MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa lớn của
nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương cao cả cho dân tộc Việt
Nam cũng như nhân loại tiến bộ trên thế giới. Di sản tư tưởng mà Người để lại đã
từng góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Nổi bật
trong tư tưởng của Người là lòng yêu nước thương dân, yêu con người sâu sắc. Suốt
đời, Người phấn đấu, hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Tư
tưởng về con người là một trong những bộ phận quan trọng trong di sản lý luận của
Người. Trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng con người hiện nay, những tư
tưởng của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Nó gợi mở cho chúng ta nhìn nhận
mục tiêu, phương pháp xây dựng con người trong bối cảnh hiện đại, khi con người
Việt Nam được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Vì vậy, nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp
cho mỗi chúng ta “trong sáng hơn”, mà còn có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc
xây dựng những phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện nay.
Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cơ bản của quá trình này là phấn đấu, xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và
bền vững; xây dựng con người Việt Nam hiện đại, mà trước hết là đội ngũ những
người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần thục, cần phải nhanh
chóng tạo ra một lực lượng tri thức đông về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ
về cơ cấu, đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra về sự phát triển xã hội, thực hiện
thành công sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Việc xây dựng con
người mới là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng phát triển, bảo vệ đất
nước hiện tại và tương lai.
Từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra như vậy nên tôi quyết định lựa
chọn đề tài: “Xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay”.
1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
-Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích một cách khái quát những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới,
niên luận chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, tìm nguyên nhân và những giải pháp
để xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
-Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và giá trị của những quan điểm đó và làm rõ thực trạng xây dựng
con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là con người Việt Nam trong phạm vi đất nước Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận: Niên luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về con người và chiến lược “trồng người”.
- Phương pháp nghiên cứư: Trong niên luận đã sử dụng một số phương pháp chủ
yếu như: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh đối chiếu,
gắn lý luận với thực tiễn…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, niên luận gồm 2
chương 7 tiết.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1.1 Quan niệm của phương Đông về con người
Trong thuyết âm - dương ngũ hành, con người là sản phẩm của tạo hóa, được
sinh ra bởi sự giao cảm của âm – dương.
Về bản chất con người, có nhiều quan điểm khác nhau. Các trường phái triết học
tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất con người trên cơ
sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Trong triết học Phật giáo,
con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống con người
trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy cuộc đời con người khi còn sống chỉ là
sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh
thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Trong Triết học phương Đông, do ảnh hưởng bởi thế giới quan duy tâm hoặc
duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bản
chất con người cũng thể hiện một cách phong phú. Khổng Tử cho bản chất con
người do “thiên mệnh” chi phối, quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của
con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào
năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị
nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ
được đạo đức của mình. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân
ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.
Triết học Tuân Tử lại cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng có
thể cải biến được, phải chống lại cái ác thì con người mới tốt được.
Đổng Trọng Thư - người kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực
đoan quan niệm trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau.
Lão Tử - người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ
“Đạo”. Do vậy, con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không
hành động một cách giả tạo, trái với tự nhiên. Quan niệm này biều hiện tư tưởng duy
tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
3
Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm
có pha trộn tính chất duy vật chất phác, ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và
xã hội.
1.2 Quan niệm của phương Tây về con người
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau về
con người:
Các trường phái triết học phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức vấn đề
con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô giáo, con người là
kẻ có thể xác, thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu. Linh hồn là giá
trị cao trong con người. Vì vậy phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng
đến Thiên đường vĩnh cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy
triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Con
người là một tiểu vũ trụ bao la.
Theo Arixtốt, con người chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ
thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ.
Triết học Hy Lạp đã có sự phân biệt con người với tự nhiên nhưng chỉ là hiểu
biết bên ngoài về tồn tại con người.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo
ra, mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế
xếp đặt.
Triết học thời kỳ Phục hưng - cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của
con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố
quan trọng nhằm giải thoát con người khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà theo chủ
nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên vẫn chưa trường
phái nào nhận thức được đầy đủ về bản chất con người cả về mặt sinh học và mặt xã
hội. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen đã
phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm.
Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận động của
“ý niệm tuyệt đối”, đã cho rằng con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”.
4
Hêghen cũng là ngừoi trình bày một cách có hệ thống về các quy luật tư duy của con
người, làm rõ cơ chế của đời sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con
người. Hêghen là người khẳng định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử,
đồng thời là kết quả của sự phát triển của lịch sử.
Tư tưởng triết học của nhà duy vật Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế trong
triết học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực.
Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, siêu vật chất, phi thể xác về bản
cht con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận
động của thế giới vật chất tạo nên. Con người và tự nhiên là thống nhất không thể
tách rời. Phoiơbắc đề cao vai trò trí tuệ của con người với tính cách là các cá thể
người.
Đó là những con người cá biệt, phong phú, đa dạng, không ai giống ai Quan
niệm này đều dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính nhằm giải
phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản chất xã hội
trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác đã khái quát bản chất con người, qua
câu nói nổi tiếng: “Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người.
Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội”.
Về bản chất con người, triết học tư sản còn có một quan điểm cho rằng nội
dung chung nhất về bản chất con người là con người sinh vật học, hay là con người
bản năng sinh vật. Những người theo quan điểm trên đặt vấn đề: không cần quan
tâm đến tính chất đặt biệt của xã hội mà chỉ chú trọng đến yếu tố sinh vật học và tâm
lý khi giải thích sự phát triển của xã hội. Họ áp dụng một cách sơ lược những quy
luật sinh vật học vào lĩnh vực xã hội, phủ nhận những đặc điểm của quy luật xã hội.
Không thừa nhận quan điểm thuần túy sinh vật về con người, nhiều nhà tư
tưởng lớn trước Mác cũng như cùng thời hoặc sau Mác, đã đưa ra những tiêu chí
phân biệt con người và động vật. Phranklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ
con người biết sử dụng công cụ lao động. Aristote đã gọi con người là “một động vật
có tính xã hội”. Pascal nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức mạnh của con
5
người và sức mạnh của con người là ở chổ con người biết suy nghĩ. Ông đưa ra hình
tượng con người chỉ là “một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ” (le Roseau
pensant).
Các nhận định trên đều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người,
nhưng cũng đều còn phiến diện, không nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm
ấy và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Chủ nghĩa Mác không phủ nhận những yếu tố sinh vật ở con người. Như Mác
từng nói, con người trước hết phải ăn, mặc, ở, rồi mới làm triết học. Nhưng đối với
con người thì ngay ăn, mặc, ở và mọi hành vi mang tính động vật khác cũng đầy tính
xã hội. Lịch sử của con người là lịch sử không ngừng văn minh hóa những hành vi
có tính động vật. Bao nhiêu tâm huyết của loài người đã được bỏ ra để ăn, mặc, ở,
của động vật.
1.3 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới
1.3.1 Con người và bản chất con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người đã được thể
hiện trong những điểm chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về người: “Chữ người nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người”.
Theo định nghĩa này (duy danh), “chữ người” mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây
chủ yếu là con người cộng đồng, tồn tại ở ba khu vự địa lý khác nhau (làng, nước,
thế giới) được hiểu ở ba nghĩa: hẹp, rộng và rất rộng và đây chủ yếu là con người xã
hội, có quan hệ xã hội và mang bản chất xã hội.
Song, sự độc đáo của cách này là ở chỗ: “Chữ người” (chữ người viết nghiêng),
là chỉ cho con người cá thể (một con người), nhưng con người đó là một con người
xã hội, là một thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định. Cộng đồng đó, không
chỉ là cộng đồng ba cấp nhà – làng – nước đã tồn tại từ lâu quan niệm của nhân dân
ta, mà còn cụ thể hơn, rộng hơn với 5 cấp là gia đình, họ tộc, làng xóm, dân tộc và
nhân loại như Hồ Chí Minh nêu trong định nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là để
thành người (chữ người) thì điều kiện cần là con người cá thể, con người sinh vật
6
học, nhưng điều kiện đủ phải là con người xã hội. Nghĩa là nghiên cứu con người,
bản chất con người phải đồng thời chú ý cả hai mặt sinh vật học và xã hội.
Cái độc đáo của định nghĩa còn hàm chứa tiêu chuẩn con người khi nói đến
nghĩa hẹp, rộng và rộng nữa, tức là nói đến khả năng phát triển của con người, đơn
giản hay phong phú, trình độ cao hay thấp phụ thuộc vào kết quả của ứng xử, giải
quyết các quan hệ xã hội xuất hiện đơn giản hay phức tạp, gia đình hay quốc gia
hoặc quốc tế. Con người sẽ phát triển hơn khi được giao tiếp rộng hơn, “đi một ngày
đàng, học một sàng khôn”.
Cùng dùng với thuật ngữ chữ người, gia đình, an hem, họ hàng, bầu bạn, đồng
bào nhân loại để chỉ cho “con người”, Hồ Chí Minh còn dùng các thuật ngữ khác
như: dân, dân chúng, quần chúng, sĩ, nông, công, thương, già, trẻ, gái, trai, cán bộ,
đảng viên… cũng để nói về “con người” Hồ Chí Minh dùng ít nhất (hai lần), nhưng
thông qua các thuật ngữ trên Hồ Chí Minh đề cập đầy đủ các mặt của con người.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải ăn, mặc, ở, đi, lại…
Đó là nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người. Con người sinh vật học và con
người xã hội (con người trí tuệ) đều có nhu cầu (bản năng) ăn, ở, đi lại.
Song, con người khác con vật ở chỗ, trong con người, ý thức thay thế bản năng,
hoặc bản năng con người là bản năng đã được ý thức. Ở con người cái bản năng đã
được cải tạo, nhưng không hề bị xóa bỏ, nó vẫn tác động tới toàn bộ đời sống của
con người. Quá trình người hóa là quá trình duy nhất diễn ra trogn sự tương tác giữa
các yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội.
Thực ra, không có hai loại con người, tức con người sinh vật học và con người
xã hội, cùng sống trong xã hội loài người, mà chỉ có con người cụ thể được phát
triển từ con người cụ thể được phát triển từ con người sinh học thành người khôn và
trưởng thành, hiện tồn tại là con người có trí tuệ có ý thức.
Thứ ba, theo Hồ Chí Minh, con người là bộ phận của tự nhiên, nhưng con
người không chỉ biết thích nghi với tự nhiên, mà còn chinh phục tự nhiên; không
chịu lệ thuộc vào tự nhiên, mà muốn cải tạo, làm chủ tự nhiên, không chỉ bằng lòng
với cái tự nhiên vốn có, mà còn tạo ra cái thiên nhiên thứ hai để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Trong hoạt động đầy sáng toaọ đó, mỗi con người cụ
7
thể bao giờ cũng là thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định, tham gia vào
chinh phục, cải tạo tự nhiên theo chức năng và vai trò của cộng đồng mình.
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt người này với người khác chủ yếu
không phải là vấn đề chủng tộc màu da (vàng, trắng, đỏ hay đen) hoặc vấn đề dân
tộc, mà từ nhận thức về chủng tộc, dân tộc đi đến nhận thức về giai cấp. Đó là sự
vận động của tư duy Hồ Chí Minh về vấn đề con người. Từ việc tìm câu trả lời: Vì
sao người Việt Nam phải làm nô lệ, phải cùng khổ, mất nước, người Việt Nam da
vàng bị coi thường nhân tính cũng như nhiều dân tộc thuộc địa trên thế giới đang bị
đọa đày, Hồ Chí Minh, đã thấy được rằng, chỉ có thể giải phóng giai cấp mới giải
phóng được các dân tộc trên thế giới. Nhưng Người không đi tới nhận thức một cách
cực đoan về vấn đề giai cấp, mà lại luôn luôn kết hợp với giai cấp trong mọi vấn đề
của cách mạng Việt Nam, trong đó có con người.
Thứ năm, từ các vấn đề nêu trên, bản chất con người theo tư tưởng Hồ Chí
Minh được bộc lộ rõ ràng. Hồ Chí Minh luôn luôn đặt con người, mỗi cá nhân con
người trong mối quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng nhất định , trong đó
mỗi người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định, trong đó con
người được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với tự nhiên, mà con người là
một bộ phận không tách rời, nhưng lại luôn luôn “người hóa” tự nhiên trong những
cộng đồng xã hội nhất định, và bi quy định bởi những chế độ xã hội nhất định.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm mácxít về con người: “bản chất
con người” không phải là một cái trừu tượng cố hữu cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Các quan hệ xã hội có nhiều loại, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò chi
phối, quyết định các quan hệ xã hội khácm biểu hiện thành quan hệ giai cấp. Vì nó,
xác định con người thuộc các giai tầng xã hội khác nhau. Do vây, nói đến bản chất
con người trong xã hội có giai cấp thì trước hết phải nói đến giai cấp của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khẳng định quan hệ sản xuất đã phân chia con
người thành “giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. đồng thời lại thấy chỉ
có tổng hòa tất cả các quan hệ xã hội thì mới tạo thành bản chất con người. Người
không coi nhẹ mặt quan hệ sản xuất, và cũng không tuyệt đối hóa quan hệ sản xuất,
và cũng không coi quan hệ sản xuất là duy nhất tạo thành bản chất con người.
8
Từ đó có thể thấy rằng bản chất con người cũng biến đổi cùng với sự biến đổi
của các quan hệ xã hội. Chính điều này mà Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề
cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới khi chế đọ thực dân phong kiến ở
nước ta đã bị lật đổ, khi cả một dân tộc đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội
mới dưới sự lãnh của Đảng Cộng sản, thực hiện chiến lược trồng người.
1.3.2 Vai trò của con người
- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì quý bằng nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ
nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ mấy không có nhân
dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tin thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm.
Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào
cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh đến việc nhường cơm, sẻ
áo, chở che, đùm bọc bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Dân ta tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ
mãi không ra”. Đặc biệt là lòng sốt sắn, hăng hái của dân để thực hiện con đường
cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tin thần quật cường và lực
lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và ý chí kiên quyết của nhân dân và
quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và
sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng; phải coi trọng, chăm
sóc, phát huy nhân tố con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ
Chí Minh thấy yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao
động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911,
giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu lầm than, Người ra đi với ý
chí “quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm
9
của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những
người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo;
ngược lại, Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả
năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng,
rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho
con người. Người xác định con người là mục tiêu tỏng điều kiện cụ thể của từng giai
đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là
giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân,
thì mục tiêu ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì,
“nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân
có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết:
“Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích
lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích của cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng
lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải
hết sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải hết sức tránh.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì có hết
tất cả”…
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân
dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì chính
phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn
đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực
lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách
mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được
10
với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân
dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người
cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho
người cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân,
khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân;
không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên
nhân của căn bệnh nguy hiểm – bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết
quả là “hỏng việc”.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có
ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hộị. Nhà
nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công – nông – trí làm nền tảng. Từ thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở
trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với
những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chon chủ nghĩa
tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn
bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hung mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người
được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được
nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt
Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lcự con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có
lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì tạo thành
con người – động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh con
người – động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con
người – động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
11
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ
chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăn thứ bệnh:
thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám
nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng
tạo.
1.3.3 Xây dựng con người mới
Tư tưởng truyền thống Việt Nam “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là
dân” hoàn toàn phù hợp với quan điểm “cách mạng là sự nghiệp quần chúng” mà
chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra. Quán triệt tư tưởng ấy, Hồ Chí Minh đã sớm
khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người
là sự nghiệp của giai cấp vô sản , của nhân dân lao động và của cả dân tộc, với tinh
thần “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của
giai cấp vô sản, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam không phải chỉ ở những gì
đã được bộc lộ, mà còn ở những tiềm ẩn bên trong những những lực lượng to lớn ấy.
Người tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp vô sản, nhân dân lao động và cả dân tộc
được thức tỉnh, được tổ chức đấu tranh theo một đường lối đúng đắn thì sức mạnh sẽ
trở thành vô địch và nhất định sẽ giành thắng lợi. Nhận thức và niềm tin ấy cũng
được Người khẳng định đối với các dân tộc thuộc địa, giai cấp vô sản và nhân dân
lao động toàn thế giới.
Ngay từ đầu những thập niên đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nêu ra những
nhận định hết sức quan trọng: tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam
có thể nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước; Chủ nghĩa đế quốc đã tự đào hố
chon mình vì nó đã tạo ra một giai một giai cấp vô sản ở Việt Nam và dạy cho người
Việt anm biết sử dụng vũ khí. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực người Đông Dương
vẫn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớn khi
thời cơ đến; Hàng trăn triệu nhân dân châu Á một khi thức tỉnh sẽ trở thành một lực
lượng khổng lồ có thể thủ tiêu được cả chủ nghĩa đế quốc thực dân và có thể giúp đỡ
những người anh em ở phươgn Tây trogn nhiệm vụ giải phonga hoàn toàn…
Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới với tư cách là
chủ thể của cách mạng, chủ thể xây dựng xã hội mới trong một số luận điểm dưới
đây:
12
• Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi, phải có những con người tiên tiến mở
đường lôi cuốn quần chúng vào con đường cách mạng, tạo thành phong trào cách
mạng ngày càng rộng lớn.
Nhưng lực lượng của quần chúng nhân dân chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi
được thức tỉnh, được tổ chức lại, có nghĩa là được lãnh đạo bởi những con người con
người tiên tiến do chính những lực lượng ấy sản sinh ra.
Ra đời trong phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam, lại hòa
mình vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc,
từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh là người đi tìm
đường trở thành người mở ra con đường con mới cho cách mạng Việt Nam và tất cả
dẫn dắt cả dân tộc đi theo con đường đó. Điều này đã được Người nói rõ khi rời
nước Pháp vào tháng 6-1923 rằng, đã đến lúc Người phải trở về nước, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh để
giành độc lập tự do.
Nhưng công việc to lớn đó không phải chỉ riêng một người có thể làm được.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tập hợp những người tiên tiến lúc đó để tạo nên một
lực lượng nòng cốt của cách mạng, từ đó đi vào quần chúng, đưa phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển lên một bước mới về chất, từ tự
phát đến tự giác. Đó là những con người đã được tập trong Hội Việt Nam Thanh
niên cách mạng (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội) từ 1925 trở đi và
sau đó là những người cộng sản, những người tiếp nhận chr nghĩa Mác – Lênin do
Hồ Chí Minh truyền bá và đường lối cách mạng mới do Người xác định, những
thành viên của một đảng tiên phong do Người sáng lập để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Chính lực lượng nòng cốt này đã tỏa ra khắp ba miền đất nước, đã đi vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thức tỉnh quần chúng, tổ chức, hướng
dẫn quần chúng đứng lên đấu tranh. Từ đó lại xuất hiện ngày càng nhiều những con
người tiên tiến trong quần chúng cách mạng, những người một lòng một dạ đi theo
Đảng Cộng sản, sẳn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng chính mình gắn
liền với giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Phong trào cách mạng, như Mác
– Lênin đã chỉ rõ, không thể có được sự rộng lớn ngay từ đầu, mà chỉ có thể bắt đầu
từ một số ít người tiên tiến và những người này sẽ càng thu hút động đảo quần
13
chúng nhân dân và phong trào cách mạng. Họ chính là người mở đầu cho việc hình
thành và phát triển những con người mới đáp ứng những yêu cầu của cách mạng.
Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã thể hiện rất rõ điều đó.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, Lênin tập trung xây dựng Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản, đặc biệt ông đã xác định những nguyên tắc cơ bản để xây dựng
Đảng thực sự chân chính, thực sự cách mạng để làm tròn sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
cuộc cách mạng vô sản đang đến gần nước Nga. Còn Hồ Chí Minh, khi chuẩn bị cho
việc thành lập Đảng kiểu mới ấy, cùng với việc xác định đường lối cách mạng đúng
đắn, Người đặc biệt chú ý đến việc xây dựng người đảng viên, với tính chất là người
cách mạng kiểu mới, khác với tất cả những người cách mạng lớp trước ở Việt Nam.
Phải có những nguời cộng sản, những người cách mạng kiểu mới đi vào quần chúng,
dẫn đến những thắng lợi cách mạng.
Xuất phát từ yêu cầu của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ lịch sử của Đảng
Cộng sản, Hồ Chí Minh đã sớm nêu lên những tiêu chuẩn của người cách mạng,
thực chất là của người đảng viện cộng sản để định hướng cho sự phấn đấu của mỗi
người muốn mang danh hiệu cao quý đó. Ngay trong bài đầu tiên huấn luyện cho
những người được lựa chọn gia nhập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng Người đã
nói khá cặn kẽ về “Tư cách một người cách mệnh”. Trên báo Thanh niên số 61,
tháng 9-1926, Người lại nêu lên tiêu chuẩn của “người cách mệnh mẫu mực”. Từ
những bài nói, bài viết của Người trong thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, có thể thấy
tinh thần chủ yếu của những tiêu chuẩn ấy tập trung vào một số điều có ý nghĩa rất
cơ bản và dài lâu đối với việc xây dựng người cách mạng mẫu mực:
- Phải giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt; phải
hiểu, phải theo, phải giữ vững chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phải tiến hành cách mạng đến nơi, từ “cách mạng dân tộc” (tức cách mạng giải
phóng dân tộc) đến “cách mạng xã hội”, “cách mạng thế giới” (tức cách mạng xã hội
chủ nghĩa) để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người,
giải phóng toàn nhân loại thoát khỏi chế độ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Phải đấu tranh cách mạng đến cùng, đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên hết;
kiên trì, nhẫn nại; không sợ khó, khong sợ khổ, không sợ hy sinh.
14
- Phải lãnh đạo nhân dân giác ngộ, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn nhân dân; phải gắn
bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân tinh cậy.
- Phải trong sáng về tư cách đạo đức trong cả ba mối liên hệ với mình, với người, với
công việc: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ít lòng ham muốn về vật chất, xem
thường danh vị, ngôi thứ, tiền bạc; khiêm tốn ngoan hòa…
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, những nội dung trên đây đã
chính thức được chuyển thành những tiêu chuẩn của Người Đảng viên và được ghi
trong Điều lệ Đảng. Những tiêu chuẩn ấy lại được cụ thể hóa và được bổ sung, phát
triển cho phù hợp với những bước phát triển của cách mạng – từ khi chưa có chính
quyền, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Điều đó đã được thể hiện trong hàng loạt bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, đặc biệt
từ khi Đảng trở thành một Đảng cầm quyền. Đồng thời, Người cũng từng bước nêu
ra những đòi hỏi đối với con người của một nước Việt Nam độc lập, một nước Việt
Nam dân chủ mới, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những tiêu chuẩn đảng viên là những yêu cầu cao, đòi hỏi mỗi người cộng sản
phải phấn đấu để xứng đáng là thành viên cao nhất của tổ chức của giai cấp công
nhân, đại biểu trí tuệ, danh dự, lương tâm của cả dân tộc; còn những tiêu chuẩn con
người mới lại là những yêu cầu rộng rãi đối với mọi người với tư cách là công dân
của một nước Việt Nam mới. Hai loại tiêu chuẩn đó có những nội dung thống nhất
với nhau, nhưng lại khác nhau ở mức, độ cao hay thấp, nhiều hay ít, rộng hay hẹp, ở
trách nhiệm đối với Đảng, đối với đất nước, với dân tộc. Vì vậy, không phải mọi con
người mới đều là dảng viên, nhưng mọi người đảng viên thực sự xứng đáng với
danh hiệu người cộng sản thì phải là con người mới, hơn nữa lại phải tiêu biểu cho
con người mới Việt Nam.
Dáng dấp của con người mới Việt Nam có thể thấy ở hàng triệu những con
người bình thường trong mọi lĩnh vực hoạt động và môi trường sống của họ, với
những mức độ khác nhau, nhưng đã kết hợp với nhau để tạo nên cái chân, cái thiện,
cái mỹ của con người và xã hội Việt Nam. Con người đã thực sự là chủ thể cách
mạng, của kháng chiến chống ngoại xâm và xây dựng đất nước; trong đó những
người cộng sản và những người dân mang những nét tiêu biểu của con người mới là
15
lực lượng đã lôi cuốn cả dân tộc vào cuộc chiến đấu khổng lồ vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
• Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa
Một nước Việt Nam độc lập phải có những con người phù hợp với nó. Tinh
thần ấy đã được Hồ Chí Minh nói rõ khi đặt vấn đề phải xây dựng nền văn hóa mới,
xây dựng đời sống mới ngay khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời.
Vấn đề xây dựng con người mới đã được Hồ Chí Minh chính thức nêu ra trong
báo cáo chính trị do Người trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (11-2-1951): “Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ
mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nói chuyện tại Lớp đào tạo
hướng dẫn viên các trại hè cấp I (12-6-1956), Người chỉ rõ: “Mục đích giáo dục bây
giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”.
Khái niệm con người xã hội chủ nghĩa, con người mới xã hội chủ nghĩa được
Hồ Chí Minh đặt ra khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lần đầu tiên Người đề cập đến khái niệm này ở trogn bài nói với thầy và trò trường
Chu Văn An ngày 31-12-1958: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã hội chủ
nghĩa”. Từ đó khái niệm con người xã hội chủ nghĩa đã được Người nhắc đến nhiều
lần. Đến tháng 3-1961, nói chuyện với Hội nghị cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền
Bắc nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, Người đi đến một luận
điểm quan trọng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”. Người đã thay đổi, bổ sung một số từ ngữ để luận điểm về
xây dựng con người xã chủ nghĩa mang tính chuẩn xác cao hơn: “Muốn xã hội chủ
nghĩa” thành “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “phải có người xã hội chủ nghĩa”
thành “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Đối với chúng ta, luận điểm trên đây đã trở thành luận điểm kinh điển khi đề
cập đến vấn đề xây dựng con người của chủ nghĩa xã hội. Có thể hiểu luận điểm này
với những nội dung chủ yếu sau đây:
- Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã
hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không thể nói đến việc xây dựng con người xã hội xã
16
nghĩa, ngược lại, không có những con người xã hội chủ nghĩa thì không thể xây
dựng được chủ nghĩa xã hội. Tinh thần ấy cũng đã được Hồ Chí Minh đề cập khi nói
về vấn đề xây dựng nền văn hóa mới, như đã trình bày ở trên. Tinh thần này hoàn
toàn phù hợp với quan điểm của Mác khi phê phán chủ nghĩa duy vật cũ cho rằng
“con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục”. “con người đã biến đổi
là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi”, nhưng
“cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Đây chính là quan điểm biện
chứng duy vật về mối quan hệ giữa hoàn cảnh và con người.
- Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa
rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải
được đặt ran gay từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình và cá
nhân đặc biệt quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa, đều đó không có nghĩa là tất cả
mọi người phải và có thể trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật
hoàn chỉnh ngay một lúc, vì như vậy là hoàn toàn ảo tưởng. Điều đó chỉ có nghĩa là,
trước hết, cần có những con người tiên tiến, có được nét tiêu biểu của con người mới
xã hội chủ nghĩa có thể làm gương cho người khác, từ đó lôi cuốn toàn xã hội đẩy
mạnh việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. “Chúng ta cũng biết rằng
trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian,
muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ
của trung gian để kéo chậm tiến”. Những lời chỉ dẫn trên đây của Hồ Chí Minh đối
việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nông dân cho quá trình tiến hành hợp
tác hóa nông nghiệp còn có ý nghĩa đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu lên những tiêu chuẩn của con người mới xã hội
chủ nghĩa, tập trung ở những điểm chủ yếu như:
- Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ; có tinh thần tập thể xã hội chủ
nghĩa; có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có tinh thần tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; có tinh thần dám nghĩ, dám làm,
vươn lên hàng đầu.
17
- Có đạo đức xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người;
cần kiệm liên chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng; có lối sống
trong sạch lành mạnh.
- Có tác phong xã hội:lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm; lao động có
tổ chức, có kỷ luật, có kỷ thuật; lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả; lao
động quên mình, không sợ khó, sợ khổ, vì lợi ích của bản thân, của tập thể và của xã
hội.
- Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc của chính mình; phải có
năng lực để nông dân, xã viên làm chủ ruộng đồng, hợp tác xã, công nhân làm chủ
công trường, xí nghiệp, xí nghiệp công dân có thể tham gia làm chủ Nhà nước và xã
hội; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên
môn nghiệp vụ để làm chủ.
Người không chỉ nêu lên những tiêu chuẩn của con người mới xã hội chủ
nghĩa nói chung, mà còn nêu lên những tiêu chuẩn cụ thể đối với từng giới, từng
ngành như công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng,
công an, quân đội, v.v
Những tiêu chuẩn con người mới xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh xác định
xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội, từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin
về việc xây dựng con người và xã hội mới, và đặc biệt quan trọng là xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam – đất nước, xã hội, con người, cùng với những yêu cầu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành ở nước ta.
Khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa đã được sử dụng trong các Văn
kiện, Nghị quyết của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được quán triệt vào việc
xác định những tiêu chuẩn của con người mới xã hội chủ nghĩa trogn suốt mấy chục
năm qua.
Đại hội IV của Đảng (năm 1976) đã nêu ra khá cụ thể: “Con người mới xã hội
chủ nghĩa là con người Việt Nam mới mà những đặc trưng nỗi bật là: làm chủ tập
thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản. Đó cũng là sự
kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt cách Việt Nam hun
đúc qua bốn nghìn năm lịch sử”.
Trong Văn kiện này, những tiêu chuẩn con người mới xã hội chủ nghĩa đã được
xác định về nhiều mặt: tư tưởng, tình cảm, trí thức, năng lực lao động, tình đoàn kết
18
thương yêu nhau; lấy việc xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi
người làm lý tưởng cao đẹp, làm hạnh phúc của mình.
Tiêu chuẩn con người mới còn đòi hỏi mỗi người phải có trách nhiệm đầy đủ và
tình yêu chân thật trong quan hệ vợ chồng, có trách nhiệm cao đối với việc xây dựng
con cái thành những con người mới.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (1991) cũng nhấn mạnh:
“Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia
đình, từng tập thể lao động và tập thể cư dân trong việc chăm lo bồi dưỡng hình
thành con người mới. Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công
dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng
yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”.
Phấn đấu theo những tiêu chuẩn trên đây, cuộc sống của cá nhân mỗi người và
của cả xã hội sẽ từng bước vượt qua được những cái nhỏ bé thấp hèn, vươn tới
những cái lớn cao thượng, làm cho con người được phát triển toàn diện cùng với sự
phát triển của đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay chúng ta nói rằng, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa là
chủ thể, vừa là sản phẩm của nền văn hóa mới, của chế độ xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa, là hoàn toàn đúng với quan điểm của Mác – Lênin, Hồ Chí Minh. Thực tiễn là
tiêu chuẩn chân lý. Chính thực tiễn đã, đang và sẽ còn chứng minh tính đúng đắn
của quan điểm về con người mới mà các ông đề ra.
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CỦA
HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
HIỆN NAY
2.1 Con người Việt Nam hiện nay
19
Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
đất nước ta, Đảng ta đã khẳng định “con người là vốn quý nhất”, chăm lo cho hạnh
phóc của tất cả mọi người là sự nghiệp lớn lao của Đảng. Trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, khi thông qua đường lối chính sách đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa tại Đại hội VI(1986), Đảng ta đã khẳng định vai trò quan trọng của
“nhân tố con người” trong toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội VII(1991)
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội đến năm 2000. Tại đại hội này, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược kinh tế- xã hội, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư( khóa VII) đã nâng tầm
nhận thức của Đảng ta lên cao hơn về vai trò của con người. Sự phát triển con người
được xem như là nhân tố quyết định mọi sự phát triển - phát triển xã hội, phát triển
kinh tế, phát triển văn hóa Trong các quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng ta đã đúc kết và khẳng định “lấy việc phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.Khẳng định này, một
lần nữa, đã được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
“Đổi mới" là một quá trình cải biến cách mạng. Đặc điểm cơ bản của quá trình
này là chủ thể của nó phải thay đổi chính bản thân mình, xóa bỏ những lực cản trong
xã hội và trong mỗi con người. Thực tiễn chứng minh, không phải bộ máy, cũng
không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà
chính là con người với phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của
đổi mới.
Chặng đường đổi mới vừa là một giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
sự phát triển đất nước. Đảng ta khẳng định: “Đến nay, thế và lực của đất nước ta đã
có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội
nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã
tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
20
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau hơn 25 năm đổi mới thì trong xây dựng con người
có những thay những thay đổi tích cực:
Về một số thành tựu cơ bản: nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ
tăng GDP hàng năm trong thời kỳ 2011-2013 là 5,6%. Lạm phát bị đẩy lùi từ
77,4%(1986) xuống còn 12,7% (1995) đến năm 2011 xuống còn khoảng 6%. Sự
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường đã giải phóng sức sản xuất. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và tiếp cận với
công nghệ sản xuất tiên tiến của nhiểu nước trên thế giới. Đại bộ phận nhân dân có
đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn
hóa khá hơn trước. Ở đây, người lao động đã được giải phóng từng bước khỏi sự
ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo
trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc thực hiện chế độ dân chủ trong
Đảng và trong xã hội được đẩy mạnh đã phát huy được trí tuệ tập thể, phát huy sức
mạnh đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của nhân dân. Chính sách xã hội ngày càng được
hoàn thiện và hướng vào con người, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế, phát triển đất nước.
Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ ngày càng được khẳng định.
Những thành tựu trên cho thấy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi
mới tư duy là khâu đột phá, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị từng
bước, đã tạo nên bước nhảy vọt lớn. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xét về lĩnh vực phát huy nguồn
lực con người, công cuộc đổi mới đã đạt những thành tựu đáng kể và vô cùng quan
trọng. Khảo sát tình hình phát triển con người Việt Nam trong những năm đổi mới
vừa qua cho thấy:
Về thể lực và sức khỏe, khi nền kinh tế- xã hội có bước phát triển thì tình trạng
sức khỏe của con người ngày càng được cải thiện. Theo đánh giá của tổ chức Y tế
thế giới, tuy Việt Nam có thu nhập bình quân theo đầu người vào nhóm trung bình
của thế giới thế giới, nhưng về mặt sức khỏe đạt loại trung bình(73/150 nước).
Chúng ta đều hiểu rằng sự phát triển về mặt thể lực, sức khỏe là cơ sở để phát triển
21
toàn diện toàn diện con người, sự lành mạnh về thể xác và tâm hồn là điều kiện quan
trọng cho sự phát triển hài hòa các phẩm chất, năng lực của con người.
Về sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam, sự phát triển này được biểu hiện
qua nhiều chỉ sè nh: trình độ học vấn, kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, khoa
học nhân văn, kỹ năng nghề nghiệp Hiện nay, cả nước có gần 22 triệu học sinh các
cấp năm. Hiện tại ta đã có 250 sinh viên trên 10.000 dân. Cả nước có số lượng
14.000 tiến sĩ và hàng vạn thạc sĩ. Biểu hiện đáng mừng là chúng ta liên tiếp giành
được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế về toán, lý, hóa, tin học,
sinh vật
Mặt khác, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, kỹ năng nghề
nghiệp ngày càng tinh thông. Con người Việt Nam đã từng bước làm chủ được
những dây chuyền công nghệ, giải pháp kỹ thuật đòi hỏi tay nghề cao
Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay cũng đặt
ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: trí lực con người đã có bước phát triển, song
không đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình độ học vấn giữa thành
thị và nông thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, số
người thật sự có năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn .
Đến nay, cả nước chưa phổ cập xong trình độ tiểu học. Độ vênh giữa khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội-nhân văn khá lớn trong mỗi con người, nhất là tầng lớp trẻ
do sớm học lệch, học tủ, học để đi thi; do nội dung, phương thức đào tạo chưa phù
hợp, thiếu đồng bộ. Điều đó đã hạn chế sự phát triển về năng lực trí tuệ con người
Việt Nam, nhất là thanh niên.
Nhìn chung, sau những năm đổi mới, sự đầu tư của Nhà nước vào giáo dục - đào
tạo, vào chính sách xã hội ngày càng nhiều. Sự cạnh tranh về việc làm trong nền
kinh tế thị trường ngày càng căng thẳng, xã hội ngày càng đánh giá cao giá trị của
lao động trí tuệ, sự vươn lên của cá nhân để chiếm lĩnh tri thức tiên tiến. Tất cả
những điều đó là những yếu tố tạo nên trí lực của con người Việt Nam, làm cho trí
22
lực được phát triển ở mức độ nhất định. Đó là con người năng động, nhạy bén, nắm
bắt những cái mới, có nhiều cách làm sáng tạo để giải quyết các vấn đề đặt ra; dám
nghĩ , dám làm, dám chịu trách nhiệm, ngày càng trưởng thành trong các lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội.
Về tư tưởng, đạo đức cách mạng, lý tưởng và đạo đức cách mạng là vấn đề vô
cùng quan trọng, không thể thiếu trong nhân cách của con người Việt Nam hiện
nay.Thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo, xây dựng con người Việt
Nam là chúng ta đã từng bước tạo lập, xây dựng những con người có lý tưởng cách
mạng, đạo đức trong sáng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế- xã hội đã tác động mạnh mẽ
đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam, ảnh hưởng đến lý tưởng và
hành vi đạo đức của họ. Các kết quả điều tra, nghiên cứu xã hội những năm qua cho
thấy, cùng với quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, giao lưu với con người, thang
giá trị của con người Việt Nam còn bị biến đổi, khúc xạ theo cả hai hướng tích cực
và tiêu cực. Bên cạnh mặt tích cực trong việc định hướng vào các giá trị chung của
nhân loại( hòa bình, tự do, sức khỏe, việc làm, công lý, học vấn, an ninh, niềm tin,
nghề nghiệp ), các giá trị của truyền thống dân tộc( lòng yêu nước, nhân ái, tính tập
thể, cộng đồng, tình nghĩa, hiếu học, càn cù, sáng tạo ) đã xuất hiện xu hướng xem
nặng vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; xem nặng giá trị hiện đại, ngoại lai, xem
nhẹ giá trị truyền thống, thuần phong, mỹ tục của dân téc; coi trọng vai trò của kỹ
thuật, xem nhẹ vai trò của con người; đặt lên quá cao lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi
ích tập thể, lợi ích cộng đồng.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa con người Việt Nam đã phát
huy những điểm mạnh như sau:
Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới của khu vực
và thế giới, con người Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những giá trị văn hóa
truyền thống, với những phẩm giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần yêu
nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu
23
hiện của điểm mạnh này là thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh của
Tổ quốc.
Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo trong
mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng, chiếm vị trí xứng đáng trong
bảng giá trị về nhân cách của con người Việt Nam. Thái độ tích cực của con người
Việt Nam trong định hướng và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức thuận lợi cho
công tác giáo dục, từ giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân
cách con người hiện đại…nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tin thần, của phẩm giá con người Việt Nam
là truyền thống cộng đồng, lòng nhân ái, những tình cảm vị tha và khoan dung…vẫn
được giữ vững, phát huy trong điều kiện mới của đất nước. Những giá trị mang tính
nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn và xây dựng văn hoá Việt
Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một
thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn hóa trong toàn xã hội đối
với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau.
Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ nguyên truyền thống hiếu học, tôn sư
trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hóa và con người đã
chứng minh sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang có
những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường,
do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội…Tuy vậy, những giá
trị tinh thần, đạo lý của truyền thống vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng tích cực
trong đời sống xã hội Việt Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định và
phát triển bền vững của xã hội.
Bên cạnh những ưu điểm thì con người Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, vấp phải những thiếu sót sau đây:
Thứ nhất, việc đào tạo, giáo dục và phát triển con người vẫn chưa theo kịp với
đòi hỏi của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước.
24
- Thứ hai, mục tiêu đề ra không chỉ thiếu căn cứ khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn
và hơn nữa, chưa được bảo đảm bằng những chính sách, thiết chế, giải pháp tương
ứng vì vậy Việt Nam phải đối mặt với thách thức lớn về chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao cho nền kinh tế.
- Thứ ba, tỉ lệ lao động qua đào tạo, nhất là qua đào tạo nghề còn thấp, kỷ luật,
tác phong, kỹ năng…còn yếu.
- Thứ tư, Thách thức lớn nhất hiện nay là vấn đề giải quyết việc làm đầy đủ cho
người lao động.
Những hạn chế trong việc xây dựng, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người ở
Việt Nam trong thời gian qua do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nước ta còn nghèo, việc đảm bảo những điều kiện cho con người
phát triển toàn diện còn hạn chế.
Thứ hai, hậu quả do chiến tranh để lại còn rất nặng nề.
Thứ ba, sự đầu tư cho giáo dục – đào tạo còn hạn chế, công tác quản lí giáo dục
–đào tạo có những mặt yếu kém, bất cập.
Thứ tư, tư tưởng chủ quan nóng vội, những hạn chế trong việc nghiên cứu lí
luận Mác – Lênin dẫn tới những hạn chế trong chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy con người trong những năm vừa qua
Thứ năm, những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường.
Phân tích đánh giá những thành tựu, hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những
thành tựu hạn chế trong thời kỳ đổi mới thời gian vừa qua để nhìn ra điểm mạnh,
điểm hạn chế của mình để thực hiện tốt hơn nữa bài toán phát triển con người trong
quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với yêu cầu phát triển con người
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải hướng tới con người, vì con người, lấy con
người làm mục tiêu và động lực chứ không phải con người là phương tiện khai thác,
là vật thụ động vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó tất yếu đòi hỏi phải “nhân bản
hóa khoa học – kỹ thuật – cộng nghệ” gắn liền với “nhăn văn hóa đời sống xã hội”
Yêu cầu này đặt biệt quan trọng và cần thiết trong bối cảnh thời đại khoa học
hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ giai đoạn mới làm bùng nổ
dòng thác của những tri thức mới và thông tin mới, ở đó con người phải luôn luôn là
25