngơn ngữ, câu thơ Lơ xít mang tính trữ tình thiết tha, khi lại hào hùng,
sôi nổi, khi lại đậm đà một chất triết lý sâu lắng thăng trầm.
Động tác kịch chặt chẽ, dồn dập với đối thoại và độc thoại sắc bén, mang khí
thế hào hùng của những cuộc đọ kiếm nảy lửa.
Thống nhất một cách chặt chẽ giữa nội dung và nghệ thuật khiến tác phẩm
kịch chứa chan ý vị lạc quan chiến đấu.
4
Giá trị
Trong vở Lơ xít, đã nổi lên chủ đề yêu nước, mà bấy giờ còn chưa phải là
trực tiếp gắn liền với sự phục vụ nhà vua. Rô-đrigơ ,sau khi đã chặn được sự
xâm lăng của người Mô-rơ ,trở thành người cứu nước và nhà vua đã gả Simen để thưởng công cho chàng. Như vậy là trong bi kịch cua Corneille ý
niệm nghĩa vụ gia đình đối lập với ý niệm nghĩa vụ đối với nhà nước, danh dự
công dân, cho sự phục vụ tổ quốc, cho sự tôn thờ những đức tính của con
người.
Qua vở kịch, Corneille đã khẳng định thắng lợi oanh liệt của lí trí (ý thức
về nghĩa vụ) đối với dục vọng của cá nhân ( tình u lứa đơi). Xung đột bi
kịch nảy sinh từ mâu thuẩn khơng thể hịa giải được, giữa cái chung và cái
riêng, xã hội và cá nhân, lí trí và tình cảm. Các nhân vật, nhất là những nhân
vật trung tâm, thuộc một kiểu tính cách anh hùng mới, hiện lên sừng sững trên
sân khấu với một sức sống nội tâm mãnh liệt. Một mặt, đó là những đầu óc
tỉnh táo, sáng suốt, có ý thức sâu về nghĩa vụ của bản thân (bảo vệ danh dự
của gia đình). Mặt khác, đó là những trái tim nồng cháy, thiết tha, son sắt (tình
yêu cá nhân trong hạnh phúc lứa đơi). Cả hai mặt đều mạnh mẽ, rạch rịi,
phân minh, nhưng lại phát triển ngược chiều, và chính vì thế mà phải loại bỏ
lẫn nhau trong mỗi tính cách. Tình cảm dù mặn mà, dù chính đáng, vẫn khơng
làm lu mờ được ý thức về nghĩa vụ; ngược lại, phải chịu khuất phục trước lí
trí. Ý thức về nghĩa vụ, ý thức về danh dự là nền tảng, là điểm xuất phát của
mọi tình cảm cao đẹp, kể cả tình u. Thắng lợi của lí trí trước tình cảm làm
nên phẩm chất, đức hạnh của người anh hùng mẫu mực của thời đại. Đó cũng
là tiêu chuẩn của đạo đức mới. Đó cũng là tiêu chuẩn của vẻ đẹp mới.
Rodrigo, Simen đáng kính, đáng u là vì thế, vì đã mang lí tưởng của thời
đại duy lí. Việc Roodrigo đi đánh quân Moooorro là một sự kiện rất có ý
nghĩa về tư tưởng, về nghệ thuật kịch. Khơng những nó góp sức giải quyết
một mâu thuẫn nan giải, làm cho phần gỡ nút được ổn thỏa, mà còn nâng cao
thêm một mức tư tưởng của vở kịch làm cho nó dễ thuyết phục hơn. Vì nó là
kết quả của một cuộc đấu tranh nội tâm mới không kém phần gay găt, một sự
lựa chọn không thể nào khác được: dốc sức ra gìn giữ lấy đất nước, hi sinh
tình yêu của cá nhân. Thế là ý thức về nghĩa vụ đối với gia đình, dịng họ, đã
được thay thế bằng nghĩa vụ đối với quốc gia, triều đình, Rodrigo từ người
con hiếu thảo trở thành người anh hùng cứu nước, người tơi trung đáng khen.
Điều này lí giải thái độ chăm chú của mọi người dõi theo chàng quý tốc trẻ
tuổi hăm hở hấn thân vào đêm tối, xông thẳng ra chiến trường đọ sức với
quân Moorro. Chiến thắng vinh quang trở về, Rooodrigo lại có thêm những
ưu thế mới, sức hấp dẫn mới.
5
Kết luận
Bi kịch Lớ xít của Corneille gắn bó chặt chẽ với những vấn đề thời đại cơ
bản và bức thiết của nước Pháp thế kỷ XVII, thúc giục người ta quên mình vì
thắng lợi của nhà nước dân tộc. Vì thế mà nó mang ý nghĩa to lớn đối với
việc giáo dục, phục vụ chính trị rất rõ rệt. Tư tưởng của vở kịch phù hợp với
tư tưởng chính thống đương thời, đảm bảo cho tác phẩm vượt qua mọi cơn
bão.
ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA BI KỊCH RACINE VÀ CORNEILLE
1. Điểm khác trong sáng tác của hai nhà văn
Corneille
-
-
Nếu Corneille là người mở đầu
cho kịch cổ điển và đạt thành
công ở nửa đầu thế kỷ XVII.
Nửa đầu thế kỷ XVII: sự đấu
tranh đi đến thắng lợi của chủ
nghĩa chuyên chế (với các tàn
tích phong kiến).
2. Điểm khác trong các tác phẩm
Racine
-
Thì Racine lại là tác giả nổi tiếng
ở nửa sau thế kỷ XVII.
Nửa cuối thế kỷ XVII: bi kịch
tâm lý (có một giá trị hiện thực
sâu sắc. Nó phản ánh được những
thực tế lịch sử sinh động của xã
hội Pháp cũng như bản thân nhà
văn với một cái nhìn tiến bộ rõ
nét.
Các tác phẩm của Corneille
-
-
-
Hướng tới những nhân vật chính
là những người anh hung với vẻ
đẹp tâm hồn cao thượng.
Bi kịch Corneille giáo dục lòng
yêu nước, đề cao danh dự của
người công dân. Những nhân vật
trong vở kịch của ông được xây
dựng mang vẻ đẹp lí trí. Những
nhân vật ấy đều là người anh
hùng chiến thắng mọi trở ngại,
cám dỗ, ln ln sáng suốt làm
chủ lấy mình. Vì vậy, những vở
kịch của ông được coi là:
“Trường đào tạo những tâm hồn
cao thượng”.
Nhân vật thiên về hành động, lí
tưởng.
Kịch của Corneille là kịch của ý
chí, ý chí phải qua biện luận để
tự khẳng định mình, cho nên tác
phẩm nào cũng có khơng ít
những trang luận dài về chính
trị, về pháp lí, về độc thoại,
những từ đài cái dài dằng dặc.
Các tác phẩm của Racine
-
-
-
-
Thường xây dựng nhân vật
chính là tình u của ông vua và
người phụ nữ.
Nhân vật bị thôi thúc bởi dục
vọng về quyền lực hoặc yêu
đương, diễn ra cuộc đấu tranh
nội tâm giữa dục vọng và lí trí.
Nhân vật được phân tích nội
tâm, thể hiện thành cơng của
những bi kịch tâm lí (Pyrrhus
chính là nhân vật điển hình thể
hiện đặc trưng kịch Racine. Ông
cũng là người khám phá ra được
những tâm hồn rất đẹp phía sau
những bi kịch cùng cực).
Cốt truyện đơn giản, mọi sự kiện
bên ngoài được giảm đến mức
tối đa để tập trung vào những
xung đột dữ dội giữa các dục
vọng.