SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐĂK NÔNG
CUỘC THI KHOA HỌC KỸ THUẬT CẤP TỈNH
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC, NĂM HỌC 2021 - 2022
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU DỰ ÁN
VẬN DỤNG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI Ê ĐÊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON
NGƢỜI, GIA ĐÌNH, BN VÀ THƠN VĂN HÓA
(KLEI YUA HDRĂ BHIĂM DJUÊ ANA ÊĐÊ KLĂM KLEI MKŎ MJING GŎ SANG,
BUÔN SANG DHAR KREH)
LĨNH VỰC DỰ THI: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ HÀNH VI
Đăk Nông, tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
I.Lý do chọn đề tài
1
II. Giả thuyết khoa học
1
II.1. Bối cảnh nghiên cứu
1
II.2. Giả thuyết khoa học
3
II.3. Câu hỏi nghiên cứu
3
II.4. Hy vọng đạt được
4
III.Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
4
III.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
4
III.2. Luật tục của người Ê đê trong xã hội hiện nay
6
III.3. Những chính sách của Đảng và nhà nước liên quan đến đề tài
7
III.4. Thực trạng hiểu biết luât tục của người Ê đê của dân tộc Ê đê trên địa bàn huyện
Cư Jut, tỉnh Đăk Nông
8
III.5. Nguyên nhân thiếu hiểu biết về luật tục cuả người Ê đê trên địa bàn huyện Cư
Jut, tỉnh Đăk Nông
9
III.6 Giải pháp
12
III.6.1. Nhóm giải pháp đề xuất
12
III.6.2. Nhóm giải pháp thực hiện
13
IV.Thiết kế và phƣơng pháp nghiên cứu
15
IV.1. Quy trình tiến hành
15
IV.2. Phương pháp nghiên cứu
16
IV.3. Các bước tiến hành
16
V.Phân tích kết quả nghiên cứu
17
V.1. Kết quả nghiên cứu và phân tích dữ liệu
17
V.2. Kết quả áp dụng các giải pháp vào thực tiễn
20
V.2.1. Sưu tầm và biên soạn những luật tục của người Ê đê
20
V.2.2. Đề xuất xây dựng “Tòa án phong tục”
21
V.2.3. Tuyên truyền về luật tục
22
V.2.4. Lập Fanpage tuyên truyền
22
V.2.5. Tuyên truyền trên youtube
23
V.3. Kết quả khảo sát sau tác động
23
V.4. Kết quả điều tra sự cần thiết của các giải pháp
26
VI.Kết luận
27
VI.1. Kết luận
27
VI.2. Khuyến nghị
28
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bác Hồ kính yêu Người đã từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi
hỏi của sự sinh tồn”. Hồ Chí Minh khẳng định, “con người là vốn quý nhất, nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vơ luận việc gì, đều do
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Việt Nam là một quốc gia
đa dân tộc, trên lãnh thổ có 54 dân tộc cùng chung sống. Trong mỗi dân tộc có một
bản sắc văn hoá và những điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Vấn đề đặt ra là phải làm
như thế nào để các quyết định quản lí Nhà nước được thực hiện một cách triệt để trong
thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vừa đảm bảo tính quyền uy của Nhà
nước, vừa đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong quản lí Nhà nước;
Điều này chỉ trở thành hiện thực khi trong khoa học quản lí Nhà nước, các nhà
quản lí tìm ra và khai thác được những giá trị của kho tàng văn hoá các dân tộc Việt
Nam, bởi vì các tộc người Việt Nam, cả người Kinh và các dân tộc thiểu số có một
kho tàng, vốn sống văn hố hết sức phong phú và nhân văn cần được khai thác phát
huy để chính các giá trị đó góp phần truyền tải luật và các quyết định quản lí Nhà
nước, làm cho nội dung, hình thức và phương pháp quản lí Nhà nước được chuyển hoá
một cách phù hợp vào đời sống xã hội, nhất là vào vùng dân tộc thiểu số;
Một trong những cơ sở được coi là nguồn tư liệu gốc để nghiên cứu và khai
thác nền văn hoá tộc người đó là luật tục. Trong một phạm vi nhất định luật tục của
các dân tộc thiểu số là một trong những hình thức ghi nhận tập trung nhất những giá trị
văn hoá ở mức độ cao, luật tục được nhận thức và thừa nhận như một giá trị sở hữu và
thừa kế của các thế hệ;
Huyện Cư Jút được thành lập theo Quyết định số 227/HĐBT vào ngày Ngày 19
tháng 6 năm 1990. Từ cội nguồn lịch sử, chủ nhân của miền đất Cư Jút là 2 dân tộc
Êđê và M’Nông, cơ sở xã hội của dân tộc Êđê, M’Nông là Bn, hợp thành bn là
các gia đình theo chế độ mẫu hệ. Các gia đình trong bn đều có quan hệ với nhau về
thân tộc, thích tộc làm cho quan hệ cộng đồng bn được duy trì khá chặt chẽ. Họ tập
trung chủ yếu ở 10 buôn trên địa bàn Huyện đó là bn Nui, bn Br, bn Trum và
buôn Ea Pô ở xã Tâm Thắng; Buôn U1, U2, U3 ở thị trấn Eatling; Buôn Trum, buôn
Knha ở xã Đăk Wil, Buôn Usroong ở xã Đăk DRông. Việc áp dụng luật lệ của người Ê
Đê trong việc xây dựng văn hóa giúp mọi người có tri thức mới, văn hoá mới, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc. Đặc biệt, giúp họ hiểu biết, gìn
giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời cịn là người hiểu biết và tơn
trọng bản sắc văn hóa của mình. Chính vì thực tế đó, chúng em lựa chọn đề tài: “Vận
dụng luật tục của người Ê Đê trong việc xây dựng con người, gia đình, bn và
thơn văn hóa.”
II. GIẢ THIẾT KHOA HỌC
1
II.1. Bối cảnh nghiên cứu
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta luôn quan tâm đến đời sống an sinh của
nhân dân. Trong tác phẩm “Đời sống mới” Bác xác định rõ “Làm thế nào cho đời
sống của nhân dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn”. Đó là
mục đích của “Đời sống mới”. Người cũng nhấn mạnh “Người là gốc của làng nước.
Nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới thì dân tộc ta sẽ phú cường”. Bác nhắc
nhở các gia đình, các đồn thể phải có kế hoạch cụ thể để xây dựng con người, thôn
buôn để cải thiện cuộc sống bắt kịp với điều kiện kinh tế- chính trị của Đất Nước;
Thực hiện tư tưởng của Bác, Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm, chú trọng
kiện tồn đến việc xây dựng và phát triển thôn buôn văn hóa đặc biệt đối với các dân
tộc thiểu số. Trong giai đoạn hiện nay bộ máy Nhà nước ta không ngừng được hồn
thiện, chức năng quản lí Nhà nước từng bước được nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả;
Hiện nay, khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão đã tạo nên một khoảng
cách khá xa giữa miền núi và miền xuôi. Ở các buôn làng dân tộc thiểu số pháp luật
chưa tìm được cách thức truyền tải có hiệu quả nhất để có khả năng tác động sâu sắc
đến ý thức của các cá nhân trong cộng đồng đồng bào dân tộc. Hơn nữa tổ chức quản lí
từ phía Nhà nước đối với các cộng đồng dân tộc mới ở mức tổng thể chưa thâm nhập
sâu vào thực tế đời sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Trong các buôn làng việc
vận dụng các luật tục để điều chỉnh các quan hệ cộng đồng vẫn chiếm tỉ lệ cao, nhiều
vùng còn là phổ biến. Việc tồn tại hai hệ thống luật: pháp luật của Nhà nước và luật
tục của đồng bào dân tộc thiểu số, đây là một thực tế không thể bác bỏ. Từ những luận
giải trên đặt ra vấn đề có tính cấp thiết cho hoạt động quản lí nhà nước nói chung, đặc
biệt là quản lí nhà nước ở những vùng cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số cần phải
khai thác, vận dụng những giá trị tích cực của luật tục, kết hợp hoặc chuyển hố chúng
thành những quy tắc quản lí;
Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội, Chương trình
mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
giai đoạn 2021 - 2030 đã được triển khai xây dựng gồm 10 dự án, tiểu dự án với các
hoạt động, nội dung hướng tới người dân sinh sống ở các xã, thơn đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta trong đó có nội dung: Nỗ lực
trong phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và
miền núi. Chính phủ đã ban hành Chương trình "Bảo vệ và phát triển các dân tộc thiểu
số rất ít người giai đoạn 2021 - 2030" tập trung tăng cường công tác truyền thông, giáo
dục, nâng cao nhận thức thay đổi hành vi và huy động sự tham gia của toàn xã hội
nhằm bảo vệ và phát triển các dân tộc ít người. Nâng cao năng lực hệ thống y tế vùng
dân tộc về cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ nâng cao chất lượng
dân số;
Trong những năm gần đây, tình hình giá nông sản bấp bênh, thời tiết diễn biến
thất thường khơng tn theo quy luật vốn có làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến người
nông dân, đặc biệt là đối với những hộ gia đình đang khó khăn thì càng khó khăn hơn.
Theo số liệu thống kê của Ủy ban dân tộc huyện Cư Jút, tồn huyện có 102.271 khẩu,
trong đó có 4400 khẩu người dân tộc Ê Đê; 2340 khẩu người dân tộc M Nơng, đa số là
gia đình ở vùng sâu vùng xa, có hồn cảnh khó khăn, dân trí thấp nên việc xây dựng
văn hóa, xã hội và con người cịn hạn chế, thậm chí là khơng quan tâm, chính vì vậy,
2
vẫn cịn tình trạng học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số không được đến trường
đúng độ tuổi hoặc bỏ học ở các cấp học. Hay là việc con em lập gia đình quá sớm do
chưa được biết nhiều về luật tục của dân tộc mình. Trong độ tuổi từ 14 - 17 tuổi, bình
quân cứ 10 em trai thì có 1 em có vợ, 5 em gái thì có 1 em có chồng;
Dân tộc Êđê cũng như các dân tộc anh em có một truyền thống văn hố lâu đời,
giàu tính nhân văn. Trong kho tàng văn hố truyền thống ấy người Êđê có những quy
ước luật tục của mình. Những quy ước, luật tục có hiệu lực áp dụng rất cao không
những chỉ đối với hầu hết các quan hệ cá nhân con người, giữa gia đình, dịng họ mà
cịn có ảnh hưởng đến cả cộng đồng các dân tộc khác cư trú tại Đăk Nông. Luật tục là
quy tắc chung của cộng đồng được nhiều người Êđê am hiểu một cách rộng rãi. Trong
đời sống cộng đồng người Êđê luật tục được tơn trọng và có tính tuân thủ khá nghiêm
minh. Đối với người Êđê luật tục đã đi sâu và gắn bó trong hành vi ứng xử và đời sống
tâm hồn của họ. Về mặt cơ bản những quy định của luật tục phù hợp với những quy
tắc quản lí nhà nước. Luật tục thể chế và thực thi một cách phù hợp với điều kiện đặc
thù của người Êđê, do vậy luật tục không những đảm bảo trật tự cộng đồng tộc người
mà còn là sự chi tiết hoá để thực hiện luật pháp của Nhà nước. Trong tâm thức của
người Êđê luật tục rất linh thiêng, sự vi phạm cũng đồng nghĩa với việc xúc phạm thần
linh. Luật tục Êđê hình thành từ đời sống hiện thực của cộng đồng, phản ánh chân thực
một xã hội cổ truyền có lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc Ê Đê. Xuất phát từ thực
tiễn của địa phương, chúng em lập kế hoạch nghiên cứu đề tài của mình.
II.2. Giả thuyết khoa học
- Hoạt động vận dụng luật tục người Êđê trong quản lí nhà nước khơng làm
mất đi những giá trị tích cực của luật tục người Êđê mà cịn góp phần bảo tồn và phát
huy những giá trị tích cực của văn hoá luật tục. Từng bước xây dựng hương ước mới
nhằm văn bản hoá luật tục của người Êđê, kịp thời ghi nhận những tri thức sáng tạo
trong hoạt động tự quản cộng đồng của người Êđê để nó khơng bị mai một và lu mờ;
- Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật, nhà nước cần đầu tư đúng mức về tài chính
và con người nhằm tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê;
- Luật tục của các dân tộc thiểu số Ê đê là một trong những hình thức ghi nhận
tập trung nhất những giá trị văn hoá ở mức độ cao, luật tục được nhận thức và thừa
nhận như một giá trị sở hữu và thừa kế của các thế hệ;
- Thực trạng đáng lo ngại xảy ra, một phần do chúng ta chưa sử dụng “quyền
uy” của luật tục trong điều chỉnh nếp nghĩ và hành vi của các thành viên trong buôn
làng. Lãng quên luật tục, không vận dụng luật tục là chúng ta đã tước đi “lạt mềm” dân
gian trong quản lý cộng đồng - tri thức dân gian này được đúc kết từ bao đời; .
- Vận dụng khéo léo những quy định của luật tục để người dân tộc Ê đê tự giác
tuân theo là rất cần thiết. Và tin chắc rằng luật tục sẽ tăng cường thêm sức mạnh của
pháp luật mang lại hiệu quả rất cao trong giáo dục đạo đức và phịng ngừa tội phạm ở
các bn làng Tây Nguyên hiện nay.
II.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Làm thế nào để tuyên truyền luật tục Êđê cho đồng bào Ê đê?
3
- Làm thế nào để vận dụng luật tục Êđê vào các lĩnh vực đời sống xã hội của
cộng đồng người Êđê?
- Làm thế nào để hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương gắn bó chặt
chẽ với các già làng trong buôn,bon động viên các già làng gương mẫu trong việc thực
hiện các hương ước được xây dựng buôn, bon?
- Làm thế nào để người Ê Đê thấy được giá trị thực tinh thần tích cực trong
Luật tục, đó là kho trí thức dân gian có nguồn gốc lâu đời của cha ơng mình để phát
huy và bảo tồn?
- Làm sao có thể kết hợp hài hịa, có sự bổ trợ, bổ sung giữa pháp luật chung
của Nhà nước và Luật tục của làng, buôn?
- Làm thế nào để luật pháp của nhà nước và Luật tục có chung một mục tiêu là
đảm bảo sự ổn định các quan hệ xã hội, thúc đẩy quan hệ xã hội phát triển?
II.4. Hy vọng đạt đƣợc
- Đánh giá khách quan về sự hiểu biết luật tục Êđê của đồng bào Êđê.
- Đề xuất các giải pháp để vận dụng tốt luật tục nói chung và luật tục Êđê vào
trong quản lí cộng đồng người thiểu số tại Đắk Nơng, Đắk Lắk.
III: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
III.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
a. Khái niệm Luật: Theo từ điển tiếng Việt “Luật với tính chất là một từ và
đồng thời cũng là một khái niệm để chỉ tất cả những vấn đề có tính quy tắc, quy
ước…mà một cộng đồng hoặc một nhóm người phải tuân thủ khi tiến hành một hoạt
động có mục tiêu chung hay những thuộc tính khách quan của sự vật hiện tượng mà
quá trình diễn biến sự vật, hiện tượng luôn lặp lại”. Với nét nghĩa trên đây, từ Luật có
thể ghép với các từ khác để tạo thành các từ ghép như: Giáo luật – quy tắc ứng xử của
tôn giáo cụ thể; Luật nhân – quả quan hệ thuộc tính giữa các sự vật hiện tượng có liên
quan về nguồn gốc và sự hình thành với nhau; Luật – điều khoản do cơ quan pháp luật
đặt ra để quy định hành vi của mỗi người dân trong quan hệ giữa người với người, với
xã hội và bắt buộc phải tuân theo….
b. Khái niệm Luật tục: Theo từ điển luật học “Luật tục là tập tục, phong tục tập
quán của một cộng đồng được hình thành tự phát và được các thành viên trong cộng
đồng chấp nhận, tuân theo trong quan hệ với nhau”.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam “Luật tục là toàn bộ những nguyên tắc ứng
xử khơng thành văn được hình thành trong xã hội, sau một thời gian dài áp dụng đã
trở thành truyền thống và được mọi người tuân thủ.”
Như vậy luật tục hình thành từ phong tục, tập qn nhưng nó khơng cịn thuần
tuý là phong tục, tập quán. Không phải tất cả phong tục, tập quán đều là luật tục, mà
chỉ có một số phong tục, tập quán liên quan trực tiếp tới các mối quan hệ xã hội quan
trọng mới trở thành luật tục. Nếu pháp luật là “ý chí của giai cấp thống trị” được đề lên
thành luật, thì luật tục thể hiện ý chí của cộng đồng mà mỗi thành viên đều có nghĩa vụ
tuân theo.
4
Luật tục thể hiện bao quát, phong phú các mối quan hệ xã hội truyền thống,
không thể phủ nhận rằng, hiện nay luật tục vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội, không những ở Việt Nam mà ở cả những nước phát triển.
c. Mối liên hệ giữa pháp luật và luật tục
Luật tục, ở một góc độ nhất định cũng có vai trị, giá trị quan trọng tương tự
như pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng, duy trì và đảm bảo trật
tự chung.
Mỗi cá nhân trong xã hội ngoài việc tuân thủ pháp luật của nhà nước, còn chịu
sự điều chỉnh của nhiều quy phạm xã hội khác như đạo đức, tín ngưỡng, tơn giáo.
Pháp luật của nhà nước khơng thể giải quyết mọi vấn đề, không thể dùng pháp luật tác
động đến mọi quan hệ xã hội. Nắm vững luật tục để thực thi hiệu quả pháp luật là mục
tiêu hướng tới trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Luật tục ra đời và tồn tại trước pháp luật, do đó sự khác biệt giữa luật tục với
pháp luật là đương nhiên. Luật tục tồn tại dưới dạng lời nói có vần, điệu, giàu hình
ảnh, cụ thể, sinh động, đa phần là truyền miệng, làm cho người ta có thể hình dung và
nhận thức bằng trực giác. Điều này khác hẳn với ngôn ngữ pháp luật là ngơn ngữ văn
bản ở trình độ khái qt hố cao, ngắn gọn, chính xác.
Về phạm vi điều chỉnh, luật tục điều chỉnh quan hệ xã hội trên nhiều lĩnh vực từ
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quan hệ cộng đồng, quan hệ gia đình, quan hệ nam
nữ, đến nghi lễ, tín ngưỡng trong phạm vi từng cộng đồng bn, làng, ấp, bản, phum,
sóc… cịn pháp luật điều chỉnh các mỗi quan hệ xã hội trên phạm vi cả nước.
Mặt khác, luật tục được hình thành do nhu cầu quản lý xã hội cộng đồng, tính
chất của hoạt động quản lý còn khá đơn giản. Bằng nhiều cách thức như giáo dục, răn
đe, xử phạt…, luật tục đã tác động đến nhận thức và hành vi của các thành viên trong
cộng đồng, tạo nên một trật tự cần thiết cho các hoạt động chung như tổ chức sản xuất,
bảo vệ bn làng, bảo vệ lợi ích từng cá nhân, từng dòng họ. Tuy nhiên, luật pháp lại
bao gồm một hệ thống quy phạm, chế tài xử lý nghiêm ngặt và một hệ thống thiết chế
đảm bảo công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có hiệu quả.
Luật tục có vai trị bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật: Vì nhiều lý do khác nhau,
không phải bất cứ quy định nào của pháp luật được ban hành cũng đều được nghiêm
chỉnh thực hiện và khơng phải lúc nào pháp luật cũng có hiệu lực như nhau ở các vùng
miền khác nhau, với những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Điều đó lý giải tại
sao, nhiều quy định của pháp luật đã ban hành nhưng khơng có hiệu lực ở một số vùng
nhất định. Khi đó, chúng ta thấy rõ vai trị bổ sung, hỗ trợ của luật tục đối với pháp
luật.
Qua nghiên cứu hai bộ luật tục Ê Đê (236 điều với 8.000 câu) và luật tục Mơ
Nông (215 điều với 7.000 câu) được phổ biến ở vùng Tây Nguyên, chúng ta thấy có
nhiều điều lý thú. Ví dụ, luật tục hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng. Trong khi nhiều nơi ở Tây Ngun đất đai đã bị xói mịn đến mức báo
động, thì tại Đăk Lăk, hiện vẫn cịn những vùng rừng tươi tốt như ở đồi Chư Lâm, xã
Chư Sê, huyện Chư M’ga. Cánh rừng này là dấu ấn đậm nét về sự tôn trọng của dân
5
làng đối với những răn dạy trong luật tục bảo vệ rừng và quy định của già làng về cách
“ăn rừng”.Vì rừng có quan hệ mật thiết với cộng đồng dân cư Tây Nguyên, nên từ xa
xưa, người dân nơi đây đã rất có ý thức bảo vệ rừng, tơn trọng các quy tắc của cộng
đồng về xác lập chủ quyền đối với rừng và đất rừng của từng gia đình, dịng họ. Điều
80 của luật tục Ê Đê quy định rất rõ về các tội đốt, phá rừng.
Luật tục Ê Đê coi đất là mẹ, kẻ xâm lấn rừng và đất rừng của người khác nhất
định phải đưa ra xét xử: “Đất đai, sông suối, cây rừng là cái nong cái nia, cái lưng của
ơng bà. Ơng bà là người giữ cái hang, trông coi rừng, trông coi cây K’tơng, cây kdjar”
(điều 231).
Hoặc khi nói về việc khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên, hệ sinh thái, luật tục
quy định: “Bắt cá con phải chừa cá mẹ/ Bắt ếch con phải chừa ếch mẹ/ Chặt cây to
phải chừa cây con/ Đốt tổ ong phải chừa ong chúa”Như vậy, cùng với luật định, trong
một số trường hợp, luật tục có vai trò hết sức quan trọng trong việc bổ sung, hỗ trợ cho
pháp luật trên thực tế.
Sự lạc hậu và xung đột giữa Luật tục và Luật pháp: Luật tục ra đời từ rất lâu,
trong điều kiện nền kinh tế-xã hội nông nghiệp lạc hậu (du canh, du cư, săn bắt, hái
lượm…). Nó dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng cộng đồng tộc người
nhỏ hẹp (buôn, làng, bản), do đó khơng thể tránh khỏi sự lạc hậu và đôi khi là sự xung
đột với pháp luật của nhà nước. Ví dụ: Tục nối dây (Tục chuê nuê), khi chồng chết,
người vợ phải lấy anh hoặc em chồng đang còn độc thân, và cũng như vậy người đàn
ơng phải lấy chị vợ hoặc em vợ cịn độc thân, khi vợ chết. Đây là một luật tục lạc hậu
cần phải nghiêm cấm vì trái với ngun tắc hơn nhân tự nguyện, tiến bộ quy định tại
Nghị định số 32/2002/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật hơn nhân và gia
đình năm 2000.
Các lĩnh vực khác như hình sự, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quan
hệ cộng đồng, quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ, đến nghi lễ, tín ngưỡng… cũng có
những điểm lạc hậu và xung đột tương tự.
d. Vận dụng Luật tục trong việc xây dựng nhà nước Pháp quyền
Hiến pháp 1992 khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân” với tinh thần thượng tơn pháp luật. Tất
cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật.
Trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, không thể ngay lập tức loại bỏ luật
tục ra khỏi đời sống xã hội, việc tiếp tục vận dụng luật tục là cần thiết, nhưng phải có
chọn lọc và có cách thức sử dụng phù hợp. Bởi lẽ, luật tục tồn tại khách quan và ở một
góc độ nhất định có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho luật pháp, góp phần điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
III.2. Luật tục của người Ê đê trong xã hội hiện nay
Luật tục là một hệ thống tập hợp những quy định về các mối quan hệ và trách
nhiệm của các thành viên trong cộng đồng, bn làng. Nó là hình thành sơ khai của
luật pháp trong một xã hội chưa có Nhà nước, chưa phân chia giai cấp nhằm hướng
dẫn, điều chỉnh, điều hòa các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng
6
đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác thông qua kinh nghiệm ứng xử và thực hành
xã hội lâu đời, được cộng đồng thừa nhận mang tính thống nhất, cấu kết chặt chẽ của
mỗi cộng đồng. Luật tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác, thơng qua trí nhớ
và thông qua phương thức truyền miệng của nhân dân, nó góp phần gìn giữ cũng cố sự
ổn định của bn làng và tạo nên các giá trị văn hóa cho từng dân tộc;
Luật tục hình thành và phát triển từ phong tục tập quán nên nhiều người gọi nó
là “tập quán pháp”. Tuy nhiên, luật tục không đơn thuần là phong tục tập qn mà nó
là “tính chất”, là sự lựa chọn, kế thừa những yếu tố tiêu biểu, thiết thực, phổ biến của
phong tục tập quán mà thôi. Phong tục tập quán là cội nguồn của luật tục;
Luật tục Ê đê là sản phẩm của xã hội cổ truyền – xã hội tổ chức trên cơ sở gia
đình mẫu hệ, phát triển ở thời kỳ tiền giai cấp, tiền quốc gia, một xã hội cịn mang tính
khép kín. Những vấn đề đặt ra trong Luật tục là nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa
chủ làng với dân làng và ngược lại, các quan hệ gia đình, các phong tục và lễ nghi;
Xã hội hiện nay đã có nhiều thay đổi. Các làng buôn Ê đê cũng như các dân tộc
khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, khơng cịn là những thực thể xã hội biệt lập
nữa mà đã trở thành đơn vị cơ sở của một hệ thống xã hội rộng lớn từ địa phương tới
trung ương. Cơ sở vận hành và điều chỉnh hệ thống xã hội rộng lớn là luật pháp của
Nhà nước;
Nhìn nhận vấn đề Luật tục Ê đê, khả năng tiếp thu và kế thừa nó là phải nhìn
nhận từ góc độ hệ thống, từ bộ phận đến tồn thể, từ bn làng đến quốc gia, dân tộc.
Một mặt xã hội nào cũng vậy, sự tồn tại và bền vững của tổ chức cơ sở làng xã là rất
quan trọng, xã hội càng hiện đại và phát triển thì vấn đề quản lý từ đơn vị cơ sở cũng
phải được chú ý. Đó là mặt quan trọng trong quản lý nơng thơn trước kia cũng như
hiện nay. Mặt khác, vì là đơn vị xã hội cơ sở làng buôn phải từng bước khắc phục dần
tính khép kín, bệt lập, từng bước hịa nhập vào hệ thống chung, xác lập và phát triển
các mối quan hệ rộng lớn, tạo đà và động lực cho phát triển các mối quan hệ xã hội cơ
sở. Trình độ xã hội các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên vẫn còn một khoảng cách đáng
kể so với trình độ chung của cả nước. Do đó khơng ít trường hợp việc áp dụng luật
pháp vào đời sống người Ê đê đã và đang gặp nhiều khó khăn.
III.3.Những chính sách của Đảng và nhà nước đã ban hành liên quan đến đề tài.
Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn đang tồn tại tình
trạng phát triển khơng đồng đều. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng
phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta đã coi tương trợ nhau cùng phát triển là một nguyên tắc quan trọng của
chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội;
Chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp và
bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Theo điều 5 Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”:
+ Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
7
+ Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
+ Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khố IX về
cơng tác dân tộc đã khẳng định chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay là: “Ưu
tiên đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập
trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xố đói, giảm nghèo; khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng
thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước?”;
Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những
nơi có đơng đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc,
phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đồn kết, bình
đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể.”;
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết
các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân
tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ…”
Riêng trên địa bàn tỉnh Đăk Nơng vấn đề phát triển văn hóa xã hội, con người
cho dân tộc thiểu số đang được các cấp các ngành quan tâm:
Theo Báo cáo của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nơng, tồn tỉnh hiện có hơn
47.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số với gần 210.000 nhân khẩu, chiếm hơn 30% tổng
số dân. Số hộ dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo hiện có khoảng 13.500 hộ (với gần
65.000 nhân khẩu), chiếm 64% tổng số hộ nghèo tồn tỉnh. Việc thực hiện chương
trình hỗ trợ đã mang lại hiệu quả, tác động tích cực đến cuộc sống người dân vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; giải quyết một phần khó khăn về kinh tế, giảm gánh nặng
chi phí cho hộ nghèo, tạo điều kiện để học sinh đến trường. Đây là nguồn lực quan
trọng giúp tăng nhanh việc phát triển văn hóa xã hội, con người của dân tộc Ê Đê trong
tỉnh nói chung và Huyện nhà nói riêng để giải quyết một phần khó khăn về kinh tế,
giảm gánh nặng chi phí cho hộ nghèo, tạo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội;
Từ năm 2003 đến năm 2020, Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh
phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, với
tổng kinh phí: giai đoạn 2003 - 2008 là khoảng 250.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015
là 690.000 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng. Nguồn lực đầu tư đó
được tập trung vào xây dựng hàng vạn cơng trình kết cấu hạ tầng (đường giao thơng,
cơng trình thủy lợi, hệ thống điện, cơng trình nước sạch, trường học, lớp học, trạm y
tế, nhà văn hóa, trung tâm cụm xã...); hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho dân tộc
thiểu số rất ít người; hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, hỗ trợ vay vốn
phát triển sản xuất... cho hàng trăm nghìn hộ đồng bào các dân tộc thiểu số.Tỉnh Đắk
Nông cũng thường xuyên thực hiện chương trình hỗ trợ gạo cho học sinh và trường
phổ thơng ở xã, thơn đặc biệt khó khăn theo quy định tại Nghị định 116/2016/NĐ-CP
8
ngày 18/7/2016 của Chính phủ. Năm học 2017 – 2018, toàn tỉnh đã hỗ trợ gần 1.000
tấn gạo cho các học sinh theo chương trình này.
III.4. Thực trạng hiểu biết luật tục Êđê của dân tộc Êđê trên địa bàn huyện Cƣ
Jút
Đăk Nông là vùng đất giao thoa, hội tụ những giá trị văn hóa dân gian truyền
thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Theo thống kê, tồn tỉnh năm
2020 có khoảng 500 nghìn nhân khẩu, trong đó đồng bào các DTTS chiếm tỉ lệ 34,5%.
Riêng đồng bào dân tộc Ê đê có số dân sinh sống đông nhất Với số dân khoảng hơn 6
vạn người, họ sinh sống chủ yếu trên một vùng đất được người Pháp khi xây dựng bản
đồ Việt Nam, gọi là cao nguyên Ê đê, kéo dài từ phía Nam Đắk Lắk đến tận Đồng Nai.
Tập trung đông nhất là ở tỉnh Đắk Nơng;
Luật tục Ê đê có giá trị về khá nhiều mặt: Đây là nguồn tư liệu quý, hiếm để
nghiên cứu xã hội, tộc người và văn hóa tộc người, là di sản văn hóa độc đáo của dân
tộc, là tri thức dân gian về quản lý cộng đồng. Nếu như những thế hệ cuối cùng hiểu
biết luật tục dần dần khuất núi thì hậu quả sẽ như thế nào?
Làng (bon) Ê đê thường được lập ở những vùng gần chân núi, gần các nguồn
nước (sông, suối, đầm, hồ) thuận tiện cho việc sử dụng nước không chỉ trong những
sinh hoạt hàng ngày, mà còn cả trong sản xuất canh tác;
Mỗi bon có một phạm vi sản xuất nhất định và riêng biệt, mà ranh giới được
xác định bởi địa hình hoặc cảnh quan thiên nhiên có trong khu vực (bờ sơng, con suối,
chân núi, bìa rừng …). Khái niệm “đất làng” bao gồm cả đất thổ cư, đất canh tác và
đất lưu canh. Theo luật tục, đất, rừng đều có chủ, theo định giới là những cây to, dòng
suối, hay vật lạ... Hiếm thấy việc tranh chấp đất đai xảy ra giữa các bon;
Mỗi bon thường có vài chục nóc nhà, trưởng bon có vai trị to lớn trong dân
làng. Mọi người sống theo kinh nghiệm và tập tục truyền lại từ nhiều đời. Nam nữ, trẻ,
già ai cũng thích uống rượu cần và hút thuốc lá cuốn;
Người Ê đê thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer. Có nhiều phương ngữ theo
nhóm cư trú từng vùng nhưng sự khác biệt là không đáng kể. Tại Đắk Lắk và Đắk
Nông, đa số có thể nghe và hiểu nhau một cách dễ dàng. Trong vốn từ vựng của người
Ê đê có sự ảnh hưởng rõ nét của ngôn ngữ Chăm, qua tiếng Êđê và Jrai, ngồi ra cịn
ảnh hưởng từ tiếng Khmer;
Từ Luật tục đến pháp luật nhà nước là hành trình gian khổ với người Ê đê.
Trong xã hội cổ truyền cũng như hiện nay Luật tục Ê đê còn được phát huy vai trò
điều chỉnh mọi quan hệ xã hội tại các bn làng, dân tộc Ê đê. Vẫn cịn khá nhiều Luật
tục phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện tại nhưng cũng có những quy định đã
thực sự lỗi thời, cản trở sự tiến bộ và phát triển của cộng đồng Ê đê;
Các buôn làng Ê đê hiện nay không phải là những thực thể xã hội biệt lập mà
dần dần hòa nhập vào hệ thống chính trị, xã hội của cả nước, trở thành một bộ phận
hữu cơ không thể chia tách của xã hội Việt Nam. Đối với hệ thống chính trị, xã hội
chung như vậy thì luật pháp nhà nước là cơng cụ điều chỉnh hữu hiệu mang tính nhất
thể và bao trùm.
9
III.5. Nguyên nhân thiếu hiểu biết về luật tục của dân tộc Êđê trên địa bàn huyện
Cƣ Jút
Theo điều tra nghiên cứu, chúng em nhận thấy rất nhiều nguyên nhân khiến
người dân tộc Ê Đê thiếu hiểu biết về luật tục có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên
nhân khách quan. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, chúng em mạnh dạn chỉ ra những
nguyên nhân cơ bản mà qua phương pháp điều tra em thu thập được.
III.5.1. Nguyên nhân khách quan.
Do phương thức lưu truyền của Luật tục. Luật tục chỉ là truyền miệng nên theo
dòng thời gian dần bị mai một, thế hệ trẻ lớn lên, mải làm, mải chơi, ít quan tâm đến
luật tục. Lớp trẻ hầu như lãng quên văn hóa truyền thống của dân tộc mình bởi chúng
được sinh ra trong thời đại mới, khơng được hưởng thụ nện giáo dục của gia đình
trong ngơi nhà dài, nhà Rông, nhà Ưng của cộng đồng như cha ơng chúng ngày trước;
Tình trạng thiếu đất, phá rừng dẫn đến cuộc sống của người dân Tây Nguyên
nói chung và dân tộc Ê đê nói riêng cũng thiếu cân bằng. Thế giới hoang sơ huyền bí,
khơng có rừng che chở, nuôi dưỡng cũng mất dần nơi gửi gắm tâm linh đang ngày
càng mai một. Các nghi lễ, hội hè liên quan đến “hồn lúa”, “hồn nước” gắn liền với
cuộc sống “trọc lỗ tra hạt” khơng cịn cơ may phát triển. Âm vang của những bản
trường ca những tiếng cồng, chiêng xa dần với đời sống người dân, làm mai một đời
sống văn hóa của họ;
Lớp trẻ thì chạy theo văn hóa hiện đại của phương tây.quay lưng với nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc, coi thường truyền thống đạo lý dân tộc. Những người già,
nghệ nhân thì ngày một ít và khơng có điều kiện hoạt động, phát huy vai trị của mình
trong cộng đồng;
Do phong tục tập quán: chế độ mẫu hệ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng
và suy nghĩ của người dân. Mặc dù, phụ nữ đóng vai trị quyết định trong hơn nhân thế
nhưng trong giáo dục lại không được quan tâm.
Do dân trí thấp: Do bất đồng về ngơn ngữ, lại thiếu cán bộ là người đồng bào
dân tộc thiểu số tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến
người dân. Đặc biệt từ sau vụ bạo động chính trị năm 2004 đến nay, một số người
đồng bào người đồng bào dân tộc thiểu số càng ngày càng sống khép kín, họ thường
dè dặt trước người mới va chạm, nên việc động viên con cái đi học nghề ở xa là một
điều vơ cùng khó khăn;
Việc bố trí Đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số bản địa tại chỗ chưa được
quan tâm, thường thiếu tỉ lệ so với quy định ở cấp huyện, cấp xã nên công tác vận
động tuyên truyền, phổ biến những chính sách Pháp luật của Đảng và Nhà nước đến
người dân tộc mình chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù theo thống kê của (Ủy ban nhân
dân huyện) Phòng Dân tộc huyện Cư Jút năm 2020 tổng số cán bộ, công chức trên địa
bàn huyện là 190 nhưng cán bộ người dân tộc (bản địa) chỉ có 2 cán bộ, trong đó Ê đê
1 cán bộ và M'Nơng 1 cán bộ.
Cán bộ cấp xã
Công chức
Ê đê
10
M Nông
84
104
1
1
Bảng 3. Thống kê cán bộ dân tộc thiểu số Êđê, M'Nông cấp xã trên địa bàn huyện Cư
Jut năm 2020.
Cư Jút với dân tộc bản địa chính là Ê đê và M Nông, thế nhưng số cán bộ
người dân tộc bản địa trên địa bàn các xã chỉ chiếm 1 % trong đó cán bộ dân tộc Ê đê
là 0,5% và cán bộ dân tộc M Nông là 0,5%. Việc thiếu hụt trầm trọng cán bộ người
dân tộc bản địa đem lại khó khăn khơng nhỏ trong việc tun truyền chính sách của
Đảng và Pháp luật của nhà
nước cũng như những nét đẹp văn hóa của người dân nơi đây.
Trung tâm giáo dục nghề nghiệp của Huyện có mở các lớp sơ cấp nghề cho
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, tuy nhiên, chất lượng đào tạo không hiệu quả, đa số
người dân có quan điểm đi học để lấy tiền không cần nghề;
Một số anh, chị người đồng bào dân tộc thiểu số thành đạt thì ít quay lại địa
phương làm công tác tư tưởng, truyền lửa cho thế hệ sau tiếp bước noi theo.
III.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Một số gia đình nhẹ dạ, cả tin nghe lời kẻ xấu mang bán đi tài sản văn hóa quý
hiếm như cồng, chiêng .. của tổ tiên đã gìn giữ để lại cho con cháu bao đời nay;
Do hoàn cảnh gia đình: Mặt bằng dân trí khơng đồng, đa phần họ thường chỉ
học hết cấp I, II hoặc mù chữ, không thông thạo tiếng phổ thông thiếu tự tin nên ít giao
tiếp, hồ đồng để giao lưu, học hỏi để phát triển kinh tế nên phần lớn các hộ gia đình
thường có điều kiện, hồn cảnh khó khăn, gia đình hàng năm thường thiếu ăn từ 1 đến
3 tháng; khi nơng sản rớt giá đời sống gia đình thường rơi vào tình thế túng quẫn. Phần
vì phong tục, tập quán và tiếp cận thông tin không đầy đủ nên họ thường sinh đẻ
khơng có kế hoạch, đẻ nhiều, đẻ dày vừa ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ, không có
thời gian chăm sóc, bảo ban và định hướng;
TT
Eatling
Tâm
Thắng
Nam
Dong
Ea
Pơ
Đăk
Wil
Đakrơng Cƣ
Knia
Trúc
Sơn
84
121
1
0
10
10
0
0
Bảng 1. Thống kê số hộ dân tộc tại chỗ nghèo trên địa bàn huyện năm 2020
11
Biểu đồ 1. Biểu đồ thể hiện số hộ dân tộc tại chỗ nghèo các xã năm 2020
TT
Eatling
Tâm
Thắng
Nam
Dong
Ea
Pô
Đăk
Wil
Đakrông Cƣ
Knia
Trúc
Sơn
368
644
4
0
67
89
0
0
Bảng 2. Bảng thống kê số khẩu dân tộc tại chỗ nghèo trên địa bàn huyện năm 2020
Biểu đồ 2. Biểu đồ thể hiện số khẩu dân tộc tại chỗ nghèo năm 2020
Do nhận thức về xã hội chưa cao: Thông thường phần vì bận kiếm kế sinh nhai,
phần đơng con nên khơng có thời gian tham gia đồn thể và hội họp khi Bon, Buôn,
Tổ dân phố tổ chức nên việc tiếp cận với những chính sách của Đảng và Nhà nước.Họ
khơng biết và khơng có thời gian quan tâm đến tương lai của con, em mình. Họ chỉ
12
nghĩ được trong ngày hôm nay, chứ họ không biết nhìn ngày hơm nay để nghĩ đến
ngày mai.
III.6. Giải pháp giúp tăng vốn hiểu biết về luật tục
III.6.1. Nhóm giải pháp đề xuất
III.6.1.1. Nhóm giải pháp đề xuất với phịng ban dân tộc huyện Cư Jut
1. Xây dựng làng sinh thái góp phần phát triển bền vững vùng dân tộc Ê đê. Bởi
tài nguyên của Tây Nguyên chúng ta rất phong phú. Bài toán đặt ra rất sâu sắc về bảo
vệ mơi trường sống và cải thiện tình hình kinh tế, xã hội là phải có một phương thức
sản xuất trên đất đồi núi, vừa nâng cao đời sống, vừa ổn định lâu dài thì phải giúp bà
con xây dựng làng sinh thái. Hiện nay, địa hình xã Tâm Thắng, thị trấn EaTLing sơn
thủy hữu tình. Hồ Pơ muol, hồ Trúc, sơng Sêrêpơk kết hợp văn hóa, du lịch.
2. Xây dựng chiến lược phát triển tổng thể dân tộc thiểu số, những giải pháp
thiết thực, quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất và tinh thần của các hộ gia đình
dân tộc thiểu số Ê đê; thực hiện chính sách pháp luật xã hội như tổ chức hội thảo
hướng dẫn họ cách làm giàu, hỗ trợ kỹ thuật giúp họ canh tác đạt hiệu quả, hỗ trợ việc
chăm sóc sức khỏe cộng đồng người dân tộc thiểu số, định hướng nghề nghiệp cho các
hộ dân.
3. Có kế hoạch tổ chức các buổi tuyên truyền về chính sách của Đảng và Nhà
nước tới tất cả các hộ dân.Tổ chức các hoạt động nâng cao văn hóa truyền thống của
người Ê đê, khan, cồng chiêng, dệt thổ cẩm…Tổ chức những chương trình giao lưu,
kết nối các bon địa phương, hịa nhập văn hóa các dân tộc tạo mơi trường thân thiện,
lành mạnh giúp các bạn nhanh chóng hịa nhập với xã hội. Đồng thời, khuyến khích
các gia đình, các bạn thanh niên tham gia tích cực, giữ vững nét văn hóa bản sắc dân
tộc, qua đó phát triển kỹ năng, tư duy và thái độ trong học tập, phong trào.
4. Vận động, làm tốt việc kết nghĩa thôn, buôn: Vận động mỗi gia đình Cán bộ,
Đảng viên, Giáo viên kết nghĩa với 1 gia đình, hoặc đỡ đầu, nhận ni một học sinh
dân tộc Ê đê.
5 Khôi phục lại những nghề truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc như nghề:
dệt thổ cẩm, chạm, khắc, đan lát….
6. Thành lập Hiệp hội làng nghề truyền thống, liên hệ với tổ chức, công ty tìm
đầu ra cho sản phẩm của họ.
7. Khơi phục lại những khơng gian văn hóa của người Ê Đê, M'Nông như:
Không gian cồng chiêng, không gian Khan Ê Đê. Kết hợp với tuyến du lịch “Bản giao
hưởng của sự đổi thay” nhằm kết hợp văn hóa và du lịch tại những điểm du lịch của
huyện như: Hồ Trúc, thác Trinh Nữ, Núi lửa EaTling…Triển lãm, trưng bày và phát
triển… (cơng viên địa chất…).
III.6.1.2. Nhóm giải pháp đề xuất cá nhân, gia đình, ban tự quản thơn, bn
1. Các hộ gia đình cần dành nhiều thời gian tìm hiểu những quy định chính sách
của Đảng và Nhà nước đặc biệt là các chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ để định hướng động viên con cái học tập, rèn luyện và phát triển kinh
tế.
13
2. Mỗi cá nhân người Ê đê cần phải mở rộng mơi trường giao tiếp ở gia đình và
cộng đồng: Mạnh dạn giao lưu với người Kinh và các dân tộc khác để mở rộng vốn
hiểu biết trên nhiều phương diện từ đó học hỏi làm giàu kinh tế và vốn sống cho mình
hoặc có thể hướng dẫn con, cháu làm giàu.
Đặc biệt, cần loại bỏ ngay những hủ tục lạc hậu, xác định xây dựng kinh tế gia
đình lâu dài, bền vững. . .
3. Phát huy tính tự chủ, tự lực của mình, chủ động, tích cực thực hiện những
công việc của bản thân trong học tập, cũng như trong cuộc sống, cần nỗ lực hết mình
để lĩnh hội kiến thức, học hỏi nhiều hơn về những năng lực cần thiết trong cuộc sống
tránh tình trạng suy thối về đạo đức, văn hóa.
4. Phát huy năng lực giao tiếp và hợp tác vốn có của mình, cần đặt ra mục tiêu,
nội dung và phương thức giao tiếp với mọi người xung quanh.
5. Mỗi cá nhân, hộ gia đình người dân tộc Ê đê cần tích cực tham gia các hoạt
động phong trào do địa phương tổ chức. Đặc biệt là các hoạt động nhóm, hoạt động
tập thể. Từ đó, rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, sự tự tin trước
đám đơng.
III.6.2. Nhóm giải pháp thực hiện
III.6.2.1. Nhóm giải pháp tác động tới già làng, trưởng bon
Thành lập tòa án phong tục và tổ hòa giải của làng, buôn. Thực chất đây là một
tổ chức bao gồm những người thơng thuộc Luật tục và có uy tín trong bn làng đứng
ra giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trên cơ sở Luật tục của địa phương và tộc người
mình. Những điều ghi trong Luật tục cũng như cách giải quyết của tòa án phong tục
chủ yếu là hòa giải, giáo dục hơn là trừng phạt, kết tội. Ngay cả sau khi vị Thẩm phán
(già làng hoặc trưởng bon) của tịa án phong tục quy tội thì biện pháp trừng phạt thực
chất vẫn là một hình thức hịa giải, giáo dục.
III.6.2.2. Nhóm giải pháp tác động tới cá nhân, gia đình
1.
Liên hệ với già làng, trưởng thơn, bon trong những ngày nghỉ hoặc
những ngày sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt cộng đồng tuyên truyền về luật tục cho người
dân. Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê. Hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc Êđê– nơi mà sự hiểu biết pháp luật và trình độ dân trí của
người dân cịn thấp. Có nhiều hình thức thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật tới
đồng bào dân tộc Êđê. Trong đó, cách làm có hiệu quả là sử dụng chính lực lượng cán
bộ, cơng chức là người Êđê trong các cơ quan, tổ chức đoàn thể tại địa phương. Họ
nắm rõ và hiểu được những phong tục, tập qn, lối sống của chính dân tộc mình. Mặt
khác, do được tham gia vào hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương nên họ cũng
là người hiểu biết về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Như vậy, việc họ
tuyên truyền phổ biến pháp luật tới người dân ở chính nơi họ sinh sống sẽ có sức
thuyết phục cao.
2. Đề xuất, phối hợp với những cán bộ là người dân tộc Ê đê, nhờ họ tuyên
truyền, phổ biến Luật tục và Pháp luật Đảng và Nhà nước để mọi người cùng hiểu,
cùng biết và cùng thực hiện.
14
3. Xây dựng nhóm hỗ trợ Luật tục đối với người dân tộc Ê đê, nhóm có nhiệm
vụ nghiên cứu những nội dung Luật tục của người Ê đê, khi cần thì tuyên truyền phổ
biến hoặc nhắc nhở, xử lý.
4. Tăng cường kết hợp luật tục và pháp luật trong công tác tự quản của buôn
làng dân tộc Êđê ở Đắk Nông. Luật tục và pháp luật đều là những công cụ điều chỉnh
xã hội xuất hiện do nhu cầu tổ chức quản lý những hoạt động chung của con người. Do
vậy, chúng có những chức năng tương tự nhau, đều là những công cụ điều chỉnh và
luôn hỗ trợ lẫn nhau trong việc phục vụ mục đích chung của cộng đồng. Tuy nhiên, vai
trò của luật tục đối với cộng đồng tộc người này dù lớn đến đâu cũng khơng thể vượt
qua vai trị chủ đạo của pháp luật. Vì vậy, xét đến cùng, việc kết hợp hài hịa pháp luật
với luật tục trong quản lý xã hội cũng chính là việc thừa nhận của pháp luật đối với
những yếu tố tiến bộ, tích cực của luật tục, góp phần hỗ trợ, đưa pháp luật vào cuộc
sống thường nhật của đồng bào dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên một cách hiệu quả nhất.
5. Nâng cao vai trò của người đứng đầu cộng đồng dân tộc Êđê trong quá trình
tổ chức thực hiện pháp luật kết hợp với luật tục ở Tây Nguyên. Trong xã hội truyền
thống các dân tộc tại chỗ ở Đắk Nơng , già làng có vai trò trung tâm và là linh hồn của
cộng đồng, như người chỉ huy của bn làng, là người có vị trí trọng yếu nhất trong
duy trì trật tự cộng đồng. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp đào tạo họ trở thành
những hạt nhân tích cực trong việc phát huy hiệu quả kết hợp pháp luật và luật tục để
đạt được mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội ở vùng đồng bào dân tộc Êđê.
6. Vận dụng các yếu tố tích cực của luật tục trong cơng tác hịa giải ở các bn
làng. Luật tục Tây Nguyên rất đề cao và coi trọng việc hòa giải trong cộng đồng, có rất
nhiều quy định về việc hịa giải. Theo đó, một khi sự việc đã được hịa giải xong thì
các bên liên quan khơng được khơi lại và hồn tồn khơng cịn hiềm khích với nhau
nữa. Đây là những quy định tiến bộ của luật tục, cần được đặc biệt coi trọng và phát
huy cùng với vai trị của các già làng trong cơng tác hịa giải tại buôn làng.
7. Xây dựng hương ước trong các buôn làng phù hợp với pháp luật và những
giá trị tích cực của luật tục. Cùng là quy phạm xã hội nên hương ước rất gần với luật
tục, vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng hương ước là luật tục thành văn.
Đây là điều kiện thuận lợi để kết hợp, đưa luật tục vào hương ước, làm công cụ chính
thức để cùng với pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng các dân tộc
Êđê ở địa phương.
8. Tổ chức tốt hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc Êđê. Hoạt động
trợ giúp pháp lý là một trong những khâu hỗ trợ đắc lực cho tổ chức thực hiện pháp
luật, đưa pháp luật vào đời sống đồng bào có hiệu quả. Hoạt động trợ giúp pháp lý
giúp đồng bào dân tộc Êđê hiểu được pháp luật để bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng
của mình; đồng thời giúp họ so sánh luật tục với pháp luật để loại bỏ các quy định lạc
hậu của luật tục.
9. Chú trọng phát triển kinh tế – xã hội, tạo môi trường tốt để thúc đẩy thực
hiện pháp luật trong cộng đồng dân tộc Êđê.
III.6.2.3. Nhóm giải pháp bổ trợ tuyên truyền
15
1. Sưu tầm và biên soạn Luật tục của người Ê đê thành các chương, điều cụ thể
như hương ước của làng. Bởi lâu nay Luật tục thường được lưu truyền bằng miệng,
không được ghi lại nên theo thời gian sẽ dễ bị mai một. Hiện nay, tác động của kinh tế
thị trường nhiều tác động đến giới trẻ, nhiều thú vui thu hút đam mê của họ. Giá trị
văn hóa cổ truyền ít được quan tâm. Nếu như cứ sử dụng hình thức truyền miệng theo
dịng thời gian sẽ dần bị mai một.
2. Lập fanpage để tuyên truyền: Hiện nay Facebook là một mạng xã hội phổ
biến tuyên truyền hữu ích nhất. Đa phần người Việt Nam chúng ta nói riêng và người
nước ngồi nói chung đều sử dụng mạng xã hội Facebook. Chúng em, lập fan facepage
không chỉ lưu giữ và truyền Luật tục cho người Ê đê mà còn là nguồn tư liệu cho mọi
người trong và ngồi nước tham khảo.
3. Quay YouTube: You Tube cũng hình thức tuyên truyền bằng hình ảnh và âm
thanh hiệu quả. Chúng em cố gắng giới thiệu những Luật tục của người Ê đê trên trang
thông tin này.
IV. THIẾT KẾ VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
IV.1. Quy trình tiến hành
STT Nhiệm
vụ Người
nghiên cứu
thực hiện
Thời gian Hình thức thực hiện
thực hiện
1
Lên kế hoạch, Cả nhóm
đặt ý tưởng
Tháng
9/2020
Phương pháp quan sát, thảo luận
2
Điều tra, thu Cả nhóm
thập dữ liệu
Tháng
9/2020
Thực tế bn là bn Nui, buôn
Buôr, buôn Trum và buôn Ea Pô ở
xã Tâm Tháng; Buôn U1, U2, U3 ở
thị trấn Eatling; Buôn Trum, buôn
Knha ở xã Đăk Wil, Buôn Usroong
ở xã Đăk DRônPhát phiếu điều tra
Thống kê, phân tích số liệu
3
Nghiên cứu, Cả nhóm
đề xuất các
nhóm
giải
pháp
Tháng
10/2020
16
Tổng hợp
4
Thực nghiệm Cả nhóm
và
kiểm
chứng
hiệu
quả của giải
pháp được đề
xuất.
Tháng
10,11,
12/2020
Phương pháp thực nghiệm
IV.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Thông qua các kênh tài liệu từ các
đề tài nghiên cứu trước, thông qua mạng internet, các sách báo, ấn phẩm có liên quan .
..
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Thông qua các phiếu điều tra để khảo sát
hơn 200 người Êđê về sự hiểu biết về luật tục Êđê.
Phương pháp thống kê toán học: Thống kê số liệu về sự hiểu biết về luật tục
Êđê.
IV.3. Các bƣớc tiến hành
IV.3.1. Tìm hiểu số liệu tại các cơ quan chức năng.
Ủy ban dân tộc: Tìm hiểu về vốn hiểu biết về luật tục Ê đê trên địa bàn huyện Cư
Jút.
IV.3.2. Điều tra thực tế, tìm hiểu nguyên nhân.
- Điều tra 200 người Ê đê, trên địa bàn huyện Cư Jút bằng phiếu điều tra
- Tìm hiểu nguyên nhân.
IV.3.3. Xây dựng hệ thống giải pháp và thực hiện các giải pháp.
- Thực hiện những giải pháp đưa ra.
V.3.4. Điều tra hiệu quả của những giải pháp đã thực hiện.
V. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU – ÁP DỤNG CÁC GIẢI PHÁP VÀO
THỰC TIỄN
V.1. Kết quả nghiên cứu và phân tích dữ liệu.
17
Biểu đồ 3. Biểu đồ thể hiện hiểu biết về Luật tục sinh đẻ có kế hoạch của người Ê đê
Kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn 14,5% người dân tộc Ê đê, chưa nắm được
Pháp lệnh dân số và những luật tục về dân số của người Ê đê. Bởi Luật tục của người
Ê đê, kể cả Luật tục về dân số cũng tuân theo quy định Pháp lệnh dân số của Việt
Nam.
Biểu đồ 4. Biểu đồ thể hiện hiểu biết về Luật tục của người Ê đê trong sản xuất
Qua điều tra, khảo sát, chúng em nhận thấy vẫn còn 25,1% người dân tộc Ê đê
chưa nắm được kinh nghiệm trồng trọt, sản xuất. Họ cho rằng ở gần thác thì khơng nên
trồng cây. Ngược lại với suy nghĩ của một bộ phận người dân tộc Ê đê, thì theo truyền
thống người Ê đê thường tìm những nơi có nguồn nước để định canh, định cư, phát
triển sản xuất. Nước là yếu tố quan trọng, quyết định trong sản xuất hằng ngày.
18
Biểu đồ 5. Biểu đồ thể hiện sự hiểu biết của con cháu về Luật tục của người Ê đê.
Biểu đồ chứng minh theo dịng thời gian thì những hiểu biết về Luật tục của
con cháu có phần mai một. Chỉ có 18% nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của bản
thân phải hiếu kính với ơng bà cha mẹ và phải biết sống vì tổ tiên, cộng đồng. Người
dân tộc Ê đê rất coi trọng nguồn cội. Với họ nguồn cội có ý nghĩa thiêng liêng trong
việc giáo dục con cái.
Biểu đồ 6. Biểu đồ thể hiện sự hiểu biết của người dân trong Luật tục khám chữa bệnh
Hủ tục cúng bái để chữa bệnh đã tồn tại lâu đời trong đời sống tâm linh của
đồng bào dân tộc thiểu số. Thuở xa xưa khi nền y học chưa phát triển, họ tin vào sức
mạnh của tâm linh. Hy vọng có thể cúng để chữa bệnh cứu người. Ngày nay y học
phát triển, cúng trừ ma, chữa bệnh cứu người là lạc hậu, thể hiện sự mê tín dị đoan. Để
bài trừ sự mê tín dị đoan đó, Luật tục ra đời cũng đưa ra những quy định ràng buộc về
ốm đau, khám chữa bệnh. Dường như nhiều người dân Ê đê còn chưa nắm rõ Luật tục
này. Khảo sát cho thấy 13% lựa chọn nên cúng chữa bệnh, 24,5% lựa chọn tùy gia
đình.
19
Biểu đồ 7. Biểu đồ thể hiện hiểu biết về Luật tục cưới hỏi
Như vậy, con số khảo sát đã minh chứng cho thấy 16,5% lựa chọn nhà trai,
26% lựa chọn hai nhà lo chung. Phong tục văn hóa xa xưa của người Ê đê là chế độ
mẫu hệ. Trong hôn nhân quyền quyết định là nhà gái và gánh vác đám cưới cũng là
nhà gái. Đây cũng là quy định trong Luật tục. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay,
mọi người sống hòa đồng và cởi mở hơn, họ biết gánh vác và chia sẻ lẫn nhau thì 2
bên gia đình cùng chung lo cho con cháu cũng là điều hay. Hoặc nhà gái khó khăn thì
nhà trai cùng chung tay gánh vác.
Biểu đồ 8. Biểu đồ thể hiện sự ứng xử trong cộng đồng
Qua biểu đồ cho ta thấy 16% lựa chọn như đối xử với người, 12% lựa chọn đối
xử như người lạ, khơng có lựa chọn đối xử như người bình thường. Văn hóa của người
Ê đê có mối quan hệ cộng đồng rất chặt chẽ. Họ luôn xem nhau như anh em ruột thịt.
Sự hiểu biết về Luật tục của người Ê đê ở phương diện này còn hạn chế.
20
Biểu đồ 9. Biểu đồ thể hiện những điều cấm kỵ trong hôn nhân
Từ số liệu trên biểu đồ, chúng ta nhận thấy 55% lựa chọn có thai. Thực tế trong
đời sống phong tục và văn hóa của người Ê đê họ rất nghiêm ngặt trong giáo dục con
cái. Điều cấm kỵ trong hôn nhân là mất trinh tiết và có thai trước. Điều này được thể
hiện rõ nét trong Luật tục.
Biểu đồ 10. Biểu đồ thể hiện quy định về việc chết vì bệnh dịch
Trong Luật tục của người Ê đê thì người chết vì bệnh dịch khơng được để trong
nhà lâu ngày, phải báo cho dân bản biết để phịng tránh dịch bệnh và nhanh chóng đem
chơn cất. Thế nhưng, 14,6% lựa chọn có thể để lâu trong nhà vì khơng hiểu biết về luật
tục.21,6% lựa chọn an toàn chọn phương án khác nhưng rất tiếc đây cũng là phương
án sai.
V.2. Kết quả khảo sát sau tác động
/>IeiaMaLkapWPJ9_fU7O-Ofw/viewform
Sau thời gian áp dụng các giải pháp nâng cao hiểu biết về Luật tục và hành vi,
chúng tôi nhận thấy. Người đồng bào dân tộc Ê đê đã nhận thức được việc sinh đẻ có
kế hoạch, mỗi gia đình nên sinh 2 con đem đến cuộc sống ấm no cho gia đình 86,4%
lựa chon 2 con tăng 20,4%.
21
Bên cạnh việc sinh con thì việc trồng cây cũng được người Ê đê quan tâm và có
sự hiểu biết hơn. Điều tra cho thấy hiểu biết của họ về Luật tục, gần thác thì trồng cây
mía chiếm 87%, tăng 36,2%.
Sau khi thực hiện nhóm giải pháp thì người Ê đê cũng hiểu hơn về trách nhiệm
của mình với gia đình. Họ biết được mình phải ni cha mẹ, q trọng ơng bà; Sống vì
tổ vì tiên 90,9% người khảo sát đã chọn 2 ý này, tăng 25,9%.
Về khám chữa bệnh cũng được đề cập trong Luật tục, sau khi tác động người Ê
đê cũng nhận không nên cũng để chữa bệnh. 90,9% lựa chọn đáp án “không”, tăng
28,4%.
22