Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

140000084 đại cương thích hải ngộ dẫn nhập triết học ấn độ (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.53 KB, 17 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI CƯƠNG – KHĨA XIV

TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ III

MÔN: DẪN NHẬP TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
Đề tài:

PHÊ BÌNH CHỦ TRƯƠNG NGHIỆP CỦA ĐẠO
JAINS TRONG BÀI KINH DEVADAHA
Giảng viên hướng dẫn : SC.TS. THÍCH NỮ HUYỀN TÂM
Tăng sinh

: THÍCH HẢI NGỘ

Thế danh

: VÕ VĂN MẪN

Mã số sinh viên

: 1450000084

TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2020.


ĐIỂM

NHẬN XÉT CỦA GIÁO THỌ


.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................
.......................................................................................


MỤC LỤC

A. DẪN NHẬP ............................................................................................................ 2
B. NỘI DUNG ............................................................................................................. 3
TÓM TẮT NỘI DUNG KINH ................................................................................. 3
1. CHỦ TRƯƠNG VỀ NGHIỆP CỦA ĐẠO JAINS ................................................ 4
2. ĐỨC PHẬT PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM VỀ NGHIỆP CỦA ĐẠO JAIN .............. 6
3. TẠI SAO NÊN VẬN DỤNG NGHIỆP CỦA PHẬT GIÁO? ............................. 12
KẾT BÀI ................................................................................................................... 14

1


A. DẪN NHẬP
Kỳ na giáo là một trong ba tôn giáo Ấn Độ cổ xưa nhất hiện vẫn còn tồn
tại cho đến ngày nay. Giáo chủ của Kỳ na giáo được công nhận là Mahāvīra.
Danh xưng Kỳ-na (Jain) dẫn xuất từ động từ ji trong ngơn ngữ Sanskrit, có
nghĩa là “chinh phục” hay “chiến thắng”. Điều này nói tới cuộc chiến đấu khổ

hạnh mà người tu sĩ Kỳ-na phải thực hiện, chống lại mọi đam mê và các cảm
giác thuộc thể xác để đạt tới sự toàn tri và sự thuần khiết của linh hồn, hay nói
khác đi, đạt tới sự giác ngộ. Những vị nổi bật nhất trong số ít các bậc được cho
là đã đạt tới giác ngộ như vậy được gọi là Jina (Bậc chiến thắng); còn những vị
khổ tu cũng như những người thế tục tin theo truyền thống này thì được gọi
là Jain hay Jaina (Người đi theo bậc Chiến thắng). Từ này được sử dụng để thay
thế cho một từ cổ hơn là Nirgrantha (trong ngơn ngữ Pali viết là Nigantha, có
nghĩa là Khơng [bị] ràng buộc).
Chủ trương tu tập của họ là dựa vào sự tu tập nổ lực của bản thân, họ
không chấp nhận thẩm quyền của Vệ Đà (nāstika) đây là điểm trùng hợp với chủ
trương của Phật giáo, nhưng nhận thức của họ là Thực Tại Luận hoặc Đa
Nguyên Luận khi đi sâu vào phân tích tìm hiểu thì ta thấy rõ sự sai biệt giữa
giáo lý của đạo Jains và Phật giáo nhất là quan điểm về nghiệp khi họ cho rằng
bất cứ cảm thọ gì dù khổ hay vui, không khổ không vui đều do nghiệp quá khứ
(pube kât hetu) chỉ chấp nhận nghiệp Dị thục (karma-vipāka).

2


B. NỘI DUNG
TÓM TẮT NỘI DUNG KINH
Bài Kinh Devadaha thuộc bài Kinh số 101 thuộc Trung Bộ Kinh, được
Đức Phật thuyết Tại thị trấn Devadaha của bộ tộc Sakya (Thích Ca), Đức Phật
thuật lại cho chúng Tỳ kheo việc Ngài luận bàn chủ trương của lõa thể ngoại đạo
Nigantha (Ni Kiền Tử). Trong bài Kinh này đã nói rõ những chủ trương tu tập
của các Nigantha mà theo họ tất cả đều được xác chứng từ vị giáo chủ toàn tri,
toàn năng của họ. Chủ trương thứ nhất của ngoại đạo Nigantha: Tất cả cảm thọ
vui, khổ, trung tính đều do nghiệp quá khứ quyết định. Thứ hai các Nigantha
chủ trương nếu diệt nghiệp quá khứ, không tạo nghiệp mới, thì tất cả nghiệp
chấm dứt bằng con đường khổ hạnh. Do nghiệp đoạn, khổ đoạn; do khổ đoạn,

cảm thọ đoạn; do cảm thọ đoạn, tất cả khổ sẽ chấm dứt. Thứ Ba họ chủ trương
thân tội nên phải khổ hạn ép xác càng ép xác thì càng nhanh tiêu diệt ác nghiệp
quá khứ. Từ những chủ trương này Đức Phật đã đưa ra những câu hỏi nhằm bác
bỏ sự sai lầm trong lập thuyết của các Nigantha từ đó đi đến kết luận các Ni
Kiền Tử đáng bị chỉ trích vì mười điểm: Nếu cảm giác khổ vui do nghiệp quá
khứ, thì quá khứ họ đã làm nhiều phi pháp; nếu do tạo hóa, họ đã có một tạo hóa
hung ác; nếu do kết hợp các điều kiện, họ đã kết hợp ác duyên; nếu do sinh loại,
họ bị ác sinh loại; nếu do tinh tấn hiện tại, họ đang thực hành tà tinh tấn. Nếu
khổ vui không do năm nguyên nhân ấy, Ni Kiền Tử vẫn đáng bị chỉ trích, vì vơ
cớ tự chuốc khổ cho mình. Và cuối cùng Đức Phật đi đến kết luận có mười
trường hợp Như Lai đáng được tán thán, ngược lại với mười điều đáng chỉ trích
của Ni Kiền Tử.

3


1. CHỦ TRƯƠNG VỀ NGHIỆP CỦA ĐẠO JAINS
Giáo lý Nghiệp là một trong những giáo lý căn bản và được xem như triết
thuyết lập luận của các tôn giáo ở Ấn Độ. Học thuyết về Nghiệp đã chi phối
một cách xuyên suốt nền triết học Ấn Độ trước, trong, sau thời Đức Phật.
Nghiệp (karma trong tiếng Sanskrit hay kamma trong tiếng Pali) vốn có nguyên
nghĩa là hành động hay tạo tác, được quan niệm khác nhau theo các triết thuyết
hay tôn giáo khác nhau. Vậy câu hỏi được đặt ra là: Nghiệp hình thành như thế
nào? Làm thế nào để đoạn trừ nghiệp? Đây là câu hỏi lớn mà các nhà lập giáo
đưa ra chủ thuyết để giải thích cho điều này như là cơ sở chứng minh cho kết
quả tu tập của họ. Kỳ na giáo ra đời cũng nhằm giải quyết những câu hỏi đó
(làm sao tiêu diệt ác nghiệp đạt đến sự tự do trong giải thoát), Vậy chủ trương về
nghiệp của Kỳ Na Giáo như thế nào? Sự khác biệt trong quan điểm về góc nhìn
nghiệp giữa Kỳ Na Giáo và Phật giáo là như thế nào? Tất cả những câu hỏi này
sẽ được làm sáng tỏ qua sự vấn đáp giữa Đức Phật với các Nigantha (Kỳ na

giáo) được đề cập đến trong kinh tạng nguyên thủy như: Devadaha sutta, kinh
Sīvaka, Kinh Upāli, kinh Titthayatana…sẽ chỉ ra lập thuyết về nghiệp của các
Nigantha và ngững phê bình về sự sai lầm trong chủ thuyết về nghiệp mà các
Nigantha đã đưa ra.
Chủ thuyết thứ nhất. Trong bài kinh Devadaha thuộc bài Kinh số 101
của Trung Bộ Kinh các Nigantha đã đưa ra quan điểm của họ về Nghiệp, mà họ
cho rằng quan điểm nay là đúng đắn, chắc như đinh đóng cột, khơng có gì có
thể làm lung lay được. “Phàm cảm giác gì con người cảm thọ (lãnh thọ), lạc
thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ”.
Nghĩa là: Tất cả các quả nghiệp dị thục đều do nghiệp quá khứ quyết định. Câu
hỏi được đặt ra là nghiệp quá khứ chi phối đời sống hiện tại đến mức độ nào?
Theo các Nigantha thì họ cho rằng các cảm thọ mà con người cảm nhận như khổ
về vật chất hay tinh thần, sự sung sướng ấm no đầy đủ tiện nghi hay cuộc sống
qn bình khơng khổ cũng không giàu… đều do nghiệp quá khứ mà mình đã tạo
4


quyết định. Nghĩa là họ cho rằng Nghiệp quá khứ như một đấng quyền năng có
thể ban bố thưởng phạt đối với một con người. Các Nigantha cho rằng Nghiệp
quá khứ mang tính chất cố định, mang tính chất định mệnh không thể thay đổi
được mọi nổ lực đều trở nên vô nghĩa trước sức mạnh của nhân quá khứ đã tạo.
Quan điểm về nghiệp của Kỳ na giáo có giống quan điểm về thuyết định mệnh
của các Bà la môn không? Thuyết định mệnh của Bà la môn cho rằng có một
đấng quyền năng có thể ban phước giáng họa chi phối đời sống của con người
trong khi Kỳ na giáo cho rằng nghiệp quyết định tất cả không do một đấng tạo
hóa nào tạo ra cả. Từ quan điểm này mà tự họ nổ lực bản thân để đoạn trừ ác
nghiệp tìm cầu giải thốt tối thượng.
Chủ thuyết thứ hai của các Nigantha cho rằng: “Do sự đốt cháy, đoạn
diệt các nghiệp quá khứ, với sự không tạo tác các nghiệp mới, sẽ khơng có diễn
tiến đến tương lai…tất cả khổ sẽ được diệt tận?” Muốn diệt trừ nghiệp trong

tương lai thì khơng khơng tạo tác nghiệp mới. Nghĩa là đoạn diệt nghiệp quá
khứ, không tạo nghiệp mới nên dịng nghiệp khơng cịn trơi chảy đến tương lai
nữa, không diễn tiến đến tương lai nên khổ đoạn tận, do khổ đoạn tận nên
nghiệp đoạn tận do nghiệp đoạn tận nên cảm thọ đoạn tận. Đây là cách lập luận
của các Nigantha, họ khẳng định rằng nghiệp quá khứ là riềng mối của mọi vấn
đề. Chính vì thế cắt đứt nguyên nhân này sẽ là cơ sở để đoạn diệt khổ, nghĩa là
không làm thêm nghiệp mới qua ba nghiệp thân, miệng, ý thì dịng nghiệp sẽ bị
chặn đứng, khi nghiệp chấm dứt thì khổ, cảm thọ, tất cả khổ sẽ khơng cịn. Đây
là quan điểm, chủ trương của đạo Jain. Vậy đoạn diệt ác nghiệp như thế nào?
Không tạo nghiệp mới bằng cách nào? Tất cả sẽ được trả lời qua chủ thuyết thứ
ba của các Nigantha.
Chủ thuyết thứ ba của Kỳ na giáo chủ trương Thân tội chứ khơng phải
tâm tội . Vì quan niệm thân tội nên họ chủ trương là tu tập khổ hạnh. Vậy vì sao
phải khổ hạnh? Vì họ cho rằng, sự tu tập khổ hạnh là phương pháp để tiêu diệt
những ác nghiệp mà con người đã tạo ra trong quá khứ. Chính nhờ tu tập khổ
5


hạnh, con người mới có thể thiêu đốt các nghiệp ác, là điều kiện cơ bản để con
người đạt được hạnh phúc, vươn tới cảnh giới giải thoát giác ngộ. Nhưng những
điều này họ chỉ nghe giáo chủ của họ nói lại, họ khơng biết giải thốt là như thế
nào? Khổ hạnh đến mức độ nào sẽ diệt trừ được ác nghiệp?...Họ chỉ biết hành
xác và hành xác chứ không biết chắc chắn kết quả mà họ đạt được sẽ đi đến
đâu.Trong kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya), Tiểu kinh Khổ Uẩn (Cula dukkha
kkhandha suttam) phái Ni kiền tử đã trình bày quan điểm tương tự như sau:
“Nếu xưa kia ngươi có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mịn bằng khổ
hạnh khốc liệt này…”. Vì Họ cho rằng, hạnh phúc khơng thể đạt được hạnh
phúc, chỉ có khổ đau mới đạt được hạnh phúc. Nhờ sự tu tập khổ hạnh mà
nghiệp tiêu diệt nhờ nghiệp tiêu diệt mà các cảm thọ cũng theo đó khơng cịn.
Vậy vì sao họ lại hành hạ cái thân Ngủ uẩn cái thân được tạo ra do tứ đại này?

Vì họ cho rằng thân này là dơ bẩn do những cấu uế tạo thành là nguyên nhân
phát sinh ra những thói quen xấu đưa đến những ác nghiệp nên họ chủ trương
hành hạ thân xác này càng nhiều thì càng tốt để hạn chế những dục vọng tiềm ẩn
có thể nãy sinh bất cứ lúc nào nghĩa là “dĩ độc trị độc”.
2. ĐỨC PHẬT PHÊ BÌNH QUAN ĐIỂM VỀ NGHIỆP CỦA ĐẠO JAIN
Với Chủ thuyết thứ nhất mà họ đưa ra “Phàm cảm giác gì con người
cảm thọ (lãnh thọ), lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân
các nghiệp quá khứ”. Đức Phật đã đưa ra những câu hỏi đi từ cạn đến sâu nhằm
chỉ ra rõ những sai lầm, khơng có cơ sỡ trong lập thuyết của họ như: trong q
khứ chúng tơi có hiện hữu hay khơng hiện hữu? Trong q khứ có tạo ác nghiệp
hay khơng tạo ác nghiệp? Chúng tơi có tạo ác nghiệp như thế này, như thế kia?..
Tất cả những câu hỏi này các Nigantha không trả lời được. Đức Phật đã trắc
nghiệm một cách đầy tính khoa học qua câu hỏi đã nói lên được nhiều điều rằng
đầu tiên khi muốn lập thuyết về một vấn đề gì thì phải biết rõ cái mình đang nói,
vì lẽ nếu anh khơng biết sao dám nói được. các Niganthat phải biết được q
khứ như thế nào thì mới có thể chấm dứt nghiệp quá khứ được. Trong khi đó họ
6


khơng biết gì thì chủ trương mà họ đưa ra thật quá mơ hồ thiếu căn cứ. Vì Sao?
Vì khi đã đưa ra lập thuyết thì người này phải chứng đắc được Tam minh, khi
chưa chứng đắc Tam minh thì những lập thuyết của họ khơng có cơ sỡ, chưa
chứng đắc tam minh nên họ không thể trả lời được câu hỏi của Đức Phật đặt ra.
“… khổ như thế này cần phải được diệt tận”. Đây là cách Thế tơn muốn thẩm
xét xem họ các Nigantha có đắc lậu tận minh khơng vì nếu đắc lậu tận minh
chắc chắn họ sẽ biết rõ nguyên nhân của đau khổ và con đường đưa đến diệt
khổ. Khơng có Tam minh nên một điều chắc thật là họ không biết trên thực thế
có thể đoạn tận các nghiệp ngay trong hiện tại hay khơng? Trên thực tế thì có thể
đoan tận các bất thiện pháp ngay trong hiện tại, không cần chớ kiếp sau mà có
thể chứng đắc quả thánh ngay trong hiện tại. Từ các câu hỏi của Đức Phật với

các Nigantha đã mở ra cho ta sự hiểu biết về giáo lý nghiệp của Kỳ na giáo,
rằng học thuyết này được xây dựng dựa trên sự mơ hồ không chắc thật, vơ minh
khơng chính xác, vì khơng chính xác nên việc các Nigantha khẳng định tất cả
đều do nghiệp quá khứ quyết định tất cả là sai. Bởi lẽ quá khứ cịn chưa biết thì
nói gì đến vơ lượng kiếp quá khứ thì làm sao biết được. Vì giả sử nếu các
Nigantha thấy rõ điều đó (thấy khổ, đoạn tận khổ,..) thì chủ trương như vậy cịn
có thể hợp lý nhưng ở đây họ cịn khơng biết điều gì cả vì vậy chủ trương đưa ra
ban đầu là hồn tồn không hợp lý chút nào.
Trong bài Kinh 21. Sivaka thuộc Tương Ưng Bộ Kinh các Nigantha cho
rằng: “Tất cả các cảm giác vui, buồn, không vui không buồn…đều do nghiệp
quá khứ quyết định”. Đức Phật đã chỉ trích một cách gay gắt chủ thuyết này vì
họ đã đi quá xa với sự thật. Vì sao vậy? trên thực tế thì những cảm thọ vui, khổ,
không vui không khổ… con người vẫn cảm nhận được ngay trong hiện tại qua
sự cảm thọ của con người ngủ uẩn qua (mắt, tai, mũi lưỡi, thân, ý) chứ không
phải do nghiệp quá khứ quyết định hồn tồn, mà đó là nghiệp hiện tại đưa đến
cảm thọ. Vậy với chủ thuyết tất cả các quả nghiệp dị thục đều do nghiệp quá khứ
quyết định là sai khơng có cơ sỡ đã bị Đức Phật bác bỏ.
7


Đức Phật đưa ví dụ nhằm khai sáng cho các Nigantha từ đó chỉ ra cho họ
thấy chỗ sai của mình: Một người bị mũi tên độc găm vào người dẫn đến khổ
đau cũng giống như khổ do tham sân si. Nếu khơng can thiệp khơng tìm cách
giải quyết mũi tên độc thì sẽ chết. Người bị trúng tên độc cảm thọ đau đớn lúc y
sĩ mổ xẻ, lúc vật dụng dị tìm chạm da thịt, lúc mũi tên được rút ra, lúc đốt
miệng vết thương, lúc đắp thuốc nghĩa là các cảm giác thọ lãnh cái khổ này đi
đến cái lạc là được lành bệnh. Khi vết thương lành, người ấy phải nhớ đã trải
qua những đau khổ như thế nào, và cũng biết hiện tại mình đã khỏi bệnh, an vui
như thế nào. Vậy khổ có mấy loại? Cái Khổ có rất nhiều loại khổ, mang tính
chất bất định tính, nhưng chung quy có hai loại khổ một loại khổ cần để đưa đến

giải thoát thiện pháp phát khởi thì cần nên duy trì, lạc đưa đến tứ định, tứ khơng
định, tứ sắc định… thì cần duy trì, cịn nếu cái lạc làm cho thiện pháp tiêu hủy
thì phải đoạn ngay, nếu khổ dẫn đến vơ minh thì cần phải đoạn diệt ngay. Nếu
khổ duy trì đem lại an lạc thì cần nên duy trì và ngược lại. Với đạo Phật thì dung
hịa giữa hai cái này là xả trong cái khổ và xả trong cái lạc không nắm giữ cái
nào cả. Qua câu chuyện này cái khổ có hai loại, khi bị thương được y sĩ chữa
lành nghĩa là nghiệp hiện tại quyết định chứ không phải nghiệp quá khứ quyết
định cũng vậy quyết định khổ hay vui là do nghiệp hiện tại chứ không phải do
nghiệp quá khứ.
Trước sự lập luận của Đức Thế Tôn, các Nigantha đã dựa vào vị giáo chủ
của họ như là tấm bình phong cho việc bảo vệ quan điểm, chủ trương ban đầu
của tơn giáo là có cơ sỡ xác thực vì: “Nigantha Nataputta là bậc tồn tri, tồn
kiến, tự xưng là có tri kiến tồn diện như sau: “Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và
có thức, tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục ở nơi ta”. Nghĩa là vị giáo chủ
của họ có trí tuệ là người có đủ thẩm quyền để đưa ra lập trường cho tơn giáo
mình. Đức Phật người thành tựu chánh trí giác ngộ giải thốt nhưng khi muốn
làm điều gì thì Ngài đều cần phải tác ý đến đối tượng và bằng tuệ quán Ngài mới
hiểu được đối tượng.
8


Tiếp theo Đức Phật đưa ra những câu hỏi nhằm làm sáng tỏ thêm sự sai
lầm chủ trương của các Nigantha: “Khi các Ông tha thiết tinh tấn, tha thiết tinh
cần, khi ấy các Ông thọ lãnh những cảm giác thống khổ, đột khởi, đau đớn, cực
khổ, thống khổ. Còn trong khi các Ơng khơng tha thiết tinh tấn, khơng tha thiết
tinh cần, khi ấy các Ơng khơng thọ lãnh những cảm giác thống khổ, đột khởi,
đau đớn, cực khổ, thống khổ.”Vì chỉ có đau đớn khốc liệt khi có tha thiết tinh
cần, ngược lại khi khơng tinh cần thì khơng khổ, nên việc nói cảm thọ do nhân
các nghiệp q khứ là sai vì cảm thọ đó nó hiện hữu ngay trong hiện tại. Khi
đánh biết đau, khi nóng, lạnh thì biết khổ… Như vậy những gì họ trả lời là trái

ngược với chủ trương ban đầu của họ. Vì sự tinh tấn tinh cần chỉ là kết quả của
thọ khổ sau khi hết tinh cần, tinh tấn thì có lạc nghĩa là cảm thọ lạc, khổ do tinh
tấn chứ không phải do nghiệp quá khứ tạo ra hay quyết định. Và khổ hạnh
không thể làm cho nghiệp hiện báo thành sanh báo và ngược lại; nghiệp có khổ
báo thành nghiệp lạc báo và ngược lại; nghiệp đã chín thành chưa chín và
ngược lại; nghiệp nhiều báo thành ít báo và ngược lại; nghiệp có báo thành
nghiệp khơng báo và ngược lại.
Trong câu chuyện của Ngài Angulimala thì tội của ơng có thể nhiều đời bị
đun xơi trong địa ngục nhưng nhờ sự tinh cần cố gắng tu tập mà Ngài chỉ bị quả
báo nhẹ trong hiện tại sau đó chứng đắc quả vị A la hán thì khơng còn thọ báo
khổ nữa nghĩa là tùy vào tâm hạnh mà có thể thay đổi được nghiệp quá. Sự tinh
tấn tu tập có thể thay đổi được quả dị thục đó là tinh thành nhân đạo sự trí tuệ
của đạo Phật. “Mong rằng nghiệp đa sở thọ này do tinh tấn… nghiệp thiểu sở
thọ do tinh tấn tinh cần trở thành đa sở thọ”. Họ đều trả lời đều không được.
Nghĩa là họ khơng tin rằng làm thì ích mà hưởng thì nhiều gọi là đa sở thọ, hay
làm nhiều mà hưởng ít gọi là thiểu sở thọ họ đều cho rằng không thể. Nhưng
trong Phật giáo khẳng định điều này xảy ra, và trường hợp này do sự tác ý của
tâm quyết định. Như câu chuyện bà già tuy nghèo cúng ít đầu mà quả báo lớn có
người cúng rất nhiều dầu nhưng quả báo thì lại ít.

9


Trong bài kinh Upāli số 56 khi Đức Phật hỏi Nigantha Dighatapassi cũng
như Gia chủ Upāli môn đồ của đạo Jain trong ba phạt: Thân phạt, khẩu phạt, ý
phạt (Phạt gọi danda nghĩa đen là một cây xồi trừng phạt những người lỗi lầm về
sau nghĩa chỉ cho các loại hình phạt nghĩa là bị nghiệp trừng trị một cách thích
đáng) cái nào quan trọng thì cả hai đều trả lời là: “Thân phạt” vì họ cho rằng
Thân gây nên tội lỗi và các tà hạnh trong các dục nên chủ trương tu khổ hạnh ép
xác. Đức Phật cũng có thời gian sáu năm tu tập khổ hạnh tại rừng Khổ Hạnh

Lâm nhưng sau đó ngài cũng từ bỏ và đi theo con đường Trung Đạo (Middle
Path), sự khổ hạnh chỉ làm cho thân thể gầy mịn, tâm trí khơng thể đạt được
định tĩnh để có thể thành tựu tâm giải thoát và tuệ giải thoát được. Nhưng trong
thực thế sự khổ hạnh cũng rất cần thiết đối với người tu tập nhất là khi các dục
sinh khởi do sự dư thừa năng lượng do ăn uống mang lại…ví dụ khi cơ thể tràn
đầy năng lượng cơ thể vật chất tráng kiện thì người tu tập có thể kiềm chế bằng
cách nhịn ăn một bữa để điều tiết cơ thể trước những ham muốn do nhu cầu sinh
lý mang lại.
Vậy một điểm nghi vấn được đặt ra đó là nếu họ chủ trương là thân phạt
thì rõ ràng các Nigantha trong quá khứ đều tạo ác hoàn toàn ác nghiệp hay sao?
vì trong hiện tại tín đồ cũng như giáo chủ họ đang hành hạ bản thân. Cịn nếu
nói do thượng đế sáng tạo thì khơng lẽ thượng đế đã tạo ra các Nigantha là một
người độc ác hay sao? Khổ hạnh ngay trong hiện tại để đốt cháy nghiệp quá
khứ, nhưng có một điều nghịch lý xảy ra đó là các Nigantha khơng biết q khứ
của mình như thế nào? Có bao nhiêu nhiêu cảm thọ?
Nếu chủ trương thân phạt thì họ hồn tồn khơng biết kiếp trước đã tạo ra
những nghiệp nhân gì, khơng hiểu được ngun nhân gây ra khổ đau là do gốc
rễ của tham ái. Nhưng họ cũng hiểu được những việc làm nào là trái đạo đức
như sát sanh, trộm cắp, nói dối,...họ rất sợ những tội lỗi này nên cố gắng tránh
xa nó, họ thà làm thân thể mình đau chứ khơng làm hại đến người khác.

10


Đức Phật cũng chỉ trích 10 thuyết tùy thuyết của các Nigantha 5 thuyết khẳng
định 5 thuyết phủ định.
Thuyết 1: Tất cả nghiệp quá khứ hành ác nghiêp rồi mà hiện tại hành khổ mình
nữa đáng chỉ trích.
Thuyết 2: Tất cả các khổ thọ, lạc thọ do một đấng tạo hóa tạo ra mà hiện tại các
vị đang chủ trương khổ do ác nghiệp tạo ra đáng chỉ trích vì họ đã có một tạo

hóa hung ác.
Thuyết 3: nói về nhân duyên khác duyên khởi đạo Phật họ cho rằng các cảm thọ
lạc, khổ bất lạc do các điều kiện mà sinh, vậy hiện tại các vị chủ trương khổ như
vậy thì các Nigantha đều do ác nghiệp sinh đáng xem thường họ đã kết hợp ác
duyên.
Thuyết 4: các khổ thọ, lạc thọ…do sinh loại sinh họ bị ác sinh loại bởi vì các vị
chủ trương hành khổ.
Thứ 5: sự tinh cần tinh tấn mà các cảm thọ bất lạc, bất khổ… có trong hiện tại
các vị có ác tinh tấn hay tà tinh tấn, họ đang thực hành tà tinh tấn. Đây là năm
thuyết khẳng định bị Đức Phật chỉ trích.
Năm Phủ định nếu như các vị chủ trương rằng cái cảm thọ lac, bất lạc, bất
khổ…không do nghiệp q khứ sinh thì đáng bị chỉ trích. Thứ hai nếu chủ
trương các cảm thọ, lạc, khổ… không do sanh loại sanh thì đáng bị chỉ trích.
Thứ ba nếu nói các cảm thọ hiện tại không do các điều kiện sinh cũng đáng chỉ
trích. Nếu nói các cảm thọ hiện tại khơng do tinh tấn sinh thì cũng đáng chỉ
trích. Đây là mười chủ thuyết đáng chỉ trích. Đây 10 tùy thuyết này đều không
được chấp nhận. Từ đây sự tinh tấn của các Nigantha khơng có kết quả. Vậy
Đức Phật đưa ra câu trả lời cho sự tinh tấn, tinh cần có kết quả giúp cho các
Nigantha hiểu đó là Tinh tấn có kết quả là khi vị Tỳ kheo không để tự ngã bị khổ
thắng lướt, không từ bỏ lạc thọ hợp pháp vì thọ đem đến sự thăng tiến trên con
đường nhưng cũng khơng bị nó chi phối. Vị ấy biết hai cách diệt trừ tham dục
(nhân khổ) là tinh cần và xả nghĩa là khơng dính mắc vào việc đó dù khổ hay lạc
11


đều xả. Vì khi tinh cần thì khơng có tham dục; cũng thế khi tu xả. Ví như có
người sầu khổ vì nhiệt tình ái mộ một cơ gái, khi biết vậy bèn xả tâm luyến ái và
từ đấy đâm ra dửng dưng dù thấy nàng nói cười với bất cứ ai. Sự tinh cần chống
lại ái dục trong trường hợp ấy được gọi là tinh tấn hợp pháp. Lại nữa nếu tự thấy
lạc thọ khiến bất thiện tăng, thiện giảm, ngược lại tinh cần khiến thiện tăng, bất

thiện giảm; vị Tỳ kheo sẽ khổ hạnh vừa đủ để nhiếp phục tự ngã, như thợ làm
tên nung tên cho dễ uốn. Sự tinh cần có kết quả là như cuộc đời Phật từ khi xuất
gia đến lúc thành đạo luôn nổ lực không gián đoạn.
Cuộc đối thoại vừa dẫn trên giữa phái Ni kiền tử và đức Phật, là cuộc đối
thoại nói lên quan điểm khác biệt về nghiệp quan điểm về sự nổ lực tinh tấn tu
tập. Ở đây, chúng ta thấy, phái Ni Kiền Tử dùng tinh để tiêu diệt những ác
hạnh về thân, khẩu và ý, lý do diệt các ác hạnh trong quá khứ. Ngược lại đức
Phật cũng nổ lực tinh tấn nhưng quân bình, liên tục dựa trên sự nhiếp phục tự
ngã để đi đến con đường thắng trí tối hậu.
3. TẠI SAO NÊN VẬN DỤNG NGHIỆP CỦA PHẬT GIÁO?
Vậy nghiệp là gì? Tại sao vận dụng nghiệp của Phật giáo? Nghiệp tiếng
Sankrit là karma có nghĩa là hành động có tác ý (volitional action) của thân,
khẩu, ý. Mà tác ý chính là hoạt động của hành uẩn hay tư tâm sở (cetana).
“Cetanāhaṁ bhikkhave kammaṁ vadāmi” (này chư tỳ kheo, Như Lai nói rằng tư
tác chính là nghiệp). Tác ý có thiện, ác, phi thiện phi ác. Trọng tâm của Đạo
Phật không phải là nghiệp cũ, Đạo Phật quan tâm đến nghiệp đang làm và sẽ
làm. Quan điểm nghiệp của Phật giáo chú trọng đến đến hành động trong hiện
tại nhờ hành động tác ý tốt mà có thể chuyển hóa nghiệp từ nghiệp xấu thành
nghiệp tốt nghĩa là con người tự do trong ý chí để tác động đến cuộc sống của
mình. Tư tâm sở hay cịn gọi ý chí, ý định hay mục đích của con người mang
tính chất quyết định mà khơng do đấng siêu hình nào có thẩm quyền quyết định
thân phận của con người. Thay vào đó Phật giáo xác lập rằng con người là yếu
12


tố chủ đạo là yếu tố trung tâm trong việc hình thành nên số phận của con người.
Trong khi đó chủ trương của các Nigantha lại chú trọng vào nghiệp củ, muốn
đoạn diệt nghiệp thì họ chú trọng vào thân phạt tức khổ hạnh ép xác vì họ cho
rằng thân là nguồn tội là động cơ yếu tố quyết định tạo ra nghiệp. Chủ trương
này đi ngược lại hoàn toàn với quan điểm của Phật giáo bởi lẽ con người sinh ra

trong hiện đợi này với năm uẩn do quá khứ quyết định đẹp xấu nhưng nghiệp
mới trong hiện đời lại mang ý nghĩa quyết định chứ khơng phải hồn toàn do
nghiệp cũ quyết định.
Thuyết nghiệp của Phật giáo bác bỏ thuyết định mệnh của về nghiệp của Jain
và Đức Phật nhấn mạnh hành động của con người có tầm quan trọng, con người
có quyền lựa chọn, hành động hiện tại chứ không phải do hành động quá khứ
quyết định, không phải mọi thứ đến với con người đều là nghiệp. Kết quả của
hành động hồn tồn khơng cùng tính chất như chính hành động. Đức phật nhấn
mạnh vào điều kiện, bản chất mà hành động được tạo ra thì sẽ có kết quả hợp lý.
Đức Phật dạy: “ Nếu như một người gây ra một hành động, thực sự chịu cái quả
của hành động ấy, thì khơng có cơ hội để phát triển đời sống tâm linh, khơng có
lối thốt ác nghiệp ở đời trước.”1
Nghiệp hay khơng nghiệp chính nơi ý thức của chúng ta, nếu tâm ý không
nghĩ, khơng muốn thì hành động cũng sẽ khơng xảy ra, đạo Jain sợ tạo nghiệp,
họ xa lánh thế gian tìm nơi yên tĩnh tu tập khổ hạnh, để không gây ra các nghiệp
nhân nào. Nhưng khi sự sống của họ khơng cịn mà nghiệp thì chưa chắc gì đã
được dứt sạch. Đạo Phật có cái nhìn sâu sắc đi vào đời để cứu khổ thế gian, đi từ
bậc thấp lên bậc cao, không cố chấp, không buông lung theo trần cảnh, giữ sự
định tĩnh để không ngừng quan sát để tránh tạo nghiệp, nếu lỡ tạo nghiệp nhưng
biết hối lỗi, sám hối và khơng tạo nữa thì cũng tiêu tội.

1

Kinh Tăng Chi, tập 1, phẩm 248-52

13


KẾT BÀI
Chủ thuyết về nghiệp của Phật giáo đi ngược hẳn với Kỳ na giáo, bởi lẽ

nghiệp trong đạo Phật mang tính chất trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân, và
là tiêu chí để đánh giá một con người. Đạo Phật bác bỏ thuyết tiền định của kỳ
Na giáo rằng chủ trương do nghiệp quá khứ quyết định, họ duy trì một thế giới
quan tiêu cực, họ cho rằng tất cả các hành động, cả tốt lẫn xấu đều là nghiệp,
đều dẫn tới quả báo. Trong khi đó học thuyết nghiệp của Phật giáo chỉ rõ mối
quan hệ nhân quả dựa trên dịng trơi chảy liên tục của tri thức, tư duy (samskara)
và tác ý (cetana). Bằng cách phê phán chủ thuyết nghiệp của Kỳ Na giáo đã giúp
ta có cái nhìn đúng đắn về nghiệp thức, từ đó đặt con người vào đúng giá trị của
mình “các loại hữu tình là chủ nhân của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là
quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loại hữu tình, nghĩa là có
liệt, có ưu.”2

2

Thích Minh Châu(dịch), kinh Trung Bộ 2, 135, kinh Tiểu Nghiệp phân biệt, trang 540.

14


Tài liệu tham khảo
1. Thích Minh Châu(dịch) (2012), kinh Trung Bộ, kinh Devadaha, Nxb. Tơn
Giáo.
2. Thích Minh Châu(dịch) (2012), kinh Trung Bộ , kinh Ưu bà ly, Nxb. Tơn
Giáo.
3. Thích Minh Châu(dịch) (2012), kinh Tăng Chi Bộ, kinh Sở y xứ, Nxb. Tơn
Giáo.
4. Thích Minh Châu(dịch) (2012), kinh Trung Bộ 2, 135, kinh Tiểu Nghiệp
phân biệt, Nxb. Tơn Giáo.

5. Thích Chơn Thiện (1999), Phật Học Khái Luận, Nxb. TP. HCM.


15



×