Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hãy phân tích điểm khác nhau giữa pháp luật anh và mỹ (luật so sánh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.07 KB, 19 trang )

KHOA LUẬT- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUẬT SO SÁNH

HỌ TÊN SV:
LỚP
MÃ SV

:
:

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ
Giảng viên: TS. Mai Văn Thắng

Hà Nội, 2022


Anh chị hãy chỉ ra điểm khác nhau cơ bản về nguồn pháp luật giữa Anh và Mỹ
và luận giải căn nguyên của những khác biệt đó?
Nhắc đến nguồn luật của Anh, người ta nghĩ ngay đến pháp luật thành văn và luật bất
thành văn. Pháp luật thành văn do Chính phủ ban hành các văn bản phụ trợ và Nghị
viện ban hành các đạo luật. Luật bất thành văn gồm Common law và tập quán, luật lệ
địa phương. Hiện nay, án lệ và luật thành văn là hai nguồn luật lớn nhất của Anh. Án
lệ chứa đựng những giải pháp pháp lý cho một vụ việc cụ thể, là luật để giải quyết
những vụ việc có tình tiết tương tự trong tương lai. Pháp luật thành văn do Nghị viện
ban hành, có vị trí cao hơn án lệ do các Thẩm phán tạo ra. Pháp luật thành văn có thể
bãi bỏ án lệ trong quá khứ và có hiệu lực hồi tố.
I. Điểm khác nhau cơ bản:
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common law nên hệ thống pháp luật của
hai nước có những nét tương đồng nhất định. Bên cạnh đó, những điểm khác nhau
về nguồn pháp luật giữa hai quốc gia này được thể hiện ở cấu trúc của nguồn pháp
luật. Dưới đây là những điểm khác nhau cơ bản về nguồn luật:


1. Số lượng nguồn luật của HTPL Anh phong phú hơn: Anh có tới 5 loại (Án
lệ, Luật thành văn, Luật Liên minh Châu Âu- Anh rời EU năm 2020, hiện nay
chưa có thơng tin chính xác liệu Anh có hủy bỏ Luật EU hay không, Tập quán
pháp địa phương và các tác phẩm có uy tín) cịn Mỹ chỉ có 3 loại (Án lệ, Luật
thành văn và các tác phẩm của học gia pháp lý)
2. Trong loại nguồn cụ thể:
2.1 Án lệ
 Ở Anh, án lệ được tạo ra từ các tòa án cấp trên.
Ở Mỹ án lệ được tạo bởi
- Tòa án bang
- Tòa Liên bang,
- Tòa án tối cao của Hợp chủng quốc Hoa kỳ
• Vai trị của ngun tắc stare decisis được áp dụng ở Anh nghiêm
khắc hơn ở Mỹ: Ở Anh, án lệ được áp dụng gần như tuyệt đối và
cứng nhắc, còn ở Mỹ án lệ được áp dụng linh hoạt, mềm dẻo hơn
- Ở Anh, tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc của án lệ mà cấp trên tạo
ra ở các vụ việc trong quá khứ. Tòa án cấp trên: Thượng nghị viện,
Tòa phúc thẩm và Tịa án cấp cao. Tuy nhiên, chỉ có những bản án
được xuất bản mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc. Phán quyết
của Tịa hình sự trung ương, Tòa pháp quan và Tòa địa hạt khơng
phải là án lệ và khơng có giá trị ràng buộc.


Ở Mỹ, Rule of precedent (tất cả các tòa án đều có quyền thay đổi án lệ), phán
quyết của các tòa án tối cao ở cấp bang và liên bang khơng chịu sự ràng buộc
của chính mình. Tịa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các tòa án ở
các bang khác, tuy nhiên các phán quyết phù hợp của các tòa án bang khác
thường được viện dẫn, giá trị thuyết phục phụ thuộc vào việc tòa án nào đã đưa
ra quyết định đó
- Ở Anh, hoạt động xét xử phải luôn bám sát vào tiền lệ pháp. Thượng

Nghị viện đã tự cho rằng mình phải tuân thủ chặt chẽ phán quyết của
mình trong quá khứ nhưng nguyên tắc này đã bị bãi bỏ vài thập kỉ
gần đây. Hiện nay, quyết định của Tòa vẫn nằm trong giới hạn phán
quyết quá khứ.
Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tịa trích dẫn thường xun nhưng quan
điểm của thẩm phán về chính sách chung, vụ việc quan trọng được ưu tiên trong
các bản án. Thẩm phán Mỹ đề cập hệ quả thực tiễn và sự phù hợp của một phán
quyết hơn Thẩm phán Anh. Hiện tại, Mỹ có 50 bang chủ quyền và mỗi bang đều
có hệ thống tòa án độc lập. Phán quyết của tòa tối cao và tòa phúc thẩm thường
được xuất bản. Bất cứ vấn đề nào được đưa ra giải quyết ở một bang cũng có thể
có vơ số tiền lệ pháp ở các bang khác. Tòa án tối cao Mỹ khẳng định kết quả xét
xử một vụ việc có thể dựa trên chính sách chung nhiều hơn án lệ, triết lí của tòa
thay đổi theo quan điểm cá nhân của Thẩm phán ở thời điểm vấn đề cần giải
quyết. Ví dụ một phán quyết của tòa phúc thẩm cuối cùng (Court of Appreals)
của New York không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của tịa phúc thẩm cuối cùng của
bang Michigan
• Sự ghi chép:
– Tại Anh các án lệ bắt buộc thường được ghi chép trong Law Reports,
All England Law Reports, Weekly Law Reports.
– Tại Mỹ tập hợp các án lệ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp
luật (Restatement of the Law) của một hiệp hội tư nhân có tên là
Viện luật Hoa Kỳ (American Law Institute).
=> Án lệ có lịch sử phát triển lâu dài, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống
pháp luật của Anh. Yếu tố truyền thống ở đây chính là nguyên nhân khiến cho
luật thành văn ở Anh không phát triển như ở Mỹ. Mỹ là nước chịu sự đô hộ của
Anh nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy nhiên, khi giành độc lập, Mỹ xây dựng
Hiến pháp thành văn để khẳng định chủ quyền độc lập của mình, đồng thời,
định hướng phát luật theo hướng thành văn. Vì vậy, luật thành văn ở Mỹ được
chú trọng hơn ở Anh và nó có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật nước
này.

2.2 Pháp luật thành văn


• Hiến pháp: Ở Anh khơng hề có sự phân biệt về tầm quan trọng của
những văn bản mang tính hiến pháp so với pháp luật thông thường
nên cũng không có cơ quan bảo hiến, cịn ở Mỹ, Hiến pháp là văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất nên Tịa án tối cao Mỹ là cơ quan có
chức năng bảo hiến.
*Vương quốc Anh khơng có Hiến pháp thành văn cịn mỹ có Hiến pháp thành
văn
- Anh:
+ Những quy định có bản chất của Hiến pháp có thể thấy trong một số truyền
thống, văn bản pháp luật do Nghị viện ban hành, trong án lệ, đạo luật của EU.
+ Magna Carta năm 1215 được coi là bản Hiến pháp đầu tiên ở Anh ghi nhận
quyền con người: quyền bình đẳng trước cơng lý, quyền được tịa án xét xử
trước khi bị bỏ tù hoặc bị tước đoạt tài sản, quyền không bị phạt tiền đến mức
phá sản, quyền không bị tước đoạt kế sinh nhai.
+ Luật đình quyền giam giữ 1679, Luật quyền con người 1689, Luật kế vị
ngai vàng 1701, Luật hợp nhất Scotland 1707, Luật Cộng đồng Châu Âu 1972 là
những đạo luật quan trọng làm nên Hiến pháp Anh.
- Mỹ: Liên bang và các bang đều có Hiến pháp viết.
+ Hiến pháp Mỹ được coi là đạo luật cơ bản của Quốc gia, bất kì nguồn luật
nào trên nước Mỹ đều không được trái với Hiến pháp. Hiến pháp Mỹ khơng chỉ
là bản hiến chương chính trị mà còn là văn kiện sáng lập quốc gia dựa trên
trường phái luật tự nhiên.
+ Mục đích Hiến pháp Mỹ là thành lập nên nhà nước mới từ những nhà nước
đã có chủ quyền, thừa nhận chính phủ mới, nhưng chủ quyền các bang vẫn tiếp
tục được tôn trọng.
+ Mỗi tiểu bang của Mỹ đều có Hiến pháp riêng, Hiến pháp có hiệu lực cao
hơn các đạo luật khác của tiểu bang nhưng phải phù hợp với Hiến pháp liên

bang.
*Sự khác biệt giữa hai quốc gia về quyền con người và nguyên tắc giám sát
bằng thủ tục tư pháp với tính hợp hiến của các văn bản pháp luật. Trong đó các
văn bản pháp luật là ngun tắc khơng được biết đến ở Anh trong quá khứ.
- Mỹ:
+ Hiến pháp yêu cầu tất cả vụ việc hình sự phải được xét xử với sự tham dự
của bồi thẩm đoàn. Khi mới ra đời Hiến pháp không quy


định về quyền con người mà quyền này chỉ được đưa vào sau lần sửa đổi nội
dung bản Hiến pháp thứ mười.
+ Giữa năm 1789- 1791, tiến hành sửa đổi nhằm hạn chế quyền lực của Chính
phủ Liên bang sẽ trở thành chuyên chế.
• VBPL, đạo luật
- Ở Anh: Sự ra đời của pháp luật thành văn muộn hơn ở Châu Âu
lục địa. Các văn bản pháp luật ở thời điểm hiện tại do Nghị viện
trực tiếp và Nghị viện ủy quyền ban hành (văn bản ủy quyền)
+ Các văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành để bổ sung, thay thế
án lệ trên nhiều lĩnh vực: luật, luật thống nhất, luật hệ thống hóa
+ Luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực cao hơn án lệ do Thẩm phán làm ra.
Luật được bổ sung và thay thế án lệ. Khơng những thế nó cịn phủ nhận hiệu lực
của một án lệ nào đó trong tương lai, có thể có hiệu lực hồi tố (làm cho bản án
đã tuyên trong quá khứ vô hiệu).
+ Các văn bản pháp luật do Nghị viện ủy quyền ban hành cũng chiếm phần
lớn pháp luật thành văn.
+) Để thông qua một đạo luật, Nghị viện thường tiến hành thủ tục tốn kém về
thời gian, tiền bạc
+) Vì đạo luật quy định chi tiết sẽ trở nên lỗi thời trong cuộc sống mn hình
vạn trạng này, nên Nghị viện khơng đưa vào văn bản luật mà thường ủy quyền
cho các cơ quan quản lí nhà nước ban hành thơng qua các văn bản dưới luật

(văn bản pháp luật ủy quyền).
- Ở Mỹ:
+ Có rất nhiều đạo luật ở cả cấp Liên bang và cấp bang. Theo Hiến pháp, luật
liên bang có giá trị pháp lý cao hơn luật của các bang.
+ Trừ Hiến pháp, các đạo luật do Quốc hội Mỹ thơng qua có giá trị pháp lý
cao nhất, cao hơn cả phán quyết của tòa án cấp liên bang và cấp bang, cả các
đạo luật tương ứng của các bang.
+ Các đạo luật do Quốc hội mỹ và cơ quan lập pháp các bang ban hành (luật
công, luật tư) đều được xuất bản và được biên tập định kì để cơng chúng ln
nắm bắt được tình hình thay đổi pháp luật.
+ Mỗi bang của Mỹ đều có quyền ban hành luật riêng áp dụng trong bang.
Phần lớn pháp luật thành văn của các bang vẫn độc lập tuyệt đối với pháp luật
thành văn của các bang khác.
+ Các cơ quan nhà nước cấp Liên bang và cấp bang đều ban hành quy chế,
quy tắc để cụ thể hóa đạo luật liên quan. Các văn bản dưới


luật do Chính phủ Liên bang ban hành cũng được ưu tiên áp dụng trong quan
hệ với pháp luật của các tiểu bang.
• Điểm khác biệt trong nguồn luật thành văn giữa Anh và Mỹ đó là ở
Anh có thêm luật của liên minh châu Âu, điều này là do yếu tố điều
kiện kinh tế xã hội quy định. Như chúng ta đã biết thì năm 1973,
Anh trở thành thành viên của cộng đồng châu Âu ( EEC) mà ngày
nay đã đổi tên thành liên minh châu Âu. Khi gia nhập liên minh này
thì tất nhiên, luật thành văn của Anh khơng chỉ bao gồm luật trong
nước mà cịn có cả luật của Liên minh châu Âu mà nước này đã ký
kết và được nghị viện Anh phê chuẩn. Phán quyết của tịa án châu
Âu cũng có thể trở thành nguồn luật quan trọng, là tiền lệ pháp của
các tòa án vương quốc Anh
II.


Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt:
 Xét về góc độ lịch sử, sau khi giành độc lập, nước Mỹ đã có những
mâu thuẫn, định kiến nhất định với nước Anh. Vì thế dễ hiểu tại sao,
khi áp dụng án lệ - nguồn pháp luật được xem là duy nhất ở Anh lúc
bấy giờ - người Mỹ khơng tin tưởng hồn tồn cũng như khơng áp
dụng triệt để, tuyệt đối như ở Anh.
 Về mặt chính trị, khác với nước Anh – một nước quân chủ lập hiến,
Mỹ là nước theo thể chế liên bang. Chính vì vậy, việc tuân thủ một
cách chặt chẽ, nghiêm ngặt nguyên tắc Stare decicis ở Mỹ là một
việc hết sức khó khăn và kém hiệu quả. Cùng một sự việc nhưng ở
các bang sẽ có những án lệ riêng thì làm sao có thể áp đặt một cách
gị bó việc áp dụng án lệ nào và làm sao có thể biết được án lệ nào là
tốt nhất, hợp lý nhất, chuẩn mực nhất cho việc xét xử vụ án ấy. Điều
này sẽ dẫn đến sự bất ổn định trong pháp luật có tính pháp lý cao
nhất là pháp luật liên bang. Chính vì điều đó, ngun tắc stare
decicis ở Mỹ chỉ là tương đối. Hơn thế nữa, nước Mỹ là một nước ra
đời muộn hơn, tiếp thu được nhiều tinh hoa trên thế giới về mọi mặt,
tập trung được sức mạnh tồn cầu, người Mỹ lại thuộc đa chủng tộc,
đa tơn giáo, họ tiếp nhận tất cả mọi thứ một cách chủ động, linh hoạt
vì vậy một điều tất yếu việc áp dụng án lệ ở Mỹ cũng trở nên mềm
dẻo, sáng tạo hơn. Những phán quyết của tòa án trong các án lệ
dường như khơng cịn phù hợp khi những thay đổi nhanh chóng trên
mọi mặt ở nước Mỹ nên cũng đã được thay đổi.
 Các quy định pháp luật trong hiến pháp Mỹ có giá trị thực tiễn cao
và được các tòa án áp dụng. Còn ở Anh, do khơng có ngun tắc
kiểm


sốt tính hợp hiến của luật nên nếu có xung đột giữa Hiến pháp và Luật thì

sẽ áp dụng văn bản nào được ban hành sau.
 Là một nước liên bang vì thế nên so với Anh số lượng các đạo luật ở
Mỹ nhiều hơn rất nhiều. Nguyên nhân đã được nhắc đến đó là tính
chủ động, sáng tạo của người Mỹ nói chung (Mỹ là một quốc gia trẻ,
lại đa sắc tộc, đa tôn giáo) dẫn đến việc Mỹ có trình độ lập pháp rất
cao. Tuy là một nước thuộc dòng họ pháp luật án lệ nhưng rất nhiều
chế định luật thành văn của Mỹ trở thành khuôn mẫu, chuẩn mực của
nhiều bộ luật hiện hành của các nước trên thế giới, đặc biệt là Hiến
pháp Mỹ. Trong khi đó Anh là một nước có truyền thống lâu đời vì
thế việc áp dụng án lệ trong xét xử đã ăn sâu vào tiềm thức của
người Anh và vì thế rất khó thay đổi tuy rằng vai trị của luật thành
văn ở Anh đã ngày một quan trọng hơn.
Có thể thấy, khơng chỉ các dịng họ pháp luật mới có những điểm khác nhau
mà giữa các hệ thống pháp luật thuộc một dịng họ cũng có những điểm riêng biệt.


Bài làm:
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common law nên hệ thống pháp luật (HTPL)
của hai nước có những nét tương đồng nhất định. Tuy nhiên khơng phải vì thế mà
chúng khơng có điểm khác biệt, điều này được thể hiện rõ qua cấu trúc nguồn luật của
hai HTPL.
1. Tư tưởng pháp lý
Điểm khác biệt đầu tiên phải kể đến giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ là tư
tưởng pháp lý. Nếu như ở Anh, tư tưởng pháp lý mang tính chất bảo thủ thì ở Mỹ lại có
tư tưởng tự do. Xuất phát từ lý do nước Anh là một quốc gia có bề dày truyền thống,
nên họ coi trọng việc gìn giữ truyền thống, chính vì tư tưởng đó mà ở anh coi trọng án
lệ và tuyệt đối tuân thủ án lệ. Còn nước Mỹ lại tự hào về lịch sử chống ách thống trị của
Thực dân Anh, là xã hội gồm nhiều tầng lớp dân nhập cư từ khắp các quốc gia trên thế
giới với nhiều chủng tộc, họ đến đây tìm một tổ quốc mới, họ quan niệm con người
hiện đại là quan trọng nhất, họ quan tâm đến hiện tại và tương lai kiên quyết quay lưng

với những truyền thống quá cũ kỹ.
2. Nguồn luật
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dịng họ Common Law nên có cấu trúc nguồn luật
đặc trưng gồm án lệ, tập quán, luật thành văn, lẽ phải. Thế nhưng sự khác biệt cơ bản ở
hệ thống pháp luật Anh và Mỹ tập trung ở hai nguồn luật cơ bản là luật thành văn và án
lệ.
Về luật thành văn: Ở Anh, luật thành văn không được coi trọng, luật thành văn chủ
yếu là để tập hợp các quy định nằm giải rác ở các án lệ để thành một văn bản gọi chung
là văn bản luật. Điều đó có nghĩa là về bản chất luật thành văn cũng xuất phát từ án lệ,
việc áp dụng luật thành văn ở Anh cũng phải trên cơ sở giải thích luật thành văn trên
từng quan điểm của các án lệ và việc áp dụng luật thành văn cũng phụ thuộc vào án lệ.
Còn ở Mỹ luật thành văn có vai trị quan trọng hơn. Thứ nhất có thể kể đến luật thanh
văn ở Mỹ rất nhiều, ở Anh khơng có hiến pháp thành văn, cịn ở Mỹ luật thanh văn có ý
nghĩa rất quan trọng. Hệ thống văn bản ở Mỹ cũng nhiều hơn ví dụ như là có bộ luật
thương mại và các văn bản luật chuyên nghành. Kỹ thuật lập pháp, kỹ thuật pháp điển
hoá ở Mỹ cao hơn ở Anh nên luật thành văn được áp dụng thường xuyên hơn ở Anh.
Như vậy, vai trò của luật thành văn ở Anh và Mỹ là khác nhau, ở Anh luật thành văn
không quan trọng nhưng ở Mỹ luật thành văn cũng là một nguồn luật chủ yếu và cạnh
tranh với án lệ.
Án lệ có lịch sử phát triển lâu dài, có vị trí rất quan trọng trong HTPL của Anh. Yếu
tố truyền thống ở đây chính là nguyên nhân khiến cho luật thành văn ở Anh không phát
triển như ở Mỹ. Mỹ là nước chịu sự đơ hộ của Anh nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy
nhiên, khi giành độc lập, Mỹ xây dựng Hiến pháp thành văn để khẳng định chủ quyền
độc lập của mình, đồng thời, định hướng phát luật theo hướng thành văn. Vì vậy, luật
thành văn ở Mỹ được chú trọng hơn ở Anh và nó có vị trí quan trọng trong HTPL nước
này. Ở Mỹ, hệ thống VBPL điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội cụ thể, khoahọc, thể
hiện trình độ lập pháp và sự coi trọng luật thành văn của Mỹ rất cao,kịp thời cho ra đời
các loại văn bản điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong đời sống xã hội.
Một số khác biệt về án lệ như sau:
Anh

Mỹ


Sự hình thành án lệ

Được tạo ra từ các phán – Toà án bang.
quyết của toà án cấp trên – Toà án liên bang.
– Toà án tối cao Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.

Vai trị

Pháp luật thành văn có vị
trí cao hơn án lệ nhưng
thẩm phán Anh thường
cố gắng tìm cách để áp
dụng án lệ nhằm hạn chế
tối đa sự áp dụng luật
thành văn.
Án lệ ở Anh được các
thẩm phán áp dụng một
cách cứng nhắc.

Cách thức áp dụng

Luật thành văn có vị trí
cao nhất đặc biệt là hiến
pháp Hoa Kỳ. Tất cả các
văn bản luật và án lệ nếu
trái với Hiến pháp để sẽ

bị tuyên bố là vi hiến.
Án lệ đươc các thẩm
phán áp dụng một cách
mềm dẻo, linh hoạt hơn.

Nguyên tắc áp dụng

Rule of stare decicis (tất Rule of precedent (tất cả
cả các tòa án dều phải các tòa án đều có quyền
tuân theo án lệ (trừ Ủy thay đổi án lệ).
ban phúc thẩm Thượng
nghị viện).

Sự ghi chép

Tại Anh các án lệ bắt
buộc thường được ghi
chép trong Law Reports,
All
England
Law
Reports, Weekly Law
Reports

3.

Tại Mỹ tập hợp các án lệ
được in trong tuyển tập
Trình bày về pháp luật
(Restatement of the Law)

của một hiệp hội tư nhân
có tên là Viện luật Hoa
Kỳ
(American
Law
Institute).

Hệ thống các cơ quan pháp luật.

Nước Anh có nền chính trị khác biệt cơ bản với Mỹ, Mỹ là một nước cộng hoà liên
bang mà ở Anh có cơ cấu chính trị đơn nhất. Luật hiến pháp và luật hành chính của Mỹ
cũng khác với luật của Anh. Trong khi hiến pháp Mỹ thừa nhận học thuyết tam quyền
phân lập theo đó ba cơ quan nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp hịan tồn độc
lập thì ở Anh, học thuyết này lại bị phủ nhận, thể hiện ở chỗ trước đây, Thượng nghị
viện Anh đồng thời là cấp xét xử phúc thẩm cao nhất trong hệ thống tòa án của Anh.
Luật Hành Chính của Mỹ điều chỉnh cả về tổ chức và hoạt động của hành lọat các ủy
ban ở cấp Liên bang và cấp bang mà ở Anh khơng có. Ở Mỹ có cơ chế bảo hiến là cơ
chế bảo vệ hiến pháp, pháp hiện ra các văn bản trái với hiến pháp và tuyên vi hiến, cơ
chế bảo hiến do tồ án thực hiện trong khi đó ở Anh thì khơng có một thiết chế nào để
bảo vệ vì ở Anh khơng có hiến pháp thành văn. Nước Anh là một quốc đảo ở Châu Âu,
tập quyền trong lĩnh vực quản lý tư pháp còn nước Mỹ ở vị trí một lục địa rộng lớn, là
một quốc gia Liên Bang, trong đó có sự dung hồ lợi ích của các tiểu bang. Vì thế mà
trong hệ thống pháp luật Mỹ có sự phân chia giữa luật Liên bang và luật của các bang
mà ở Anh khơng có sự phân chia này. Hệ thống tòa án Mỹ cũng được tổ chức khác với
hệ thống tịa án Anh, trong khi tồ án ở Anh được phân thành từng cấp xét xử, thì ở Mỹ


tồn tại hệ thống tòa án kép, gồm hệ thống tòa án liên bang và hệ thống tòa án bang. Ở
Anh quyền tư pháp thể hiện tập trung hơn, Trung tâm tư pháp của nước Anh tập trung ở
London, còn ở Mỹ thì khơng như vậy. Ngồi hệ thống tồ án ở các Tiểu bang là chủ

yếu, hệ thống toà án của Liên bang cũng có mặt ở mọi nơi.
4.

Đào tạo luật và nghề luật.

Việc đào tạo nghề luật ở các nước thuộc dịng họ pháp luật Common Law nói chung
khơng chú trọng tính bài bản, mà thiên về tính thực tiễn. Đào tạo luật ở Mỹ là đào tạo
văn bằng hai nghĩa là địi hỏi học viên phải có một bằng đại học từ trước còn ở Anh là
đào tạo cử nhân luật. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với đào tạo
nghề trong chương trình đại học luật. Ví dụ như, muốn thi tuyển vào khoa Luật trường
Đại học danh tiếng Harvard thì phải có thêm một bằng đại học chuyên nghành khác
trước đó. Cách đào tạo này khác so với Anh Quốc, theo đó, nước này thường đưa đào
tạo luật vào chương trình đại học cơ bản. Ở Anh, sinh viên tốt nghiệp chưa đủ khả năng
hành nghề ngay, những người muốn hành nghề phải qua khố đào tạo nghề, cịn sinh
viên tốt nghiệp trường luật ở Mỹ chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn là có thể làm việc.Ở
Mỹ, hành nghề luật là hành nghề ở bang, một người được thừa nhận là luật sư ở một
Tiểu bang thì chỉ được hành nghề ở Tiểu bang đó, và trước tồ án Liên bang trong khi ở
Anh có thề hành nghề luật sư ở trên tồn quốc. Ở Anh có phân chia 2 ngành luật sư là
luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng trong khi ở Mỹ, một luật sư thì thực hiện cả tư vấn
và tranh tụng. Tuy nhiên, ở Mỹ có đặc thù là luật sư hành nghề theo lĩnh vực chun
sâu của mình trong khi đó ở Anh thì luật sư phải hiểu biết hết các lĩnh vực. Cũng giống
như ở Anh, các thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư thực hành nổi
tiếng. Thẩm phán ở Mỹ có hai loại: thẩm phán cấp Liên bang và thẩm phán cấp tiểu
bang. Tương tự như thẩm phán ở Anh, thẩm phán cấp Liên bang Mỹ được chỉ định
chức vụ suốt đời.
Ở Mỹ, lối sống, cách tư duy, sự phát triển kinh tế đã sản sinh ra những điều kiện
hoàn toàn khác thời kỳ thuộc địa, và khác nước Anh. Pháp luật Mỹ không thể giống
Pháp luật Anh. Vào thế kỷ XVII, ở Bắc Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh. Tuy nhiên, trên
thực tế, pháp luật Anh - Common Law ra đời để phục vụ cho xã hội phong kiến Anh,
không hề giống xã hội Mỹ với hàng loạt các vấn đề nằm ngồi giải pháp của Common

Law, vì vậy pháp luật Anh khơng phù hợp với hồn cảnh của nước Mỹ. Sau năm 1776,
pháp luật Anh và Mỹ trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập và phát triển theo những
hướng khác nhau nhưng bên cạnh những điểm tương đồng, hai hệ thống pháp luật này
cịn có sự khác biệt nhất định. Tóm lại, cùng là những quốc gia tiêu biểu cho dòng họ
Common Law nhưng giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ luôn tồn tại những điểm
khác biệt điển hình. Đó là về tư tưởng pháp lý, nguồn luật, hệ thống các cơ quan pháp
luật và vấn đề đào tạo luật, nghề luật. Sự khác biệt đó được hình thành do những điều
kiện riêng của từng quốc gia và khó có thể bình luận được hệ thống pháp luật của quốc
gia nào hoàn thiện hơn.
Luận giải căn nguyên của những khác biệt trên
Nguyên nhân của những điểm khác nhau thì có rất nhiều yếu tố tác động: vị trí
địa lý, dân cư, lịch sử, chế độ chính trị,…
Anh
Mỹ
Lãnh thổ

Anh là một đảo quốc ở Mỹ là một lục địa rộng
Châu Âu, có lãnh thổ thống lớn giành được độc lập từ
nhất trong cả nước với hệ phát triển đấu tranh giải


thống pháp luật chung.

phóng thuộc địa. Lãnh
thổ nước Mỹ được chia
làm 50 bang, với 50 hệ
thống pháp luật khác
nhau.
Mỹ trước kia là thuộc địa
của Anh giành độc lập

năm 1776 với thành phần
gồm những người nhập
cư với nhiều chủng tộc
lập nên Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ.

Lịch sử

Nước Anh có truyền thống
bề dày lịch sử, là một đế
chế hùng mạnh với diện
tích thuộc địa rộng lớn trên
khắp thế giới từ sau chiến
tranh thế giới thứ nhất.

Hình thức chính thể

Anh là một nước qn chủ
nghị viện, vẫn phụ thuộc
chế độ qn chủ có nữ
hồng và nhà vua nhưng
chỉ là biểu tượng của nước
Anh, còn quyền lực thực
chất nằm trong tay nghị
viện đứng đầu là Thủ
tướng.

Chế độ chính trị

Anh là một quốc gia đơn Mỹ là một quốc gia liên

nhất.
bang, mỗi bang đều có
pháp luật riêng của mình
nhưng chịu sự chi phối
của tồ án liên bang nên
trong đó ln có sự dung
hồ về lợi ích giữa các
bang.

Điều kiện kinh tế xã Anh đã từng đứng đầu thế
hội
giới về diện tích thuộc địa
và là một quốc gia có tiềm
lực về kinh tế.

Mỹ là nước cộng hồ
tổng thống với hai đảng
Dân chủ và Cộng hoà
thay nhau cầm quyền.

Sau chiến tranh thế giới II
Mỹ dần vươn lên và đứng
đầu thế giới về cơ cấu
nền kinh tế.

Tuy nhiên, một cách tổng quát nhất có thể thấy, điểm dẫn tới sự khác biệt trong
cấu trúc nguồn của Anh và Mỹ xuất phát từ nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Anh và Mỹ là hai quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước khác nhau, có
sự khác biệt về kinh tế, chính trị nên sẽ ảnh hưởng phần nào đến HTPL của hai quốc
gia.

Thứ hai, Anh là nước truyền thống lâu đời, dân cư gần như thuần nhất. Mỹ là
nước ra đời muộn, dân cư chủ yếu là nhập cư, đa sắc tộc, đa tơn giáo nên cách tư duy
pháp lí sẽ khác nhau, dẫn đến khác biệt trong HTPL cũng như cấu trúc nguồn luật của
Anh và Mỹ.


Thứ ba, ở Anh khơng có Hiến pháp thành văn, cái mà Anh gọi là Hiến pháp là
tổng thể các quy phạm có nguồn gốc luật thành văn hoặc nguồn luật án lệ. Có sự khác
nhau này là vì Anh là quốc gia có bề dày truyền thống, hơn nữa nguyên tắc Stare
decisis lại là xương sống của pháp luật Anh (nghĩa là án lệ phải được tơn trọng). Cịn ở
Mỹ lại có một bản Hiến pháp Liên bang, Mỹ phải xây dựng bản Hiến pháp thành
văn 1này là vì Mỹ là một nước liên bang trong đó có sự dung hịa về lợi ích của các tiểu
bang.
Thứ tư, luật thành văn ở Mỹ được coi trọng hơn vì cơ quan lập pháp của Mỹ
thường xuyên tiến hành luật hóa các phán quyết của Tòa án, các án lệ điển hình, hoạt
động pháp điển hóa ở Mỹ được tiến hành thường xuyên hơn ở Anh.


-) Hệ thống pháp luật Anh và Mỹ là hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Đây là hai
hệ thống pháp luật cùng thuộc dòng họ Common law nhưng lại có những điểm khác
nhau cơ bản về nguồn pháp luật , bắt nguồn từ vai trò của luật thành văn và án lệ ở hai
quốc gia này có những điểm khác biệt nhất định và được thể hiện rõ nét trong hệ thống
pháp luật.
-) Những điểm tương đồng:
.) Trong cấu trúc nguồn pháp luật của 2 quốc gia đều có án lệ, các văn bản pháp luật
(VBPL) và các tác phẩm của các học giả pháp lý có uy tín.
.) Án lệ là nguồn luật được sử dụng phổ biến nhất. Án lệ của Anh và Mĩ đều có chung
nguyên tắc Stare decisis, đều được ghi chép, xuất bản để sử dụng.
.) Cả Anh và Mỹ đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học giả pháp lý giống
như là một nguồn luật. Các tác phẩm này thường được trích dẫn bởi các luật sư và thẩm

phán trong quá trình hành nghề luật.
.) Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ thống nguồn pháp luật của 2 quốc
gia này.
-) Những điểm khác nhau cơ bản về nguồn pháp luật giữa Anh và Mỹ:
.) Số lượng nguồn pháp luật của hệ thống pháp luật Anh phong phú hơn: Mỹ có 3 loại
nguồn pháp luật (Án lệ, Luật thành văn và các tác phẩm của các học giả pháp lý có uy
tín), cịn Anh có tới 5 loại (Án lệ, Luật thành văn, Luật Liên minh Châu Âu, Tập quán
pháp địa phương và các tác phẩm của các học giả pháp lý có uy tín).
.) Ở Anh, án lệ được áp dụng một cách tuyệt đối, còn ở Mỹ chỉ chấp nhận thụ động án
lệ - một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu không phù hợp với người Mỹ. Cùng áp dụng
nguyên tắc “Stare decicis” trong việc sử dụng án lệ, tuy nhiên ở Anh nguyên tắc này
được thực hiện chặt chẽ, khắt khe hơn. Theo pháp luật Anh, án lệ của cấp trên có tính
bắt buộc đối với cấp dưới và ngay cả chính mình. Vì vậy, các thẩm phán ở Anh khơng
muốn phủ nhận những phán quyết trước đó của mình hoặc đào sâu hơn khi xét xử vụ
án.
.) Ở Mĩ, phán quyết của các Tòa án tối cao ở cấp bang và liên bang không chịu sự ràng
buộc của chính mình; Tịa án cấp bang khơng bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các Tòa án
cấp bang ở các bang khác, tuy nhiên các phán quyết phù hợp của các Tòa án cấp bang
khác thường được viện dẫn, giá trị thuyết phục phụ thuộc vào việc Tòa án cấp bang nào
đã đưa ra quyết định đó.
.) Anh khơng có Hiến pháp thành văn cịn Mỹ thì ngược lại. Các quy định có bản chất
của Hiến pháp Anh có thể tìm thấy trong đặc quyền Hồng gia, trong một số truyền
thống, án lệ cũng như văn bản pháp luật do Nghị viện ban hành.
.) Ở Mỹ: Liên bang và các bang đều có Hiến pháp viết. Hiến pháp Mỹ được coi là đạo
luật cơ bản của quốc gia. Do đó, bất kể nguồn luật nào trên nước Mỹ đều không được
trái với nội dung Hiến pháp.
.) Các văn bản pháp luật ở Anh gồm: văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành
và văn bản pháp luật do Nghị viện ủy quyền ban hành. Luật do Nghị viện ban hành có
hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra. Luật thường bổ sung hay thay thế án lệ.
Các văn bản pháp luật địa phương do chính quyền địa phương ban hành. Ở Mỹ, có rất

nhiều đạo luật cả ở cấp liên bang và cấp bang. Ngoài Hiến pháp Mỹ, các đạo luật do
Quốc hội Mỹ thơng qua có giá trị pháp lý cao nhất, cao hơn phán quyết của Tòa án cấp
liên bang và cấp bang và cao hơn các đạo luật tương ứng của các bang. Mỗi bang của
Mỹ đều có quyền ban hành luật riêng áp dụng trong bang.
-) Căn nguyên sâu xa:


.) Anh và Mỹ là hai nước điển hình của dòng họ pháp luật Common Law. Tuy nhiên vai
trò của luật thành văn và án lệ ở Anh và Mỹ rất khác biệt. Có thể thấy rằng, luật thành
văn và án lệ đều là những nguồn quan trọng của hệ thống pháp luật Anh và Mỹ. Tuy
nhiên, nếu xét tổng thể thì vai trị của án lệ ở Anh nổi bật hơn ở Mỹ nhiều và vai trò của
luật thành văn ở Mỹ nổi bật hơn ở Anh nhiều.
.) Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt này, trong đó nguyên nhân quan trọng và
sâu xa nhất có lẽ do Anh là nước khởi nguồn của văn hoá án lệ. Án lệ có lịch sử phát
triển lâu dài và chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh. Điều này, cũng
chính là nguyên nhân khiến cho luật thành văn ở Anh không phát triển như ở Mỹ.
.) Cịn Mỹ là nước chịu sự đơ hộ của Anh vì thế nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy
nhiên, khi giành độc lập thì Mỹ xây dựng Hiến pháp thành văn để khẳng định rõ ràng
chủ quyền độc lập của mình. Từ khi mới giành được độc lập năm 1776 thì họ đã khơng
hề muốn phụ thuộc vào vương quốc Anh, tiền lệ pháp có nguồn gốc từ Anh nên không
thực sự được ưa chuộng, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi.
.) Mặt khác, nước Mỹ là hợp chủng quốc, người Anh tuy chiếm phần đông nhưng
không thể phủ nhận sự tồn tại của các dân tộc khác, với bản sắc văn hóa, tơn giáo,
chủng tộc khác nhau, do đó, việc tiếp thu, chấp nhận thụ động án lệ – một thứ cứng
nhắc và ra đời từ rất lâu không phù hợp với người Mỹ. Đồng thời Mỹ không phải là
nước khởi nguồn của văn hoá án lệ nên họ cũng sẵn sàng cải tiến tập quán đó hơn, một
trong những cách cải tiến tập quán án lệ chính là ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật.
.) Ngoài ra cả hai hệ thống pháp luật Anh, Mỹ đều tôn trọng nguyên tắc “Stare decisis”
nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật

đã được thiết lập trong án lệ. Tuy nhiên vai trị của ngun tắc “Stare decisis” ở mỗi
nước khơng giống nhau, và dường như sự tuân thủ nguyên tắc này ở Anh có phần khắt
khe hơn rất nhiều so với ở Mỹ. Từ nguyên nhân sâu xa trên mà dẫn đến hệ thống pháp
luật Anh và Mỹ mặc dù cùng thuộc dịng họ Commom law nhưng vẫn có sự khác biệt
giữa vai trò của luật thành văn và án lệ ở Anh và Mỹ.


Bài làm:
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common law nên hệ thống pháp luật (HTPL)
của hai nước có những nét tương đồng nhất định. Tuy nhiên khơng phải vì thế mà
chúng khơng có điểm khác biệt, điều này được thể hiện rõ qua cấu trúc nguồn luật của
hai HTPL.
1. Tư tưởng pháp lý
Điểm khác biệt đầu tiên phải kể đến giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ là tư
tưởng pháp lý. Nếu như ở Anh, tư tưởng pháp lý mang tính chất bảo thủ thì ở Mỹ lại có
tư tưởng tự do. Xuất phát từ lý do nước Anh là một quốc gia có bề dày truyền thống,
nên họ coi trọng việc gìn giữ truyền thống, chính vì tư tưởng đó mà ở anh coi trọng án
lệ và tuyệt đối tuân thủ án lệ. Còn nước Mỹ lại tự hào về lịch sử chống ách thống trị của
Thực dân Anh, là xã hội gồm nhiều tầng lớp dân nhập cư từ khắp các quốc gia trên thế
giới với nhiều chủng tộc, họ đến đây tìm một tổ quốc mới, họ quan niệm con người
hiện đại là quan trọng nhất, họ quan tâm đến hiện tại và tương lai kiên quyết quay lưng
với những truyền thống quá cũ kỹ.
2. Nguồn luật
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dịng họ Common Law nên có cấu trúc nguồn luật
đặc trưng gồm án lệ, tập quán, luật thành văn, lẽ phải. Thế nhưng sự khác biệt cơ bản ở
hệ thống pháp luật Anh và Mỹ tập trung ở hai nguồn luật cơ bản là luật thành văn và án
lệ.
Về luật thành văn: Ở Anh, luật thành văn không được coi trọng, luật thành văn chủ
yếu là để tập hợp các quy định nằm giải rác ở các án lệ để thành một văn bản gọi chung
là văn bản luật. Điều đó có nghĩa là về bản chất luật thành văn cũng xuất phát từ án lệ,

việc áp dụng luật thành văn ở Anh cũng phải trên cơ sở giải thích luật thành văn trên
từng quan điểm của các án lệ và việc áp dụng luật thành văn cũng phụ thuộc vào án lệ.
Còn ở Mỹ luật thành văn có vai trị quan trọng hơn. Thứ nhất có thể kể đến luật thanh
văn ở Mỹ rất nhiều, ở Anh khơng có hiến pháp thành văn, cịn ở Mỹ luật thanh văn có ý
nghĩa rất quan trọng. Hệ thống văn bản ở Mỹ cũng nhiều hơn ví dụ như là có bộ luật
thương mại và các văn bản luật chuyên nghành. Kỹ thuật lập pháp, kỹ thuật pháp điển
hoá ở Mỹ cao hơn ở Anh nên luật thành văn được áp dụng thường xuyên hơn ở Anh.
Như vậy, vai trò của luật thành văn ở Anh và Mỹ là khác nhau, ở Anh luật thành văn
không quan trọng nhưng ở Mỹ luật thành văn cũng là một nguồn luật chủ yếu và cạnh
tranh với án lệ.
Án lệ có lịch sử phát triển lâu dài, có vị trí rất quan trọng trong HTPL của Anh. Yếu
tố truyền thống ở đây chính là nguyên nhân khiến cho luật thành văn ở Anh không phát
triển như ở Mỹ. Mỹ là nước chịu sự đơ hộ của Anh nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy
nhiên, khi giành độc lập, Mỹ xây dựng Hiến pháp thành văn để khẳng định chủ quyền
độc lập của mình, đồng thời, định hướng phát luật theo hướng thành văn. Vì vậy, luật
thành văn ở Mỹ được chú trọng hơn ở Anh và nó có vị trí quan trọng trong HTPL nước
này. Ở Mỹ, hệ thống VBPL điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội cụ thể, khoahọc, thể
hiện trình độ lập pháp và sự coi trọng luật thành văn của Mỹ rất cao,kịp thời cho ra đời
các loại văn bản điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong đời sống xã hội.
Một số khác biệt về án lệ như sau:
Anh
Mỹ


Sự hình thành án lệ

Được tạo ra từ các phán – Toà án bang.
quyết của toà án cấp trên – Toà án liên bang.
– Toà án tối cao Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.


Vai trị

Pháp luật thành văn có vị
trí cao hơn án lệ nhưng
thẩm phán Anh thường
cố gắng tìm cách để áp
dụng án lệ nhằm hạn chế
tối đa sự áp dụng luật
thành văn.
Án lệ ở Anh được các
thẩm phán áp dụng một
cách cứng nhắc.

Cách thức áp dụng

Luật thành văn có vị trí
cao nhất đặc biệt là hiến
pháp Hoa Kỳ. Tất cả các
văn bản luật và án lệ nếu
trái với Hiến pháp để sẽ
bị tuyên bố là vi hiến.
Án lệ đươc các thẩm
phán áp dụng một cách
mềm dẻo, linh hoạt hơn.

Nguyên tắc áp dụng

Rule of stare decicis (tất Rule of precedent (tất cả
cả các tòa án dều phải các tòa án đều có quyền

tuân theo án lệ (trừ Ủy thay đổi án lệ).
ban phúc thẩm Thượng
nghị viện).

Sự ghi chép

Tại Anh các án lệ bắt
buộc thường được ghi
chép trong Law Reports,
All
England
Law
Reports, Weekly Law
Reports

3.

Tại Mỹ tập hợp các án lệ
được in trong tuyển tập
Trình bày về pháp luật
(Restatement of the Law)
của một hiệp hội tư nhân
có tên là Viện luật Hoa
Kỳ
(American
Law
Institute).

Hệ thống các cơ quan pháp luật.


Nước Anh có nền chính trị khác biệt cơ bản với Mỹ, Mỹ là một nước cộng hoà liên
bang mà ở Anh có cơ cấu chính trị đơn nhất. Luật hiến pháp và luật hành chính của Mỹ
cũng khác với luật của Anh. Trong khi hiến pháp Mỹ thừa nhận học thuyết tam quyền
phân lập theo đó ba cơ quan nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp hịan tồn độc
lập thì ở Anh, học thuyết này lại bị phủ nhận, thể hiện ở chỗ trước đây, Thượng nghị
viện Anh đồng thời là cấp xét xử phúc thẩm cao nhất trong hệ thống tòa án của Anh.
Luật Hành Chính của Mỹ điều chỉnh cả về tổ chức và hoạt động của hành lọat các ủy
ban ở cấp Liên bang và cấp bang mà ở Anh khơng có. Ở Mỹ có cơ chế bảo hiến là cơ
chế bảo vệ hiến pháp, pháp hiện ra các văn bản trái với hiến pháp và tuyên vi hiến, cơ
chế bảo hiến do tồ án thực hiện trong khi đó ở Anh thì khơng có một thiết chế nào để
bảo vệ vì ở Anh khơng có hiến pháp thành văn. Nước Anh là một quốc đảo ở Châu Âu,
tập quyền trong lĩnh vực quản lý tư pháp còn nước Mỹ ở vị trí một lục địa rộng lớn, là
một quốc gia Liên Bang, trong đó có sự dung hồ lợi ích của các tiểu bang. Vì thế mà
trong hệ thống pháp luật Mỹ có sự phân chia giữa luật Liên bang và luật của các bang
mà ở Anh khơng có sự phân chia này. Hệ thống tòa án Mỹ cũng được tổ chức khác với
hệ thống tịa án Anh, trong khi tồ án ở Anh được phân thành từng cấp xét xử, thì ở Mỹ


tồn tại hệ thống tòa án kép, gồm hệ thống tòa án liên bang và hệ thống tòa án bang. Ở
Anh quyền tư pháp thể hiện tập trung hơn, Trung tâm tư pháp của nước Anh tập trung ở
London, còn ở Mỹ thì khơng như vậy. Ngồi hệ thống tồ án ở các Tiểu bang là chủ
yếu, hệ thống toà án của Liên bang cũng có mặt ở mọi nơi.
4.

Đào tạo luật và nghề luật.

Việc đào tạo nghề luật ở các nước thuộc dịng họ pháp luật Common Law nói chung
khơng chú trọng tính bài bản, mà thiên về tính thực tiễn. Đào tạo luật ở Mỹ là đào tạo
văn bằng hai nghĩa là địi hỏi học viên phải có một bằng đại học từ trước còn ở Anh là
đào tạo cử nhân luật. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với đào tạo

nghề trong chương trình đại học luật. Ví dụ như, muốn thi tuyển vào khoa Luật trường
Đại học danh tiếng Harvard thì phải có thêm một bằng đại học chuyên nghành khác
trước đó. Cách đào tạo này khác so với Anh Quốc, theo đó, nước này thường đưa đào
tạo luật vào chương trình đại học cơ bản. Ở Anh, sinh viên tốt nghiệp chưa đủ khả năng
hành nghề ngay, những người muốn hành nghề phải qua khố đào tạo nghề, cịn sinh
viên tốt nghiệp trường luật ở Mỹ chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn là có thể làm việc.Ở
Mỹ, hành nghề luật là hành nghề ở bang, một người được thừa nhận là luật sư ở một
Tiểu bang thì chỉ được hành nghề ở Tiểu bang đó, và trước tồ án Liên bang trong khi ở
Anh có thề hành nghề luật sư ở trên tồn quốc. Ở Anh có phân chia 2 ngành luật sư là
luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng trong khi ở Mỹ, một luật sư thì thực hiện cả tư vấn
và tranh tụng. Tuy nhiên, ở Mỹ có đặc thù là luật sư hành nghề theo lĩnh vực chun
sâu của mình trong khi đó ở Anh thì luật sư phải hiểu biết hết các lĩnh vực. Cũng giống
như ở Anh, các thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư thực hành nổi
tiếng. Thẩm phán ở Mỹ có hai loại: thẩm phán cấp Liên bang và thẩm phán cấp tiểu
bang. Tương tự như thẩm phán ở Anh, thẩm phán cấp Liên bang Mỹ được chỉ định
chức vụ suốt đời.
Ở Mỹ, lối sống, cách tư duy, sự phát triển kinh tế đã sản sinh ra những điều kiện
hoàn toàn khác thời kỳ thuộc địa, và khác nước Anh. Pháp luật Mỹ không thể giống
Pháp luật Anh. Vào thế kỷ XVII, ở Bắc Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh. Tuy nhiên, trên
thực tế, pháp luật Anh - Common Law ra đời để phục vụ cho xã hội phong kiến Anh,
không hề giống xã hội Mỹ với hàng loạt các vấn đề nằm ngồi giải pháp của Common
Law, vì vậy pháp luật Anh khơng phù hợp với hồn cảnh của nước Mỹ. Sau năm 1776,
pháp luật Anh và Mỹ trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập và phát triển theo những
hướng khác nhau nhưng bên cạnh những điểm tương đồng, hai hệ thống pháp luật này
cịn có sự khác biệt nhất định. Tóm lại, cùng là những quốc gia tiêu biểu cho dòng họ
Common Law nhưng giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ luôn tồn tại những điểm
khác biệt điển hình. Đó là về tư tưởng pháp lý, nguồn luật, hệ thống các cơ quan pháp
luật và vấn đề đào tạo luật, nghề luật. Sự khác biệt đó được hình thành do những điều
kiện riêng của từng quốc gia và khó có thể bình luận được hệ thống pháp luật của quốc
gia nào hoàn thiện hơn.

Luận giải căn nguyên của những khác biệt trên
Nguyên nhân của những điểm khác nhau thì có rất nhiều yếu tố tác động: vị trí
địa lý, dân cư, lịch sử, chế độ chính trị,…
Anh
Mỹ
Lãnh thổ

Anh là một đảo quốc ở Mỹ là một lục địa rộng
Châu Âu, có lãnh thổ thống lớn giành được độc lập từ
nhất trong cả nước với hệ phát triển đấu tranh giải


thống pháp luật chung.

phóng thuộc địa. Lãnh
thổ nước Mỹ được chia
làm 50 bang, với 50 hệ
thống pháp luật khác
nhau.
Mỹ trước kia là thuộc địa
của Anh giành độc lập
năm 1776 với thành phần
gồm những người nhập
cư với nhiều chủng tộc
lập nên Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ.

Lịch sử

Nước Anh có truyền thống

bề dày lịch sử, là một đế
chế hùng mạnh với diện
tích thuộc địa rộng lớn trên
khắp thế giới từ sau chiến
tranh thế giới thứ nhất.

Hình thức chính thể

Anh là một nước qn chủ
nghị viện, vẫn phụ thuộc
chế độ qn chủ có nữ
hồng và nhà vua nhưng
chỉ là biểu tượng của nước
Anh, còn quyền lực thực
chất nằm trong tay nghị
viện đứng đầu là Thủ
tướng.

Chế độ chính trị

Anh là một quốc gia đơn Mỹ là một quốc gia liên
nhất.
bang, mỗi bang đều có
pháp luật riêng của mình
nhưng chịu sự chi phối
của tồ án liên bang nên
trong đó ln có sự dung
hồ về lợi ích giữa các
bang.


Điều kiện kinh tế xã Anh đã từng đứng đầu thế
hội
giới về diện tích thuộc địa
và là một quốc gia có tiềm
lực về kinh tế.

Mỹ là nước cộng hồ
tổng thống với hai đảng
Dân chủ và Cộng hoà
thay nhau cầm quyền.

Sau chiến tranh thế giới II
Mỹ dần vươn lên và đứng
đầu thế giới về cơ cấu
nền kinh tế.

Tuy nhiên, một cách tổng quát nhất có thể thấy, điểm dẫn tới sự khác biệt trong
cấu trúc nguồn của Anh và Mỹ xuất phát từ nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Anh và Mỹ là hai quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước khác nhau, có
sự khác biệt về kinh tế, chính trị nên sẽ ảnh hưởng phần nào đến HTPL của hai quốc
gia.
Thứ hai, Anh là nước truyền thống lâu đời, dân cư gần như thuần nhất. Mỹ là
nước ra đời muộn, dân cư chủ yếu là nhập cư, đa sắc tộc, đa tơn giáo nên cách tư duy
pháp lí sẽ khác nhau, dẫn đến khác biệt trong HTPL cũng như cấu trúc nguồn luật của
Anh và Mỹ.


Thứ ba, ở Anh khơng có Hiến pháp thành văn, cái mà Anh gọi là Hiến pháp là
tổng thể các quy phạm có nguồn gốc luật thành văn hoặc nguồn luật án lệ. Có sự khác
nhau này là vì Anh là quốc gia có bề dày truyền thống, hơn nữa nguyên tắc Stare

decisis lại là xương sống của pháp luật Anh (nghĩa là án lệ phải được tơn trọng). Cịn ở
Mỹ lại có một bản Hiến pháp Liên bang, Mỹ phải xây dựng bản Hiến pháp thành
văn 1này là vì Mỹ là một nước liên bang trong đó có sự dung hịa về lợi ích của các tiểu
bang.
Thứ tư, luật thành văn ở Mỹ được coi trọng hơn vì cơ quan lập pháp của Mỹ
thường xuyên tiến hành luật hóa các phán quyết của Tòa án, các án lệ điển hình, hoạt
động pháp điển hóa ở Mỹ được tiến hành thường xuyên hơn ở Anh.



×