Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Cải cách giáo dục đại học ở việt nam theo tư tưởng hồ chí minh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

NGƠ HẢO NHI

CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH

: CHÍNH TRỊ HỌC

CHUYÊN NGÀNH

: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

MÃ SỐ

: 7310201

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS TRẦN THỊ MINH TUYẾT

HÀ NỘI – 2019



LỜI CẢM ƠN
Khóa luận đề tài “Cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” được hoàn thành tại Khoa Tư tưởng Hồ
Chí Minh, Học viện Báo chí - Tuyên truyền. Có được kết quả này, tác giả xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cơ khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã giúp em trang bị tri thức, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài. Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em cũng
xin được bày tỏ lời cảm ơn tới PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết, người đã trực tiếp
hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ em trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hồn
thành đề tài. Cuối cùng, tơi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt q trình học tập, làm việc và hồn thành đề tài khóa
luận tốt nghiệp này. Mặc dù rất cố gắng và nghiêm túc trong quá trình thực hiện,
song do hạn chế về mặt thời gian cũng như nhận thức nên khóa luận vẫn cịn nhiều
sai sót. Em mong nhận được sự chỉ dạy, đóng góp nhận xét của thầy, cơ giáo và các
bạn để khóa luận tốt nghiệp của em được hồn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả

Ngơ Hảo Nhi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1:TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ......................... 9
1.1 Một số khái niệm cơ bản............................................................................. 9
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục ................................................ 16
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 56
2.1. Thực trạng giáo dục đại học hiện nay...................................................... 56

2.2 Sự cần thiết phải cải cách giáo dục đại học và các nhân tố tác động................69
2.3 Giải pháp thực hiện cải cách giáo dục đại học theo tư tưởng Hồ Chí Minh .. 73
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mang trong mình những giá trị văn hoá dân tộc bước ra thế giới, hồ nhập
vào đại dương trí tuệ của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa
văn hoá nhân loại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực
tiễn của đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đặc
biệt quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục và đào tạo những người cách mạng để giải
phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
lý luận và thực tiễn giáo dục là vô giá đối với nền giáo dục cách mạng Việt
Nam. Những cống hiến vĩ đại đó được khởi nguồn từ việc xác định những mục
tiêu và nội dung tiến bộ, tích cực của nền giáo dục cách mạng, phù hợp với đặc
điểm văn hoá, xã hội Việt Nam.
Trong lĩnh vực giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là nhà tư tưởng
lớn mà còn là người thầy mẫu mực rất quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”.
Khi nước nhà độc lập, trên cương vị chủ tịch nước, Người đã xây dựng nền giáo
dục mới cho đất nước. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là một nhà tư
tưởng mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại. Cùng với thời gian, dù có rất nhiều
biến đổi trong nước cũng như thế giới, nhưng những chỉ dẫn về giáo dục của
Người vẫn giữ nguyên tính khoa học, tính cách mạng, có ý nghĩa phương pháp
luận to lớn đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục nước ta.
Kế thừa Tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng phát triển giáo dục là quan
điểm nhất quán của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Trong Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng xác định:
“Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng
đầu”. Tinh thần đó được thể hiện trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) và kết luận tại Hội nghị lần thứ
Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về phát triển giáo dục và đào
tạo. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công


2

nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người - yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Đến Đại
hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Về giáo dục và đào tạo chúng ta
phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách
hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. Đặc biệt
khi bàn về vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, Đại hội lần thứ XI của
Đảng đã nhấn mạnh: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học,
phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử
cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong
công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Tiếp nối chủ trương đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo mà Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra, tại Đại hội
lần thứ XII của Đảng xác định: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng
lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách
nhiệm công dân”.
Ở nước ta, trong thời gian vừa qua và từ kinh nghiệm giáo dục của các
nước cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền giáo dục Việt Nam là một

nhu cầu cấp bách. Do vậy, khắc phục những yếu kém, bất cập của nền giáo dục
trong thời gian qua, phát triển nền giáo dục có khả năng đáp ứng yêu cầu về
nguồn lực phát triển đất nước, phát triển nền giáo dục theo chủ trương coi giáo
dục là quốc sách hàng đầu là những yêu cầu cơ bản của phát triển giáo dục Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế - với mục tiêu
dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh nhưng cũng gặp khơng ít
khó khăn, thách thức. u cầu phải cải cách giáo dục trở thành vấn đề cực kỳ
quan trọng trong điều kiện hiện nay.


3

Các trường đại học là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu nguồn nhân lực cho đất nước và địa phương. Đây là nơi đào tạo những
con người có đủ phẩm chất đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng,
những con người vừa có “đức” vừa có “tài” vừa “hồng” vừa “chuyên” như Chủ
tịch Hồ Chí Minh mong đợi. Trước những tác động của nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan, việc quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục bậc đại học nói riêng
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố là một việc làm rất quan
trọng và cần thiết. Nó tạo ra sức mạnh cực kỳ to lớn để phát huy tiềm năng của
con người Việt Nam trước những thách thức của lịch sử, đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng kinh tế bền vững, tạo điều kiện đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực
và thế giới.
Với những lí do trên, tơi chọn đề tài: “Cải cách giáo dục đại học ở Việt
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực giáo

dục được Đảng, Nhà nước ta và các tổ chức, các nhà nghiên cứu khoa học rất
quan tâm và thể hiện qua nhiều cơng trình đã cơng bố sau đây:
* Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
+ Cuốn “Hồ Chí Minh - nhà giáo dục vĩ đại” của Nguyễn Lân, Nxb Khoa
học và kỹ thuật, Hà Nội năm 1990, trong đó tác giả bàn tới một số quan điểm
lớn của Hồ Chí Minh về giáo dục, tác dụng, nhiệm vụ của giáo dục đối với công
tác giáo dục thanh niên, nhi đồng, cán bộ… và khẳng định những cống hiến to
lớn của Người đối với nền giáo dục nước nhà.
+ Đinh Xuân Lâm – Bùi Đình Phong, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục”, Tạp chí thơng tin lý luận, năm 1995.
+ Cuốn “Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người” của Đặng
Xuân Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, đã trình bày và làm sáng
tỏ cách nhìn, cách đánh giá, nhận định của Hồ Chí Minh dối với nền giáo dục
phong kiến, thực dân và tư tưởng về nền giáo dục mới của xã hội mới cùng một


4

số quan điểm khái quát như mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, nguyên
tắc giáo dục.
+ Phạm Minh Hạc, “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản,
số tháng 10, 2011.
+ Phạm Nguyên Phương, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc thiết lập nền
giáo dục dân tộc, dân chủ ở Việt Nam (1945 – 1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
4, 2013
+ Trịnh Thanh Trà, “Một số quan điểm về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng 6, 2013.
+ Lý Việt Quang, “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh thần yêu
nước cho thế hệ trẻ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 6, 2013.
+ Cuốn “Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc” của Song Thành, Nxb

Chính trị - Hành chính, Hà Nội năm 2013, với 20 chương, trong đó tác giả giành
riêng chương 15 nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và việc bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu cập nhật tính hiện
đại của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh với triết lý giáo dục của tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO).
* Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về nền giáo dục Việt Nam.
+ Cuốn “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã
hội – kinh tế”, của Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1996,
bàn về những thành tựu đã đạt dược trong 50 năm của nền quốc học nhân dân
Việt Nam, trong đó có những vấn đề như xố nạn mù chữ, chống chính sách ngu
dân, các cuộc cải cách giáo dục, vấn đề văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá.
+ Cuốn “Phát triển tồn diện con người thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố” của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nơi, năm 2001, trình
bày các kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước thuộc chương trình
KX- 04 của tập thể các giáo sư, phó giáo sư thuộc Viện nghiên cứu Giáo dục.
+ Cuốn “Về giáo dục”, của GS Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nôi, năm 2003, tập hợp những bài viết về giáo dục, trong đó có một số nội
dung bàn về giáo dục của một số nhà lãnh đạo ở nước ta.


5

* Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào giáo dục đại học.
+ Thái Bình Dương, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vận dụng giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9, 2005.
+ Nguyễn Kì, “Học, làm, sống – ba trong một và xây dựng xã hội học
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 6, 2005
+ Hoàng Trang, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – những nội dung cơ
bản”, Tạp chí Giáo dục, số 114, 2005.

+ Mạch Quang Thắng, “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 2, 2006.
+ Luận văn thạc sĩ “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào
tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo trong các trường cao đẳng, đại
học và trung học chuyên nghiệp ở Ninh Bình hiện nay”, của tác giả Hồng Diệu
Th (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2010).
+ Luận văn thạc sĩ “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào
tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở trường Đại học Thể dục thể
thao Bắc Ninh trong thời kỳ đổi mới”, của tác giả Nguyễn Tiến Sơn (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2010).
+ Nguyễn Thị Lan Anh, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và ý nghĩa
thực tiễn trong công tác giáo dục thanh niên hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số
258, 2011.
+ Đặng Huỳnh Mai, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đổi mới giáo dục
Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục, số 260(2), 2011.
+ Luận văn thạc sĩ “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào
nâng cao lượng giáo dục – đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng tỉnh Quảng
Ninh trong giai đoạn hiện nay”, của tác giả Lê Thị Hồng Diễm (Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2013).
+ Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại
học hiện nay” do Hồng Anh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, năm
2013. Cuốn sách gồm 2 chương, trong đó các tác giả trình bày nguồn gốc, q


6

trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đồng thời, tác
giả phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm quan
trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao
chất lượng đại học hiện nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong công tác đào

tạo đại học hiện nay như chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nội dung,
chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, các tác giả đã đề xuất một số giải
pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào
tạo hiện nay.
+ Trần Thị Minh Tuyết, “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh – Cơ sở lý luận
của công cuộc cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết
học, số tháng 9, 2018. Tạp chí bao gồm 2 phần, trong đó tác giả bàn tới một số
quan điểm về triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Đồng thời tác giả khái quát sự
tương thích giữa triết lý giáo dục Hồ Chí Minh với quan điểm giáo dục hiện đại
và yêu cầu đổi mới cuộc sống hiện nay.
Những cơng trình nghiên cứu của tác giả đã đề cập đến những khía cạnh,
những góc độ khác nhau của vấn đề giáo dục. Tuy nhiên, cho dù tiếp cận ở khía
cạnh nào, góc độ nào thì vấn đề quan trọng vẫn là mục tiêu hướng đến một nền
giáo dục có khả năng đáp ứng được những xu hướng phát triển mới của đất nước
trong điều kiện tình hình trong nước cũng như quốc tế có nhiều biến động phức
tạp và nhanh chóng, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng, của Nhà nước và
toàn thể nhân dân, khẳng định được giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh
đã, và sẽ mãi định hướng cho việc xác định các phương hướng, mục tiêu cũng
như các giải pháp để xây dựng, phát triển nền giáo dục nước nhà nhằm thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Những kết quả nghiên cứu của các cơng trình là nguồn tư liệu rất q và
quan trọng giúp tác giả tiếp thu, tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên
cứu của mình. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề cải cách giáo dục đại học theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa có cơng trình nào đề cập
tới. Vì thế đề tài khoá luận mà tác giả lựa chọn nghiên cứu khơng trùng lặp với
những cơng trình đã cơng bố ở trên.


7


3. Mục đích và nhiệm vụ của khố luận
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục, tác giả khoá luận muốn chỉ ra những giải pháp để vận dụng tư tưởng
đó vào việc cải cách giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Nêu thực trạng giáo dục ở các trường đại học trong những năm qua, và
làm rõ yêu cầu của thời kỳ đổi mới đối với việc cải cách nền giáo dục đại học ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm cải cách hệ thống giáo dục ở các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khoá luận tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục.
- Thực trạng giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục để vận
dụng vào cải cách giáo dục đại học.
- Thực trạng giáo dục đại học ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Khoá luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về vấn đề giáo dục trong qúa trình CNH, HĐH đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khố luận chủ yếu vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin, các phương pháp: lôgic - lịch sử; phương pháp quy nạp –



8

diễn dịch; phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh; phương pháp khái quát
hoá, điều tra khảo sát thực tiễn…để làm rõ nội dung cơ bản của đề tài.
6. Đóng góp về mặt khoa học của khố luận
- Khố luận góp phần hệ thống hố quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo
dục trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng XHCN.
- Khóa luận nêu lên những giải pháp cụ thể nhằm cải cách giáo dục đại
học ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khoá luận
- Bổ sung, làm rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng cải cách giáo dục ở các trường đại học trong giai
đoạn hiện nay.
- Với những kết quả đạt được, khố luận có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và các hoạt động
giáo dục ở các trường đại học phạm vi trong nước.
8. Kết cấu khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, khoá luận gồm 2
chương, 5 tiết.


9

CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
1.1 Một số khái niệm cơ bản
- Giáo dục
Giáo dục là một loại hình, lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn được hình

thành do nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế - xã hội thơng qua q trình
truyền thụ tri thức và kinh nghiệm xã hội của các thế hệ trước cho các thế hệ
sau. Theo Từ điển Giáo dục học (Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2001), thuật ngữ
giáo dục được định nghĩa là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ
thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm,
rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối
tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với
mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời
sống xã hội.
Giáo dục là khoa học về thiết kế xây dựng con người phục vụ chế độ xã
hội; khoa học về cách thức, phương pháp giáo dục con người với chất lượng tốt
nhất, hiệu quả cao nhất; khoa học về xây dựng một nền giáo dục với quy mô, cơ
cấu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; khoa học về một nền giáo dục
phải giải quyết được những yêu cầu của thực tiễn cách mạng đặt ra. Đây là một
hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội loài người, là điều kiện khơng thể
thiếu được để duy trì và phát triển con nguời và xã hội. Giáo dục là một bộ phận
của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, mà con người được giáo
dục là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động lực, vừa là mục đích của phát triển
xã hội.
Từ những nội dung trên cho thấy, giáo dục là hoạt động có vai trị to lớn,
quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả nhân loại. Bởi lẽ,
giáo dục tạo ra cho các dân tộc những nhà bác học, chuyên gia, kỹ sư trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời giáo dục còn tạo ra nhân cách con
người, tạo ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực, đủ “đức” và “tài”


10

để xây dựng xã hội mới. Chính vì lẽ đó giáo dục ln ln là nền móng đối với
tồn bộ chiến lược phát triển con người và chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ

chiến lược kinh tế - xã hội.
Như vậy có thể khái quát giáo dục là một loại hình, lĩnh vực hoạt động xã
hội được xuất hiện do nhu cầu truyền thụ và nâng cao tri thức về tự nhiên, tri
thức về xã hội từ thế hệ trước sang thế hệ sau trong quá trình phát triển khơng
ngừng của xã hội lồi người. Tuỳ theo mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, xuất phát từ
yêu cầu, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc xác định mục đích giáo
dục cụ thể.
- Giáo dục đại học:
Về giáo dục đại học, Hồ Chí Minh chưa có những bài nói, bài viết cụ thể.
Tuy nhiên, thơng qua một số bài nói, bài viết của Người chúng ta có thể nhận
thấy sự quan tâm sâu sắc của Người đến việc giáo dục thế hệ trẻ. Riêng về giáo
dục Đại học, Hồ Chí Minh đã nói về tầm quan trọng của nó như sau: “Trong
việc kiến thiết nước nhà về mọi mặt, ta thiếu rất nhiều cán bộ như kỹ sư, thợ
lành nghề, thầy dạy học... Vì vậy, ta phải phát triển mạnh đại học và chuyên
nghiệp”. Với nhận thức đó, vào ngày 1/10/1945, tức thời điểm ngay sau Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về việc thiết lập Ban Đại học
Văn khoa Hà Nội.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng đảng
trên Báo Nhân dân, số 610, ngày 3 tháng 11 năm 1955, Hồ Chí Minh nêu rõ
nhiệm vụ cho các cấp giáo dục. Đối với giáo dục Đại học, Người yêu cầu:
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý
luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta,
để thiết thực giúp ích cho cơng cuộc xây dựng nước nhà.
Tại khoản 1 Điều 38 của Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2009, ghi rõ:
“Giáo dục đại học bao gồm:
1. Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông



11

hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
2. Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm
học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
3. Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng
thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được
kéo dài hoặc rút ngắn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nghiên cứu sinh không có điều kiện theo học tập trung liên tục và được
cơ sở giáo dục cho phép vẫn phải có đủ lượng thời gian học tập trung theo quy
định tại khoản này để hồn thành chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, trong đó
có ít nhất một năm theo học tập trung liên tục.
5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng
dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn
đặc biệt”.
Như vậy giáo dục bậc Đại học - nơi đào tạo các trí thức trẻ với chun
mơn sâu để họ có thể “đứng vững” trong thị trường lao động vốn nhiều thay đổi
với tư cách một chuyên gia. Giáo dục đại học nhằm giúp sinh viên nắm vững
kiến thức chun mơn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm
việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào
tạo. Tại Điều 39 của Luật Giáo dục (2005) xác định: “Mục tiêu của giáo dục đại
học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ

nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình
độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


12

- Cải cách giáo dục
Cải cách là một biện pháp được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của
thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất
trong một thời gian nhất định. Cải cách cịn có thể hiểu là sự điều chỉnh lớn đối
với các cấu trúc chính trị, văn hóa của xã hội, cần phải có sự đồng tình, ủng hộ
của các lực lượng xã hội. Do đó, cải cách sẽ tạo ra những thay đổi mang tính hệ
thống hơn, trên quy mô rộng lớn, sâu sắc cũng như triệt để hơn về mức độ.
Trong một số trường hợp, nó còn dẫn tới cả những thay đổi về tư duy hành động
cũng như định hướng phát triển.
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Mặc dù Đảng ta không dùng cụm
từ “Cải cách giáo dục” nhưng thực chất đây chính là một cuộc cải cách - một
cuộc cải cách toàn diện ở tất cả bậc học, cải cách cả về nội dung, phương pháp
lẫn mơ hình quản lý giáo dục...
Cuộc cải cách đó đương nhiên sẽ rất tốn kém nhưng yếu tố đầu tiên quyết
định sự thành bại của cuộc cải cách này chính là chất lượng của đội ngũ giáo
viên - lực lượng nịng cốt có nhiệm vụ biến tư tưởng cải cách thành hiện thực.
Lúc này, nếu khơng có chiến lược tổng thể để cải thiện đời sống, nâng cao năng
lực, quyết tâm đổi mới của giáo viên cũng như chế tài để buộc họ phải đổi mới
thì cuộc cải cách này cuối cùng cũng chỉ là “bình mới, rượu cũ”.
Cải cách giáo dục là tạo ra những con người làm chủ tương lai của xã hội,
vì thế cải cách giáo dục khó hơn các cuộc cải cách khác bởi nó phải có kinh
nghiệm để tiên lượng các địi hỏi của đời sống tương lai chứ chưa phải là thỏa
mãn các địi hỏi hiện tại, trong đó vừa có ý nghĩa dự báo, vừa có ý nghĩa quy

hoạch, vừa có ý nghĩa kế hoạch. Ngày nay, càng không thể dự báo tương lai của
bất cứ quốc gia nào nếu quốc gia đó bị cơ lập ra khỏi thế giới, vì thế dự báo
tương lai xã hội là nhiệm vụ số một trong các quá trình giáo dục và cải cách giáo
dục. Muốn dự báo tương lai của Việt Nam, chúng ta phải biết rất rõ diễn biến
địa chính trị, địa kinh tế của Việt Nam, tức là phải dự báo cả thế giới hay là dự
báo sự tương tác của thế giới đối với vùng đất được gọi là Việt Nam. Cải cách


13

giáo dục hiện đang diễn ra quyết liệt không chỉ ở các nước có nền giáo dục kém
phát triển mà còn ở các nước mà nền giáo dục đã đạt đến những trình độ phát
triển vì các nước này cũng nhận ra nhu cầu phải có nguồn nhân lực có chất
lượng ngày càng cao và là chất xúc tác cho sự phát triển và và tiến bộ hơn nữa.
- Cải cách giáo dục đại học.
Trong xu thế chung của cải cách giáo dục, cải cách giáo dục đại học cũng
là một cuộc cải cách toàn diện, đổi mới toàn diện cả về nội dung, phương pháp,
mơ hình quản lý giáo dục…
Do chức năng, nhiệm vụ của giáo dục đại học là đào tạo đội ngũ trí thức
có trình độ cao (Cao đẳng, Đại học, sau Đại học), những nhà bác học, chuyên
gia, kỹ sư trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vậy, về nội dung đào tạo,
cải cách giáo dục đại học phải nhằm đạt tới trang bị cho người học (sinh viên,
học viên) nắm vững kiến thức chuyên môn sâu với tư cách một chuyên gia. Về
phương pháp dạy và học, cải cách giáo dục đại học nhằm đạt tới giúp cho người
học không chỉ nâng cao trình độ, tri thức mà cịn phải có kỹ năng thực hành
thành thạo, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, và giải quyết những vấn đề của
chuyên nghành đào tạo.
Về mơ hình quản lý giáo dục, cải cách giáo dục đại học phải đẩy mạnh
việc kiện toàn bộ máy giáo dục, đảm bảo; đổi mới mạnh mẽ việc phân cấp quản
lý, giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo; nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh

đạo, quản lý, vốn được xem là “đầu tàu”, quyết định đến sự vận hành guồng
máy hoạt động của nhà trường nhất là trong hoạt động nâng cao chất lượng đào
tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy.
Để hướng đến xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, hội nhập
thế giới, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, CNH – HĐH đất nước, cải cách
giáo dục đại học cịn địi hỏi phải tiếp tục đổi mới, hồn thiện việc xây dựng
chương trình, giáo trình tiên tiến, hiện đại. Đổi mới, nâng cao chất lượng việc
kiểm tra thi cử, kiện toàn hệ thống kiểm định chất lương hoạt động đào tạo đại
học. Đặc biệt, cải cách giáo dục đại học chỉ có thể đạt được hiệu quả cịn ở việc
nâng cao chất lượng đội ngũ người thầy có tư tưởng tình cảm đúng đắn, có đạo


14

đức lối sống lành mạnh, trong sáng, có tấm lịng nhiệt thành với nghề nghiệp và
thực sự giỏi về chuyên mơn, giỏi về lĩnh vực mà mình đảm nhiệm.
Tóm lại, trong bối cảnh tồn cầu hóa sự thống trị của văn hóa số và sự
phát triển của nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao đặt ra
cho nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học ở nước ta nói riêng trách nhiệm
hết sức nặng nề. Để hoàn thành nhiệm vụ vinh quang ấy, việc đổi mới, cải cách
mạnh mẽ nền giáo dục đại học một cách toàn diện theo các nội dung nới trên
vửa là xu thế, vừa là nhu cầu tất yếu nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo
đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Kế thừa, phát huy truyền thống trong giáo dục, trọng nhân tài của dân tộc,
Hồ Chí Minh đã có cách nhìn đúng đắn và xem giáo dục là vấn đề chiến lược, là
nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Quan điểm của Người về giáo dục thể hiện
qua hai khía cạnh.
Thứ nhất, giáo dục được Hồ Chí Minh sử dụng với ý nghĩa là quá trình
truyền thụ tri thức về tự nhiên và xã hội từ thế hệ trước sang thế hệ sau nhằm

phát triển toàn diện con người, để bồi dưỡng nâng cao trí thức, tư tưởng, tình
cảm, thể chất và các kỹ năng của người học. Theo nghĩa này, giáo dục là hoạt
động diễn ra rất phong phú về cả loại hình, khơng gian, thời gian, trong đó nòng
cốt là hoạt động dạy hoat trong các nhà trường, với chủ thể là giáo viên và học
sinh. Quan điểm này của Người được thể hiện rõ trong Thư gửi các học sinh
nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (tháng 9
năm 1945).
“Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một
nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên
những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát
triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”1
Thứ hai, với ý nghĩa hẹp hơn, Hồ Chí Minh quan niệm, giáo dục là hoạt
động tác động đến nhận thức của mỗi người nhằm bồi dưỡng, nâng cao ý thức
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2011, t.4, tr.34


15

trách nhiệm, đạo đức công dân, đặc biệt là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Vì vậy Người thường xuyên nhắc nhở các cấp uỷ đảng, chính quyền các
cấp phải chú ý giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy nhà nước và
nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tu dưỡng thực hành đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 4 năm 1952), Người xác định một
trong những nhiệm vụ trước mắt là: “phải giáo dục nhân dân và cán bộ tiết kiệm
chống những bệnh quan liêu, tham ơ, lãng phí, nếu khơng thì một phần khá to
của dân đóng góp sẽ bị tiêu hao một cách vơ ích”1.
Như vậy, có thể hiểu giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh là hoạt động

nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của
một lớp người, thông qua việc dạy chữ, dạy nghề, dạy người, tạo nên cho xã hội
nguồn nhân lực trẻ có trình độ chính trị, văn hố, khoa học kỹ thuật, chun
mơn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một bộ phận trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết việc xác định nội hàm khái niệm “Tư tưởng giáo
dục Hồ Chí Minh” được nhiều nhà nghiên cứu nêu lên, song chưa có sự nhất trí
cao. Tuy vậy, cũng có thể nêu một số nội dung cơ bản đã có sự đồng thuận với
nhau. Theo đó:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống các quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân
chủ nhân dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng về vị trí, vai
trị, tính chất, ngun tắc xây dụng nền giáo dục, mục đích, nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp giáo dục nhằm giúp người học trở thành những con người mới
phát triển toàn diện đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Hệ thống quan điểm, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục rất đa
dạng, phong phú, bao gồm các lĩnh vực về chức năng, nhiệm vụ, vị trí của giáo dục.

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.7, tr.397.


16

Thứ ba, đối tượng nghiên cứu của tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống giáo
dục là hệ thống những quan điểm, lý luận về giáo dục Việt Nam của Người gắn
liền với quá trình cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được vận dụng

vào thực tiễn giáo dục Việt Nam, làm cho giáo dục nước ta ngày một lớn mạnh và
cũng góp phần làm cho tư tưởng của Người được phong phú và phát triển.
Việc nhận thức khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” như trên
là xét ở mặt bản thể luận, tức là khằng định sự tồn tại khách quan của một hiện
thực – tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là
sản phẩm không chỉ của riêng Hồ Chí Minh mà là của cả dân tộc Việt Nam, của
thời đại. Mặt khác, đứng về mặt nhận thức, khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục” cũng chỉ ra một chuyên nghành nghiên cứu thuộc tư tưởng Hồ Chí
Minh với tư cách là một khoa học. Dĩ nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
có liên quan chặt chẽ với khoa học giáo dục và nhiều ngành khoa học xã hội và
nhân văn khác. Với tư cách là một mơn khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục có đối tượng, cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nội dung
cụ thể.
Việc phân biệt hai khái niệm “Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh”- một
hiện thực lịch sử khách quan và “Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh”, với tư cách
là một chuyên ngành khoa học, là điều cần thiết để tránh việc đồng nhất hiện
thực khách quan và nhận thức chủ quan trong quá trinh nghiên cứu. Trong phạm
vi khoá luận này, tác giả trình bày tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh với tư cách
một hiện thực khách quan.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục
1.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của giáo dục
- Vị trí của giáo dục.
Giáo dục là một lĩnh vực nhận được sự quan tâm sớm trong lịch sử phát
triển của nhân loại. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, Platon (429 – 347 Tr.CN) đã
nói: Muốn kiến thiết một quốc gia phải lấy giáo dục làm nền tảng và phải theo
đuổi cơng trình ấy suốt đời. Ở Phương Đông, Khổng Tử (555 – 470 Tr.CN) đã


17


đặt giáo dục ở vị trí rất cao trong xã hội, nó được xem như là một yếu tố tạo nên
sự hưng thịnh, phát triển của một dân tộc. Một thế kỷ sau, Mạnh Tử (372 – 289
Tr.CN) cịn nói rõ hơn mối quan hệ giữa giáo dục và chính trị. Muốn được dân
thì chính trị tốt khơng bằng giáo dục tốt, vì chính trị tốt thì dân sợ, cịn giáo dục
tốt thì dân u, chính trị tốt thì nước giàu cịn giáo dục tốt thì được lịng dân.
Ở nước ta để phát triển đất nước, cha ông ta đã kiên trì xây dựng nên một
đất nước văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, xem “hiền tài là ngun khí
của quốc gia, ngun khí mạnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí suy
thì thế nước yếu rồi xuống thấp” (Thân Nhân Trung (1419 – 1499)).
Kế thừa truyền thống hiếu học của dân tộc, tiếp thu tinh hoa giáo dục của
nhân loại, Hồ Chí Minh có sự quan tâm đặc biệt sâu sắc đến lĩnh vực giáo dục.
Người nhận thức rõ vị trí vai trị quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp cách
mạng, với sự phát triển của đất nước nói chung và đối với mỗi cá nhân nói riêng.
Mục tiêu cao cả đồng thời cũng như khát vọng tột bậc của Hồ Chí Minh là
nguyện suốt đời phấn đấu để làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta
hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học
hành và ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong trong lĩnh vực
giáo dục nhằm giác ngộ và tổ chức nhân dân trong cuộc đấu tranh giành tự do,
độc lập và xây dựng xã hội mới tốt đẹp cho con người Việt Nam
Cùng với việc thiết lập nền dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi
việc giải quyết nạn dốt là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách.
Bởi vì, theo Người “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”1, “dốt thì dại, dại thì
hèn”2. Vì vậy, Người kêu gọi: phải làm cho nhân dân biết đọc, biết viết, xoá nạn
mù chữ, từng bước nâng cao dân trí. Cơng việc kháng chiến, kiến quốc, đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chúng ta phải đem tài sức của dân để làm lợi cho dân. Muốn làm được điều đó,
cần phải có giáo dục và giáo dục lại nhân dân, làm cho mọi người hiểu biết
nhiệm vụ và quyền lợi của mình được hưởng, có trình độ học vấn, nắm được và
1
2


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.10, tr.125


18

từng bước làm chủ trình độ khoa học - kỹ thuật của Việt Nam và thế giới.
Trong Chính cương vắn tắt của Đảng viết năm 1930, Người khẳng định
phải thực hiện “Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố”1. Đến Lời kêu gọi sau
ngày thành lập Đảng, Người tiếp tục nêu cao khẩu hiệu “thực hành giáo dục
toàn dân”2, tức là phải tiến hành phổ cập giáo dục.
Năm 1941, trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, khi sáng lập Mặt trận Việt
Minh để đoàn kết toàn dân tiến hành cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và
phát xít Nhật, trong Mười chính sách của Mặt trận, Hồ Chí Minh đã chú trọng
việc xây dựng nền quốc dân giáo dục: chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng
bức giáo dục đến bậc sơ cấp. Vừa phát triển phong trào cách mạng, Người vừa
tham gia sự nghiệp giáo dục – đào tạo bằng việc mở những lớp học cho cán bộ
cách mạng và đồng bào dân tộc ở miền rừng núi Pác Bó, tham gia biên soạn tài
liệu dạy học và trực tiếp dạy chữ cho họ. Trong mỗi bài giảng của mình, Người
khơng chỉ “dạy chữ” – dạy họ biết đọc biết viết, mà cịn ln tun truyền về
đồn kết, về việc rèn luyện đạo đức cách mạng, động viên đồng bào phải cố
gắng học để hiểu được lý luận cách mạng , đồng thời căn dặn họ khi đi vận động
cách mạng, phải biết dạy lại những gì mình đã học được, giúp họ thốt khỏi đời
sống tinh thần tăm tối, lạc hậu. Từ những buổi đầu ấy bà con đồng bào các dân
tộc thiểu số đẫ được học chữ học cả đạo đức của người cách mạng, gắn những
điều đã học vào thực tiễn hoạt động và đấu tranh cách mạng, nhằm góp sức vào
sự nghiệp giải phóng. Bởi vậy, Người kiên trì thực hiện chủ trương phong trào
Việt Minh lan tới đâu, cần tổ chức học văn hố với tinh thần người biết dạy
người khơng biết, người biết nhiều dạy người biết ít, để mỗi người dân Việt

Nam sớm thốt khỏi cảnh mù chữ, vì “mù chữ thì đứng ngồi chính trị”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, với vị thế của một nguyên
thủ quốc gia, Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân xây dựng nền giáo dục mới trên
cơ sở xoá bỏ nền giáo dục thực dân. Trong hồn cảnh cực kì khó khăn của buổi
đầu mới giành được độc lập, giữa lúc nền kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr.1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr.22


19

hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng,
Người càng chú trọng hơn đến vấn đề giáo dục và đã kêu gọi toàn dân ra sức
thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ vô cùng trọng đại và cấp bách đó là diệt giặc
đói, diệt giặc dốt, và diệt giặc ngoại xâm. Coi dốt là một kẻ địch , Người chỉ rõ:
“Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai
trị nước ta, hơn 90% đồng bào chúng ta mù chữ, nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để
học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần Quốc ngữ, một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu. Vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống lại nạn mù chữ”1.
Chiến dịch chống nạn mù chữ chính thức được phát động từ ngày 6 tháng
9 năm 1945 khi Người ra Sắc lệnh số 17 đặt ra một Bình dân Học vụ trong toàn
cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học
bình dân buổi tối; Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt
buộc và không mất tiền. Để thực hiện chiến dịch xoá nạn mù chữ, Nha Bình dân
học vụ được thành lập ngày 6 tháng 9 năm 1945. Khố huấn luyện cán bộ bình
dân học vụ đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Ngày 4 tháng 10
năm 1945, Người ra lời kêu gọi “Chống nạn thất học” gửi tới toàn thể quốc dân

đồng bào, trong đó nhấn mạnh:
"Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi
người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải
có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biét đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những ngườ chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị
em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ, giúp đồng
bào thất học. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi”2.
Trong thư gửi toàn thể các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên
khi nước nhà vừa giành độc lập, Người viết: "Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần ở cơng
học tập của các em"3.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.40
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.35
1
2


20

Quan niệm giáo dục là chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã mở lớp huấn luyện, đào tạo con người, người cán bộ, làm
nịng cốt cho phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, cho thành công của sự nghiệp
cách mạng. Theo Người:
Kinh tế có kế hoạch, giáo dục cũng phải có kế hoạch. Kế hoạch giáo dục
phải gắn liền với kế hoạch kinh tế. Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế.
Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được...Chúng ta đồng tâm hiệp lực khắc

phục khó khăn thì kinh tế cũng thành cơng, giáo dục cũng thành cơng. Vì vậy,
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu:
Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế khơng
có cán bộ khơng làm được. Khơng có giáo dục khơng có cán bộ thì cũng khơng nói
gì đến kinh tế văn hố. Trong việc đào tạo cán bộ giáo dục là bước đầu.
Coi giáo dục là vấn đề trọng tâm, cần phải chăm lo thường xun, Hồ Chí
Minh trong mọi hồn cảnh, ln giành sự quan tâm sâu sắc cho sự nghiệp giáo
dục nước nhà. Ngay khi đất nước vừa giành được độc lập, Người đã chủ trì
phiên họp của Chính phủ và nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay, trong
đó có nhiệm vụ mở chiến dịch chống nạn mù chữ, chống giặc dốt. Khi đất nước
đang trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, việc quân sự là
việc quan trọng nhất nhưng Người vẫn khẳng định giáo dục – đào tạo là cơng
việc quan trọng, cần kíp. Người khẳng định: “Chúng ta cần phải có một nền giáo
dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp
kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các
trường.
3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng
chiến và kiến quốc.
4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ
kháng chiến và kiến quốc.
5. Về bình dân học vụ, nhờ sự hy sinh cố gắng của nam nữ giáo viên, đã


21

có kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ, số đơng đồng bào đã biết đọc biết viết thì chúng
ta phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ vǎn hố phổ thơng của
đồng bào.

Với sự lãnh đạo của bộ trưởng và sự cố gắng thi đua ái quốc của tồn thể
nhân viên giáo dục, tơi chắc hội nghị sẽ có một chương trình hoạt động thiết
thực để đi đến thành cơng”1
Như vậy Hồ Chí Minh quan niệm, xây dựng một nền giáo dục để ai cũng
được học tập là nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Với Người, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu, được xem là vấn đề
chiến lược, cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam, là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần đến tương lai của dân tộc, đến thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
-

Vai trị của giáo dục.

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trị quan trọng, tầm ảnh hưởng
sâu rộng của giáo dục đối với việc xây dựng một xã hội mới, giáo dục có vai trị
quyết định đối với việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp các mạng, xây dựng đất
nước giàu mạnh, văn minh. Khi Chính phủ mới thành lập, Người chỉ đạo một
trong những công việc phải thực hiện cấp tốc là nâng cao dân trí: “Nay chúng ta
đã dành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc
trong lúc này là nâng cao dân trí”2. Theo Người, nâng cao dân trí là một đòi hỏi
cấp thiết của xã hội Việt Nam lúc này để giải quyết hậu quả của “chính sách ngu
dân” do thực dân Pháp áp đặt đã dẫn đến hậu quả nặng nề là hơn 90% dân số
Việt Nam bị mù chữ, nhân dân bị trói buộc trong vịng u muội, bị chúng coi như
cơng cụ biết nói.
Trước thực trạng trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ: dốt nát cũng là một kẻ thù, do
vậy, phải nâng cao dân trí, mà trước hết phải thơng qua giáo dục để nâng cao trình
độ văn hóa cho nhân dân thơng qua việc học chữ quốc ngữ. Người khẳng định:
1
2


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.575
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.40


22

Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Người đã phát động phong trào toàn dân diệt giặc dốt cùng với giặc đói và
giặc ngoại xâm, nhằm đạt bằng được mục tiêu: “biến một nước dốt nát, cực khổ
thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”1.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, giáo dục (dạy và học) không chỉ nhằm
nâng cao kiến thức văn hóa (học chữ) mà cịn góp phần nâng cao kiến thức về
mọi mặt (về kinh tế, chính trị, xã hội...) cho nhân dân. Đối với cán bộ, Người
nói: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai
cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”2. Với đội ngũ cán bộ của Đảng, Người
cảnh báo: “khơng học thì khơng theo kịp, cơng việc nó sẽ gạt mình lại phía
sau”3. Cho nên, giáo dục phải đáp ứng được yêu cầu nâng cao kiến thức mọi mặt
cho nhân dân. Người nói: “Thời trước giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn
...Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước. Các cơ, các chú có nhiệm vụ rất quan
trọng: Bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có
ảnh hưởng tốt. Làm khơng tốt sẽ có ảnh hưởng khơng tốt đến thế hệ sau. Mục
đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người,
lớp cán bộ mới”4.
Hồ Chí Minh chỉ rõ quy luật đối với mỗi người, đó là: “Dốt thì dại, dại thì
hèn. Vì khơng chịu dại, khơng chịu hèn, cho nên thanh toán nạn mù chữ là một
trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới”5.
Cũng vì thế, Người nhắn nhủ mọi người dân nước Việt Nam độc lập ai ai phải

học để hiểu biết quyền lợi và bổn phận công dân của mình, “phải có kiến thức
mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Với giai cấp cơng nhân, “máy móc ngày một thêm
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.11, tr.92
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.208
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.13, tr.273
4
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.10, tr.344
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.10, tr.125
2


×