Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

ảnh hưởng lượng men bánh mì và tỉ lệ thu hoạch lên sự phát triển của quần thể luân trùng nước ngọt (brachionus angularis)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN










NGUYỄN THÀNH ĐỨC







ẢNH HƯỞNG LƯỢNG MEN BÁNH MÌ VÀ TỈ LỆ THU
HOẠCH LÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUẦN THỂ LUÂN
TRÙNG NƯỚC NGỌT (BRACHIONUS ANGULARIS)











LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN








2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN








NGUYỄN THÀNH ĐỨC








ẢNH HƯỞNG LƯỢNG MEN BÁNH MÌ VÀ TỈ LỆ THU
HOẠCH LÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUẦN THỂ LUÂN
TRÙNG NƯỚC NGỌT (BRACHIONUS ANGULARIS)







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN






CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ths. TRẦN SƯƠNG NGỌC





2009



i
LỜI CẢM TẠ


Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm Khoa Thuỷ Sản,
Quý Thầy Cô và toàn thể cán bộ Khoa Thuỷ Sản đã tận tình giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập. Đặc biệt tôi sinh chân
thành biết ơn cô Trần Sương Ngọc, cùng các cán bộ bộ môn Thuỷ Sinh Học
Ứng Dụng, các bạn lớp Nuôi Trồng Thuỷ Sản K 31 đã tận tình hướng dẫn,
động viên và giúp đỡ để tôi hoàn thành luân văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, đặc biệt là cha mẹ
đã dành cho tôi những tình cảm, sự động viên cũng như hỗ trợ về vật chất để
tôi vượt qua khó khăn trong suốt quá trình học.
Chân thành cảm tạ Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thành Đức
ii
TÓM TẮT


Nghiên cứu được thực hiện với mục đích tìm ra lượng thức ăn (men bánh mì)
và tỉ lệ thu hoạch phù hợp để ứng dụng trong nuôi sinh khối luân trùng
Brachionus angularis. Nghiên cứu dựa trên 2 thí nghiệm: Thí nghiệm 1 nhằm
tìm ra lượng men bánh mì thích hợp cho sự phát triển của quần thể luân trùng
gồm 5 nghiệm thức NT
40
(0.0168D
t

0,415

* V*40%), NT
60
(0.0168D
t

0,415
*
V*60%), NT
80
(0.0168D
t

0,415
* V*80%), NT
100
(0.0168D
t

0,415
* V*100%),
NT
ĐC
(60.000 tế bào/luân trùng/ngày). Thí nghiệm 2 được thực hiện nhằm tìm
ra tỉ lệ thu hoạch thích hợp cho sự phát triển của luân trùng Brachionus
angularis gồm 4 nghiệm thức với các tỉ lệ thu sinh khối là 0%, 15%, 25%,
35%. Kết quả cho thấy với điều kiện nhiệt độ từ 27,9 – 29,4
0
C, pH dao động
từ 7,43 – 7,52, mật độ bố trí ban đầu là 200 ct/ml thì lượng men bánh mì cho
luân trùng ăn là 0.0168D

t
0,415
* V*80% (g/ngày) cho kết quả tốt nhất và mật
độ luân trùng đạt cực đại là 693±32 ct/ml sau 4 ngày nuôi và tỉ lệ thu
25%/ngày, quần thể luân trùng phục hồi mật độ nhanh nhất và thời gian nuôi
kéo dài 10 ngày
iii
DANH SÁCH BẢNG

Bảng 4.1:Kích thước luân trùng Brachionus angularis 19
Bảng 4.2: Biến động của các yếu tố nhiệt độ và pH 20
Bảng 4.3: Hàm lượng NH
3
qua các đợt thu mẫu (mg/L) 21
Bảng 4.4: Hàm lượng NO
2
-
qua các đợt thu mẫu (mg/l) 22
Bảng 4.5: Mật độ của luân trùng trong thí nghiệm 1 (cá thể/ml) 23
Bảng 4.6: Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) 25
Bảng 4.7: Tỉ lệ luân trùng mang trứng ở các nghiệm thức (%) 26
Bảng 4.8: Biến động của các yếu tố nhiệt độ và pH 27
Bảng 4.9: Biến động hàm lượng NH
3
giữa các nghiệm thức (mg/L) 28
Bảng 4.10: Hàm lượng NO
2
-
qua các đợt thu mẫu (mg/l) 29
Bảng 4.11: Mật độ của luân trùng trong thí nghiệm 2 (ct/ml) 30

Bảng 4.12: Tỉ lệ luân trùng mang trứng ở các nghiệm thức (%) 33
Bảng 4.10:Biến động số lượng thu (triệu cá thể/ngày) ở các nghiệm thức 35











iv
DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1: Hình thái của luân trùng Brachionus angularis 3
Hinh 2.2: Vòng đời của luân trùng 5
Hình 3.1: Bể nuôi luân trùng ở thí nghiệm 1 16
Hình 3.2: Bể nuôi luân trùng ở thí nghiệm 2 18
Hình 4.1: Biến động mật độ giữa các nghiệm thức 23
Hình 4.2: Biến động mật độ trước và sau thu hoạch của các nghiệm thức 31
Hình 4.3: Biến động số lượng thu ở các nghiệm thức 35











v
MỤC LỤC

Trang

Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Luân Trùng Brachionus angularis 3
2.1.1 Đặc Điểm Phân Loại – Hình Thái 3
2.1.2 Vòng Đời 4
2.1.3 Môi Trường Sống 5
2.1.3.1 Nhiệt độ 5
2.1.3.2 Độ mặn 6
2.1.3.3 pH 6
2.1.3.4 Oxy 6
2.1.3.5. NH
3
7
2.1.3.6 NO
2
7
2.2 Một Số Nghiên Cứu Liên Quan Đến Luân Trùng 7
2.2.1 Các Hình Thức Nuôi Luân Trùng 7
2.2.1.1. Nuôi sang, chuyển hằng ngày 7
2.2.1.2 Nuôi bán liên tục 8
2.2.1.3 Nuôi liên tục 8
2.2.1.4 Nuôi luân trùng với mật độ cao 9

2.2.2 Sự thu hoạch luân trùng 10
2.2.3 Các Loại Thức Ăn Sử Dụng Cho Luân Trùng 11
2.2.3.1 Tảo 11
2.2.3.2 Men Bánh Mì 12
2.2.4 Đánh giá khả năng phát triển của luân trùng 12
2.2.5 Một số ảnh hưởng bất lợi trong nuôi luân trùng 13
2.2.5.1 Vi khuẩn 13
2.2.5.2 Ciliates 14
Phần 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 15
3.2 Vật liệu nghiên cứu 15
3.3 Phương Pháp nghiên cứu 15
Phần 4: KẾT QỦA VÀ THẢO LUẬN 19
4.1 Kích thước của luân trùng Brachionus angularis 19
4.2 Thí nghiệm 1 (TN1): Ảnh hưởng của lượng men bánh mì lên sự phát
triển của quần thể luân trùng nước ngọt Brachionus angularis 19
vi
4.2.1 Các yếu tố môi trường 19
4.2.1.1 Nhiệt độ 19
4.2.1.2 pH 20
4.2.1.3 NH
3
21
4.2.1.4 NO
2
-
22
4.2.2 Sự phát triển của luân trùng 22
4.3 Thí Nghiệm 2: Ảnh hưởng của tỉ lệ thu hoạch lên sự phát triển của quần
thể luân trùng nước ngọt Brachionus angularis 27

4.3.1 Các yếu tố môi trường 27
4.3.1.1 pH và Nhiệt độ 27
4.3.1.2 NH
3
28
4.3.1.3 NO
2
-
29
4.3.2 Sự phát triển của luân trùng 29
4.3.3 Số lượng luân trùng 34
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 37
5.1 Kết luận 37
5.2 Đề xuất 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
PHỤ LỤC 41















1
Phần 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, theo xu hướng phát triển của thế giới thì hầu hết các ngành
nghề đều được cải thiện và phát triển. Từ y học, công nghiệp cho đến nông
nghiệp. Trong đó không thể bỏ qua sự phát triển mạnh mẽ của thuỷ sản. Chính
sự phát triển của ngành nuôi trong thuỷ sản nó đã góp phần khá quan trọng
vào nền kinh tế của nước ta. Với xu hướng phát triển như hiện nay thì nhu cầu
con giống là vấn đề cấp bách và nan giải, khâu quan trọng trong quá trình sản
xuất giống để đạt tỉ lệ sống và chất lượng con giống cao là việc cung cấp thức
ăn tươi sống phù hợp với tập tính và kích cỡ miệng của ấu trùng giáp xác và cá
con. Bên cạnh tảo, giáp xác râu ngành, Artemia, thì luân trùng cũng được xem
là thức ăn tự nhiên quan trọng. Luân trùng có đặc điểm như kích thước nhỏ,
bơi lội chậm chạp, và thường lơ lửng trong môi trường nước nhờ vậy mà ấu
trùng tôm cá dễ bắt mồi, bên cạnh đó ta có thể giàu hoá như protein, acid béo
cao phân tử không no (HUFA), vitamin…Cùng với các loài luân trùng được
nuôi ở nước lợ, ở nước ngọt cũng có nhiều loài đang được nghiên cứu để nuôi,
trong đó có loài Brachionus angularis
Brachionus angularis là loài ăn lọc thụ động có thể sử dụng nhiều loại
thức ăn để nuôi như: tảo, men bánh mì, bột đậu nành…trong đó men bánh mì
được xem là thức ăn phổ biến, giá rẽ có thể chủ động trong nuôi sinh khối luân
trùng. Tuy nhiên nuôi luân trùng bằng men bánh mì có khuynh hướng làm
giảm chất lượng nước nhanh do thức ăn dư gây ra sự bất ổn định trong bể
nuôi, do đó phải có sự cân bằng giữa mật độ luân trùng và tỉ lệ thức ăn tránh
để vật chất hữu cơ tích luỹ vượt quá giới hạn trong bể nuôi. Bên cạnh đó việc
duy trì ổn định sự phát triển của luân trùng khi thu hoạch để cho cá bột ăn vừa
có hiệu quả kinh tế vừa hạn chế được những rũi ro cho người nuôi cũng hết
sức cần thiết. Cho đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết tỉ lệ men bánh
mì và sự thu hoạch thích hợp cho luân trùng Brachionus angularis này mà chủ
yếu dựa trên luân trùng Brachionus plicatilis. Từ thực tế trên, đề tài: “ Ảnh

hưởng lượng men bánh mì và tỉ lệ thu hoạch lên sự phát triển của quần thể
luân trùng nước ngọt Brachionus angularis” được thực hiện
Mục tiêu của đề tài: Nhằm xác định tỉ lệ men bánh mì thích hợp cho
sự phát triển của luân trùng nước ngọt Brachionus angularis để giúp quá trình
nuôi đạt hiệu quả, có sản lượng luân trùng lớn làm thức ăn cho các loài cá bột.
Mặt khác, xác định tỉ lệ thu hoạch thích hợp nhằm duy trì thời gian nuôi luân
trùng với sức sản xuất cao.

2

Nội dung của đề tài:
Ảnh hưởng của lượng men bánh mì lên sự phát triển của quần thể luân
trùng nước ngọt Brachionus angularis
Ảnh hưởng của tỉ lệ thu hoạch lên sự phát triển của quần thể luân trùng
nước ngọt Brachionus angularis





















3
Phần 2:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Luân Trùng Brachionus angularis
2.1.1 Đặc Điểm Phân Loại – Hình Thái
Brachionus angularis là loài phiêu sinh động vật theo Pechenik,J.,A.
2005 có vị trí phân loại như sau:
Giới Animalia
Ngành Rotifera
Lớp Monogononta
Bộ Ploima
Họ Brachionidae
Giống Brachionus
Loài Brachionus angularis (Gosse, 1851)
Brachionus angularis có dạng hình trứng, phía sau hơi tròn hay hơi bóp
lại. Mặt vỏ nhẵn hay những mấu lồi dạng hạt và hình vỏ chia mặt vỏ thành
nhiều mãnh. Bờ bụng trước lượn song, đuôi có mấu lồi nhỏ. Bờ lưng trước có
hai gai ngắn, giữa hai gai có vết xẻ hình chữ U. Lỗ chân hình thận, nằm dịch
về phía bụng, mép có gai nhỏ, thẳng và song song với nhau hay hơi cong
(Đặng Ngọc Thanh và ctv, 1980).

Hình 2.1: Hình thái của luân trùng Brachionus angularis
4
Luân trùng Brachionus angularis là phiêu sinh động vật có kích thước
nhỏ 88 - 120 µm (Nguyễn Văn Hải, 2008), bơi lội chậm chạp, có tính lơ lửng,

thiếu cơ quan tự vệ nên là thức ăn rất tốt cho ấu trùng tôm cá, sau khi cá hết
noãn hoàn nhưng chưa có thể bắt được con mồi có kích thước lớn. Cấu tạo của
luân trùng có ba phần: đầu, thân và chân.
Đầu: có vòng tiêm mao dùng để bơi lội và gom thức ăn.
Phần thân chứa nhiều dịch cơ thể và có các cơ quan. Theo Nogady,
1993 (trích bởi Trần Sương Ngọc, 2003) thì các hệ cơ quan của luân trùng như
sau:
+ Hệ tiêu hóa: Luân trùng thu gom thức ăn nhờ vòng tiêm mao sau đó
vào trong miệng và đến hàm nghiền. Hàm nghiền sẽ nghiền các hạt thức ăn
bằng nhiều con đường khác nhau (cắt, nghiền…) rồi đi vào thực quản, dạ dày,
ruột và hậu môn.
+ Hệ bài tiết: bài tiết chủ yếu là chất thải có nguồn gốc đạm (phần lớn
là ammonia) Sự chuyển động của vòng tiêm mao ở các tế bào ngọn lửa (flame
cell) tạo nên dòng chảy đưa chất lỏng vào trong các túi và chảy vào bàng
quang sau đó được tiết ra ngoài thường xuyên và điều đặn.
+ Hệ sinh dục: Cơ quan sinh dục của con cái bao gồm ba phần: buồn
trứng, chất noãn hoàng và lớp nang. Ngay từ khi mới sinh ra, số lượng trứng
đã có sẵn trong buồng trứng.
Chân: có cấu tạo hình nhẫn không có sự phân đốt, có thể co rút và cuối
cùng là 1 hoặc 4 ngón chân
2.1.2 Vòng Đời
Vòng đời của luân trùng khoảng từ 3.4 đến 4.4 ngày ở nhiệt độ 25
0
C,
nói chung sau 0.5 đến 1.5 ngày ấu trùng bắt đầu trở thành cá thể trưởng thành.
Sau đó con cái cứ khoảng 4 giờ lại đẻ trứng một lần, các con cái có thể sinh
sản 10 thế hệ trước khi chết. Hoạt động sinh sản của Brachionus phụ thuộc
vào nhiệt độ của môi trường (Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos, 1996)
Vòng đời của luân trùng có thể được khép lại bằng 2 phương thức sinh
sản:

Sinh sản đơn tính (chủ yếu): con cái đơn tính sinh ra trứng lưỡng bội
(2n NST) và phát triển thành con cái đơn tính, chúng có tốc độ sinh sản nhanh
trong điều kiện thuận lợi. Đây là hình thức sinh sản nhanh nhất để tăng quần
thể luân trùng và là hình thức quan trọng trong hệ thống nuôi sinh khối luân
trùng.
5
Sinh sản hữu tính: khi gặp điều kiện bất lợi như biến động nhiệt độ,
thiếu thức ăn… luân trùng sẽ sinh sản hữu tính. Khi đó, trong quần thể luân
trùng sẽ xuất hiện cả con cái vô tính và hữu tính, có hình thái giống nhau khó
phân biệt. Tuy nhiên con cái hữu tính sẽ sinh ra trứng đơn bội và phát triển
theo hai hình thức:
+ Trứng đơn bội không thụ tinh sẽ phát triển thành con đực, có kích
thước bằng 1/3 con cái. Chúng không có hệ tiêu hóa và bàng quang, chỉ có
tinh hoàn chứa tinh trùng.


Hinh 2.2: Vòng đời của luân trùng
+ Trứng nghỉ (Cyst): là trứng đơn bội kết hợp với tinh trùng tạo thành.
Trứng nghỉ có vách tế bào dày, có khả năng chống chịu tốt với môi trường, khi
gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành con cái.
2.1.3 Môi Trường Sống
2.1.3.1 Nhiệt độ
Luân trùng là loài khá rộng nhiệt, khoảng nhiệt độ thích hợp từ 15 –
35
0
C. Nhiệt độ dưới 10
0
C luân trùng sẽ hình thành trứng nghỉ và quần thể sẽ
tàn lụi. Nhiệt độ cao 30 – 35
0

C tốt nhất cho sinh sản của chúng, tuy nhiên
trong môi trường nuôi nhiệt độ khuyến cáo nên duy trì từ 20 – 30
0
C (Trần Thị
Thanh Hiền và ctv, 2000). Khi nuôi luân trùng ở khoảng nhiệt độ 20 – 25
0
C sẽ
hạn chế được Ciliates (Reguera, 1984).
6
Nhiệt độ thích hợp còn tuỳ thuộc loài. Luân trùng dòng S thích nhiệt độ
cao, trong khi dòng L lại thích nhiệt độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng hằng
ngày của dòng S là 250%/ngày ở 34
0
C, dòng L đạt tăng trưởng tốt nhất là
170%/ngày ở 25
0
C (Oogani và Maeda, 1977; Oogani, 1977 trích bởi Nguyễn
Đông Truyền, 2008).
Theo Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos (1996), thì Brachionus
calyciflorus và Brachionus rubens chịu được nhiệt độ trong khoảng 15 – 31
0
C,
còn theo Nguyễn Văn Hải (2008) thì với thể tích 0,5L, mật độ đầu 200 con/ml,
nhiệt độ phù hợp cho luân trùng Brachionus angularis là 28
0
C.
2.1.3.2 Độ mặn
Luân trùng là loài rộng muối, chúng có thể chịu đựng độ mặn trong
khoảng 1 – 67%
0

. Độ mặn thích hợp nhất khoảng 10 – 35%
0
. khả năng chịu
đựng độ mặn cũng khác nhau tuỳ loài chẳng hạn như đối với luân trùng dòng
S độ mặn tốt nhất là 20%
0
và đối với luân trùng dòng L độ mặn tốt nhất là
30%
0
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2000)
Theo Trần Bình Nguyên (2008) thì luân trùng nước ngọt Brachionus
angularis phân bố (theo thuỷ vực sông) nhiều ở độ mặn 0%
0
, ở độ mặn 1%
0

vẫn có xuất hiện nhưng với mật độ không đáng kể và ở độ mặn 5%
0
thì không
có xuất hiện Brachionus angularis. Mặt khác theo Byeong Ho Kim, ctv. 2006
(trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hải, 2008) thì luân trùng Brachionus angularis sẽ
tăng trưởng trong 2- 3 ngày đầu khi tăng độ mặn 1-2%
0
/ngày và nó không tăng
trưởng khi tăng độ mặn hơn 4%
0
/ngày. Khi tăng độ mặn lên 10%
0
trong vòng
5 – 30 phút thì không còn cá thể nào phát triển cũng như sống sót

2.1.3.3 pH
Theo Trương Quốc Phú (2006), thì pH là một trong những nhân tố môi
trường có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đối với đời sống thuỷ sinh vật như:
sinh trưởng, tỉ lệ sống, sinh sản và dinh dưỡng. pH thích hợp cho thuỷ sinh vật
là 6,5 – 9. Luân trùng có thể sống ở khoảng pH rộng từ 5 – 10. Tuy nhiên thích
hợp nhất là từ 7,5 – 8,5 (Hoff và Snell, 2004). Giới hạn gây chết của pH đối
với luân trùng nước ngọt là trên 10,5 và dưới 3,5 (Mitchell and Joubert, 1986).
Theo Nguyễn Văn Hải (2008) thì với thể tích 0,5L, mật độ đầu 200 con/ml,
cho ăn bằng tảo, thì pH phù hợp cho luân trùng B. angularis là từ 7 – 8.
2.1.3.4 Oxy
Theo Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos (1996), các luân trùng có thể
sống sót trong nước chứa oxy hoà tan ở mức thấp tới 2 mg/l, theo Trần Sương
Ngọc (2003), oxy hoà tan thích hợp cho sự phát triển của luân trùng trong
7
khoảng từ 2 – 7 ppm. Mức oxy hoà tan trong nước nuôi phụ thuộc vào nhiệt
độ, độ mặn, mật độ luân trùng và kiểu thức ăn. Tuy nhiên trong điều kiện nuôi,
thức ăn và mật độ gia tăng liên tục chất lượng nước sẽ suy giảm nhanh chóng,
dẫn đến giảm oxy hoà tan, trong trường hợp này cần điều chỉnh sục khí cho
phù hợp. Không nên sục khí quá mạnh để tránh làm tổn hại đến cơ thể sinh vật
trong quần thể.
2.1.3.5 NH
3

Theo Trương Quốc Phú (2006), NH
3
trong các thuỷ vực được cung cấp
từ quá trình phân huỷ các protein, xác bã động thực vật phù du, sản phẩm bài
tiết của động vật NH
3
là yếu tố ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống, sinh trưởng đối

với thuỷ sinh vật
Theo Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos (1996), thì nồng độ NH
3
an
toàn cho luân trùng là 1 mg/l. Tuy nhiên theo M. Schliiter & J. Groeneweg
(1984) nghiên cứu ảnh hưởng của NH
3
trên luân trùng Brachionus rubens thấy
rằng loài luân trùng này có thể chịu được hàm lượng NH
3
đến 3mg/l, dưới
nồng độ 3 mg/l thì tăng trưởng của luân trùng không bị ảnh hưởng và trong
khoảng 3 – 5 mg/l tốc độ tăng trưởng của luân trùng bị giảm. Nếu nồng độ
NH
3
vượt quá 5 mg/l thì luân trùng sẽ chết sau 2 ngày và hai ông khuyến cáo
rằng trong nuôi sinh khối luân trùng nồng độ NH
3
không được vượt quá 3
mg/l.
2.1.3.6 NO
2

Hàm lượng N-NO
2
-
20ppm trong bể luân trùng B. rubens thấp hơn 50%
so với bể nuôi đối chứng. Theo Schluter và Groeneweg (1981) (trích dẫn bởi
Nguyễn Đông Truyền, 2008) với hàm lượng N-NO
2

-
từ 10 – 20 ppm không
gây độc cho luân trùng Brachionus rubens. Lubzens (1987) cho rằng ở nồng
độ 90 – 140 ppm N-NO
2
-
gây độc đối với luân trùng.
2.2 Một Số Nghiên Cứu Liên Quan Đến Luân Trùng
2.2.1 Các Hình Thức Nuôi Luân Trùng
2.2.1.1 Nuôi sang, chuyển hằng ngày:
Luân trùng được nuôi trong bể tảo Chlorella, sau khi tảo bị luân trùng
ăn hết, nước trở nên trong và chuyển luân trùng sang bể khác. Thể tích nuôi
thường 1 – 5 m
3
, đôi khi đến 150 m
3
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2000). Đây
là phương pháp nuôi quảng canh, cần nhiều thể tích bể nhưng không sử dụng
hết, mất nhiều ngày để thu hoạch một bể, nước nuôi được loại bỏ, dụng cụ
nuôi được tiệt trùng và sau đó luân trùng được thả lặp lại và sinh trưởng trong
một thời gian ngắn trước khi thu hoạch toàn bộ. So với phương pháp khác thì
8
đây là phương pháp ít rủi ro, kỹ thuật nuôi đơn giản, nhưng không có hiệu quả
cao, hao phí nhân công, thời gian, dụng cụ và phương tiện lao động (Trotta,
1980; Fushimi, 1989 trích dẫn bởi Dương Thị Hoàng Oanh, 2005)
2.2.1.2 Nuôi bán liên tục
Bể nuôi luân trùng khi đạt mật độ cao thì được thu hoạch một phần, sau
đó thêm tảo và thức ăn vào để nuôi tiếp. Khi mật độ luân trùng cao lại thu
hoạch, và cứ như thế tiếp tục. Phương pháp này có thể có trở ngại là sau một
vài đợt nuôi, bể sẽ bị ô nhiễm. Thể tích nuôi thường từ 200 – 2000 lít, đôi khi

200 m
3
. (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2000)
Ở kỹ thuật nuôi này luân trùng được giữ trong bể 5 ngày. Trong suốt 2
ngày đầu, thể tích nước được bổ sung gấp đôi cho mỗi ngày để pha loãng mật
độ luân trùng ra phân nữa. Trong suốt những ngày tiếp theo, thu hoạch phân
nữa bể và tiếp tục đổ đầy nước lần nữa để giảm mật độ luân trùng xuống phân
nữa. Ở ngày thứ 5 thì thu hoạch toàn bộ.
Theo Lubzens (1987), nuôi liên tục là nuôi luân trùng với mật độ cao
trong hệ thống bể có thể tích nhỏ từ vài chục lít tới 200 m
3
. Vì vậy trong hệ
thống nuôi, các sản phẩm thải, thức ăn dư thừa tích tụ làm chất lượng môi
trường nước nuôi kém. Đây là nguyên nhân gây ra tính rủi ro cao hơn so với
phương pháp nuôi mẻ. Trong nuôi luân trùng mật độ cao, một số lớn vật chất
hữu cơ lắng tụ dễ làm nước mau xấu đi, thu luân trùng 1 phần để giảm ô
nhiễm. Theo Girin và Devauchele (1974) đã lấy 25% thể tích nước mỗi ngày
và thay bằng nước mới. Mật độ cấy luân trùng từ 50 – 200 luân trùng/ml thì
mật độ thu hoạch có thể đạt từ 300 đến trên 1000 luân trùng/ml trong 3 đến 7
ngày nuôi, nguồn thức ăn sử dụng là vi tảo và men bánh mì.
2.2.1.3 Nuôi liên tục
Dụng cụ nuôi có dạng bình Chemostat, thể tích 200 – 1000 lít. tảo được
cho vào bể liên tục và luân trùng được thu liên tục. Năng suất luân trùng trung
bình 180 – 300 triệu con/m
3
/ngày (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2000). Nuôi
sinh khối luân trùng theo phương pháp liên tục có quy mô nhỏ hơn nuôi theo
mẻ nhưng quản lý thâm canh hơn. Đây là phương pháp hiệu quả nhất để sản
xuất ra luân trùng có chất lượng cao. Vì vậy máy móc trong mô hình nuôi
được duy trì ở những điều kiện được xác định hết sức nghiêm ngặt. Mô hình

này luôn khép kín và thực hiện trong phòng, nên quy mô nhỏ và chi phí cao.
Thuận lợi cơ bản của phương pháp này là kiểm soát chặt chẽ chất vẩn
và chất lượng nước, kiểm soát sức sản xuất của luân trùng hằng ngày, tốn ít
nước, ít tảo và tiết kiệm nhân công. Trong phương pháp này luân trùng được
9
cho ăn bằng tảo và men bánh mì, chúng được cung cấp liên tục và theo một tỉ
lệ xác định trước. Bể nuôi được pha loãng mỗi ngày bằng một thể tích nước
nhất định, đồng thời thu hoạch luân trùng theo thể tích nước này mỗi ngày
2.2.1.4 Nuôi luân trùng với mật độ cao
Tuỳ theo loài luân trùng, điều kiện nuôi mà mật độ khác nhau, mật độ
nuôi được chia thành: nuôi mật độ thấp (10 – 300 cá thể/ml), nuôi mật độ cao
(700 – 2000 cá thể/ml), nuôi mật độ siêu cao (2.000 – 15.000 cá thể/ml). Theo
trang www.reed-mariculture.com/rotifer/recipe.aspaticeco.com/1-800-422-
3939 (03/04/2009).
Mặt dầu nuôi luân trùng với mật độ cao làm tăng nguy cơ môi trường
nuôi xấu hơn và làm giảm tốc độ sinh trưởng do bắt đầu sinh sản hữu tính,
nhưng đã thu được kêt quả hứa hẹn trong điều kiện nuôi có kiểm soát. Hệ
thống nuôi luân trùng mật độ cao gồm một bể 1m
3
nuôi theo chế độ bán liên
tục, thu hoạch 2 ngày/lần. Luân trùng Brachionus rotundiformis được thả với
mật độ 10000 – 25000ct/ml trong hai ngày ở nhiệt độ 25
0
C và độ mặn 25-
30‰. Việc nuôi ở mật độ quá cao này có thể thực hiện được vì tảo Chlorella
cô đặc có thể cung cấp đầy đủ thức ăn cho luân trùng nhưng ít suy giảm chất
lượng nước nuôi. Tảo Chlorella được cô đặc với mật độ khoảng 15 tỉ tb/ml và
được bơm liên tục để cung cấp thức ăn cho luân trùng.
Kỹ thuật nuôi luân trùng nước mặn ở mật độ cao cũng được áp dụng
cho nuôi luân trùng nước ngọt Brachionus calyciforus. Sử dụng mẻ nuôi 5L ở

28
0
C cung cấp oxy và cho ăn bằng tảo Chlorella cô đặc, với mật độ luân trùng
là 17.000 – 19.000 luân trùng/ml ở pH = 7, luân trùng thu hoạch là 33.500
con/ml (theo Park et al. 2001) (trích dẫn bởi Dương Thị Hoàng Oanh, 2005).
Theo Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos (1996), nuôi luân trùng với
mật độ thả cao có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ trứng, tỷ lệ trứng giảm từ mức
trung bình 30% ở mật độ 150 luân trùng/ml xuống còn 10% ở mật độ 2000
luân trùng/ml và dưới 5% ở mật độ 5000 luân trùng/ml
Lubzens (1987) khi nuôi luân trùng mật độ cao ở hình thức nuôi bán
liên tục ở các bể có thể tích nhỏ từ vài chục lít đến 200 m
3
thì các sản phẩm
thải, thức ăn dư thừa và các chất bẩn làm chất lượng nước nuôi kém nó làm
cho hệ thống nuôi này không an toàn. Khi mật độ luân trùng vượt quá 1000
ct/ml, chất thải của luân trùng ngày càng nhiều tích tụ ở bể nuôi, gây ra nhiều
chất vẩn hữu cơ lơ lủng trong nước. Để khắc phục nhược điểm này Yoshimura
et al, (1997) sử dụng vải lót bằng nilon treo vào bể nuôi luân trùng để nhận
những chất lơ lững này hằng ngày rửa sạch vải nilon để loại bỏ chất vẩn, ngăn
10
protozoa kí sinh nhằm ổn định quần thể luân trùng (trích từ Dương Thị Hoàng
Oanh, 2005)
Khi mật độ luân trùng cao thì cần nhiều oxy cho quá trình hô hấp của
chúng, do đó ta cần cung cấp oxy cho luân trùng. Theo Hoàng Hiệp Nhất
(2007) khi nuôi luân trùng Brachionus rotundiformis dòng ss với các mật độ
nuôi là 200, 300, 400 và 500 cá thể/ml thì kết quả cho thấy nghiệm thức nuôi
với mật độ 200 và 300 cá thể/ml cho tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất sau 6
ngày nuôi.
2.2.2 Sự Thu Hoạch Luân Trùng
Theo Trần Sương Ngọc (2003) nghiên cứu nuôi luân trùng trong hệ

thống nước xanh, hệ thống có thể tự hoạt động với nguồn thức ăn là tảo từ bể
các rô phi mà không cần cho luân trùng ăn thêm thức ăn khác. Mật độ luân
trùng duy trì ở mức 700 cá thể/ml, lượng tảo cung cấp liên tục với mật độ
100.000 tế bào/luân trùng/ngày. Năng suất luân trùng thu hoạch 45.360 luân
trùng/100L/ngày năng suất đạt 64,8% so với mật độ luân trùng duy trì, nghiên
cứu kéo dài trong một tuần. Ở hướng nghiên cứu khác, nghiên cứu trên hệ
thống nước xanh nhưng có sử dụng thức ăn chế biến là men bánh mì, năng
suất luân trùng thu hoạch đạt 445 cá thể/ml chiếm 21,2% quần thể luân trùng
duy trì, thời gian nuôi kéo dài 30 ngày. Mật độ luân trùng duy trì là 2000 cá
thể/ml, tỉ lệ bổ sung tảo 5% nhu cầu sử dụng tảo và men bánh mì chiếm 90%
Từ 2 nghiên cứu trên cho thấy năng suất thu hoạch luân trùng đạt cao
nhất ở nghiên cứu chỉ sử dụng thức ăn từ tảo chiếm 64,8%, nhưng thời gian
nuôi ngắn không thể đáp ứng nhu cầu sản xuất. Nghiên cứu sử dụng thức ăn
chế biến từ men bánh mì với tỉ lệ giữa tảo và men bánh mì là 50% tảo – 90%
men bánh mì cho năng suất thu hoạch thấp hơn nhưng thời gian nuôi kéo dài
hơn. Từ đó cho thấy việc cung cấp thêm thức ăn chế biến góp phần kéo dài
thời gian duy trì trong hệ thống tuần hoàn kết hợp.
Trích dẫn bởi Trần Sương Ngọc (2003) thì trong hệ thống nuôi luân
trùng Brachionus rotundiformis (bể 100L) của Fu (1997) với mật độ luân
trùng ban đầu là 3.800 con/ml và với tỉ lệ thu hoạch 60 – 70%/ngày có thể duy
trì mật độ 5.000 con/ml trong suốt thời gian nuôi là 38 ngày với mật độ
Chlorella cho ăn trong bể nuôi là 8.10
5
tb/ml .Năng suất thu hoạch hằng ngày
là 0,28 tỉ luân trùng/10lít/ngày. Ở một nghiên cứu khác, thể tích nuôi là 25 lít,
mật độ ban đầu là 500 cá thể/ml, thức ăn là men bánh mì 0,4g/1 triệu luân
trùng/ngày thì tỉ lệ thu hoạch hằng ngày là 20% quần thể luân trùng phục hồi
nhanh nhất, thời gian nuôi duy trì được 17 ngày, khi nuôi ứng dụng ở các bể
500 lít với mật độ, thức ăn và tỉ lệ thu hoạch như trên thì mật độ luân trùng thu
11

được hằng ngày là 67,9 triệu luân trùng, thời gian nuôi kéo dài được 15 ngày
(Nguyễn Đông Truyền, 2008)
2.2.3 Các Loại Thức Ăn Sử Dụng Cho Luân Trùng
Thức ăn của luân trùng gồm nhiều loại khác nhau như tảo, vi khuẩn,
nấm men và những hạt mãnh nhỏ. Trong các loại thức ăn đó thì tảo Chlorella
và men bánh mì được xem là thức ăn tốt nhất
2.2.3.1 Tảo
Theo trích dẫn của Trần Sương Ngọc (2003), Chlorella là một trong
những loài được phân lập đầu tiên từ năm 1890. Chlorella phân bố tự nhiên
trong cả nước ngọt và nước lợ. Chúng có thể phát triển trong những điều kiện
môi trường khác nhau ngay cả trên đất hoặc trên tường ẩm ướt. Chlorella là
giống tảo có giá trị dinh dưỡng cao thường sử dụng làm thực phẩm cho con
người và trong nghề nuôi thuỷ sản lẫn trong chăn nuôi
Tảo Chlorella là thức ăn rất tốt cho luân trùng do chúng có hàm lượng
dinh dưỡng cao chứa 20 – 30 % glucid với rất ít lượng gian bào không tiêu hoá
được. Lượng lipid của tảo thay đổi từ 10 – 20% với đa số các acid béo không
no. Chlorella có chứa hầu hết các vitamin A, B1, B2, B6, B12, C, D, K, acid
nicotinic, acid pantotenic…Hàm lượng đạm khoảng 50% và chứa hầu hết các
acid amin thiết yếu như Lysine, Methionine, Tryptophan, Arginine,
Histidine…( Trần Văn Vỹ, 1982 ). Hơn nữa Chlorella còn sản sinh ra chất
kháng sinh Chlorellin chống lại một số vi khuẩn do đó giúp hạn chế được một
số mầm bệnh. Với các đặc tính nêu trên nên Chlorella là thức ăn lý tưởng cho
luân trùng
Theo Trương Sĩ Kỳ (2004), ưu điểm của việc sử dụng tảo làm thức ăn
cho luân trùng là năng suất cao, dễ quản lý môi trường trong khi sử dụng các
loại thức ăn nhân tạo mặc dầu dễ dàng chủ động được nguồn thức ăn nhưng
năng suất không cao, khó quản lý môi trường, dễ nhiễm tạp
Thức ăn cho luân trùng bao gồm các loại tảo, quan trọng nhất là
Chlorella, Tetraselmis, Chlamidomonas, Dunadiela, Nanochloropsis,
Phaeodactilum, Nitszchia…Những loài tảo chứa nhiều HUFA như Chlorella,

Nannochloropsis là rất quan trọng để làm thức ăn cho luân trùng mà điều đó sẽ
tác dụng tốt cho tôm cá nuôi. Có thể dùng tảo thuần hay tảo hỗn hợp. Mật độ
tảo cho luân trùng ăn đảm bảo 0.5 – 1.5 triệu tb/ml. Mỗi luân trùng có thể ăn
100000 – 150000 tế bào tảo mỗi ngày ( Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2000)
Tảo cho luân trùng ăn cần có chất lượng dinh dưỡng tốt, khả năng sinh
trưởng và tự phục hồi cao, không gây ô nhiễm cho môi trường nuôi.Lượng tảo
12
cho vào càng nhiều thì càng tốt bởi vì nó không chỉ làm thức ăn cho luân trùng
mà còn có tác dụng cải thiện chất lượng môi trường nước nuôi và nhân tố vi
khuẩn gây bệnh (Dhert, 1996). Theo Nagata (1992) khi nghiên cứu về ảnh của
men và các loài tảo khác nhau đến sự phát triển của luân trùng thì ông thấy tốc
độ tăng trưởng và sức sinh sản trung bình của luân trùng cao nhất khi cho ăn
Chlorella kế đó là tảo Isochrysis, Tetraselmis, Suecica, men bánh mì
(Saccharomices cereviciae) và cuối cùng là Thalassiosira pseudonana
2.2.3.2 Men Bánh Mì
Men bành mì là những tế bào nấm men có kích thước 5 – 7 µm có hàm
lượng protein cao (45 – 52 %) và rẻ tìên là thức ăn chấp nhận được đối với
Brachionus. Tuy nhiên nếu chỉ cho ăn hoàn toàn bằng men bánh mì thì năng
suất không ổn định, có những thành công rất khác nhau và quần thể luân trùng
mau tàn ( Hirayama, 1987; Komis, 1992 trích bởi Nguyễn Văn Hạnh, 2005).
Nguyên nhân chủ yếu là do khó quản lý chất lượng nước nuôi, hơn nữa luân
trùng sản xuất được lại có chất lượng kém, vì bản thân men bánh mì có dinh
dưỡng kém. Đối với men bánh mì sống cho luân trùng ăn với hàm lượng từ 1 –
3g/10 triệu luân trùng, còn đối với men khô 0,3 – 0,9g/10 triệu luân trùng. Đối
với luân trùng Brachionus plicatilis là 1g/1triệu luân trùng/ngày, tuy nhiên
lượng thức ăn này còn tuỳ thuộc vào kích thước của luân trùng và nhiệt độ
nước (Fulks. W và Main, L.K,1991). Cho ăn bằng men tươi thì tốt hơn men
khô nhưng khó quản lý chất lượng nước và sự phát triển của vi khuẩn trong
các hệ thống nuôi liên tục. Khi cho ăn bằng men bánh mì rất khó giải quyết
vấn đề cho ăn dư thừa, điều này dể nhận biết do thành bể nuôi có độ nhớt cao,

nước có mùi hôi và thức ăn dư đóng thành cục trôi nổi trong nước (Trích từ
Dương Thị Hoàng Oanh, 2005)
Ngoài ra, men bánh mì là loại thức ăn rất tiện lợi cho nuôi sinh khối
luân trùng, nhất là khi tảo nuôi gặp nhiều khó khăn. Men bánh mì có hàm
lượng đạm cao nhưng không có nhiều HUFA cần thiết cho ấu trùng tôm cá. Vì
thế luân trùng được nuôi bằng men bánh mì, sau khi thu hoạch và trước khi sử
dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm cá cần được giàu hoá dinh dưỡng, đặc biệt
là HUFA. Luân trùng có thể được giàu hoá bằng tảo sống hoặc giàu hoá bằng
nhũ tương với acid béo omega-3 trước khi cho ấu trùng tôm cá ăn (Dương Thị
Hoàng Oanh, 2005). Tuy nhiên khi nuôi luân trùng bằng men bánh mì, luân
trùng có kích thước lớn hơn khi nuôi bằng tảo (Dhert, 1996).
2.2.4 Đánh giá khả năng phát triển của luân trùng
Snell et al, (1987) đưa ra 2 phương pháp quan trọng để đánh giá tình
trạng sinh lí của luân trùng nuôi sinh khối.
13
Đầu tiên là hoạt động bơi lội, được xác định bằng cách cho luân trùng
bơi trên một lưới có diện tích 1 mm
2
. Hoạt động bơi giảm chứng tỏ luân trùng
yếu, nguyên nhân là do nồng độ NH
3
tăng cao và khi luân trùng bị đói, đặc
biệt khi nhiệt độ của nước lên cao hoặc xuống thấp, trong trường hợp này nên
thay nước hoặc kiểm tra hàm lượng amonia trong bể nuôi, vì đây là nhân tố
giới hạn khả năng sinh sản của luân trùng và là nguyên nhân gây mất ổn định
trong bể nuôi (Yu et al. 1986)
Phương pháp thứ 2 là dựa vào tỉ lệ mang trứng. Hệ số mang trứng dự
đoán tình trạng bể nuôi trong 24h. Hệ số trứng phụ thuộc vào chất lượng thức
ăn, ngoài ra còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như nhiệt độ, oxy, độ mặn, pH và
chỉ số amonia, bất kì sự thay đổi nào ra khỏi khoảng thích hợp của những yếu

tố này đều dẫn đến làm giảm hệ số trứng. Hệ số trứng đặc trưng cho loài. Đối
với luân trùng Brachionus plicatilis hệ số trứng thấp hơn 13% là dấu hiệu cho
sự bất lợi của môi trường đối với chúng và có thể quần thể sẽ tàn lụi trong
tương lai (Snell et al,1987)
2.2.5 Một số ảnh hưởng bất lợi trong nuôi luân trùng
Trong nuôi sinh khối luân trùng, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng của quần thể. Trong số những nhân tố đó thì có nhân tố sinh học
như sự nhiễm những sinh vật khác trong bể nuôi luân trùng: Copepods, vi
khuẩn, Ciliates…thường cùng tồn tại trong bể nuôi, những sinh vật này không
đóng góp vào sự gia tăng quần thể luân trùng
2.2.5.1 Vi khuẩn
Pseudomonas và Acinetobacter là những vi khuẩn cơ hội phổ biến, nó
có lẻ là nguồn thức ăn bổ sung quan trọng cho các luân trùng, như
Pseudomonas có khả năng tổng hợp vitamin B12, mà vitamin này có thể là
yếu tố giới hạn trong các điều kiện nuôi (Patrick Lavens & Patrick Sorgeloos,
1996). Nhưng cũng có một vài loài vi khuẩn khác có khả năng kìm hãm sự
phát triển của luân trùng như vi khuẩn Flavobacteria, Vibrio alginolyticus
(Dhert, 1996). Sự có mặt của các vi khuẩn có lợi trong nuôi luân trùng sẽ át
chế sự phát triển của các vi khuẩn có hại, từ đó tạo điều kiện tốt cho luân trùng
phát triển.
Một số dòng vi khuẩn có tác dụng kích thích sự tiêu hoá, hoặc kích
thích sự sinh trưởng của luân trùng khi cho chúng ăn (Nguyễn Thị Tú Anh,
2004). Bên cạnh đó, các dòng vi khuẩn có lợi không những ảnh hưởng lên
luân trùng, mà đối với tảo cũng phát triển tốt khi bổ sung vào hệ thống, thông
qua việc phân huỷ xác tảo chết tạo thành các dạng amon (NH
3
, NH
4
+
) cung

cấp nguồn dinh dưỡng cho tảo hấp thu. Một số vi khuẩn có lợi cho tảo nhưng
14
không có lợi cho luân trùng, do chúng tạo ra nhiều NH
3
sẽ ức chế sự phát triển
của luân trùng
Mặc dầu hầu hết các vi khuẩn đều không gây bệnh cho các luân trùng
nhưng cần tránh chúng sinh sôi nảy nở vì khi chúng tích tụ lại và truyền qua
chuỗi thức ăn gây ra những ảnh hưởng có hại đến tôm, cá nuôi.
2.2.5.2 Ciliates
Theo trích dẫn của Hoàng Hiệp Nhất (2007) thì một số loài tiêm mao
trùng (ciliate), protozoa,…như: Uronema sp có kích thước là 30 µm và
Euplotes sp có kich thước là 50 µm, đây là những loài thường xuyên gặp
trong nuôi sinh khối luân trùng, chúng cạnh tranh thức ăn và oxy với luân
trùng. Quần thể trùng tiêm mao xuất hiện trong những trường hợp sử dụng
men bánh mì làm thức ăn cho luân trùng. Qúa trình trao đổi chất của chúng
làm tăng mức NO
2
-
, giảm pH. Tuy nhiên chúng cũng có vai trò lọc sạch vi
khuẩn và chất vẩn. (Dhert, 1996). Euplotes sp chịu được biến động nhiệt độ
thấp trong khoảng từ 20,2 đến 21,2
0
C (Hill et al, 1986)
Khi đưa luân trùng bị nhiễm Ciliate vào hệ thống ương ấu trùng thuỷ
sản sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất giống như: ấu trùng chậm
phát triển, chất lượng ấu trùng kém đồng thời làm bể ương ấu trùng bị tàn dẫn
đến pH bị thay đổi gây ảnh hưởng không tốt đến ấu trùng (Patrick Lavens &
Patrick Sorgeloos, 1996)
Để hạn chế nhiễm nguyên sinh động vật trong bể nuôi thì ta cần rửa

sạch dụng cụ trước khi sử dụng nuôi luân trùng, cũng có thể dùng phương
pháp lọc và rửa luân trùng bằng lưới lọc có mắt lưới 50 µm để có thể lọc bớt
số lượng ciliates và các loài có kích thước nhỏ gây hại khác (Nguyễn Tuấn
Khương, 2008).








15
Phần 3:
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 02 năm 2008 đến tháng 06 năm 2008,
được tiến hành tại Phòng nuôi thức ăn tự nhiên, khoa Thuỷ Sản, trường Đại
Học Cần Thơ
3.2 Vật liệu nghiên cứu
Hệ thống bể thí nghiệm bằng composite có thể tích 1L và 30L
Dụng cụ thi nghiệm: kính hiểm vi, kính lúp, dụng cụ đếm luân trùng,
buồng điếm tảo Bucker, pipette tự động, cân điện tử, heater điều chỉnh nhiệt
độ, máy đo pH…
Các hoá chất: dd lugol, Natri Thiosulfate (Na
2
S
2
O
3

), KI, Javen và các
chất cố định khác…
Nguồn nước: nước ngọt cung cấp từ nhà máy nước Cần Thơ đã được
xử lý bằng Javen với nồng độ 50ppm và trung hòa bằng Natri Thiosulfate
(Na
2
S
2
O
3
) với thuốc thử là KI.
Thức ăn cho luân trùng là tảo Chlorella cô đặc và men bánh mì
Luân trùng Brachionus angularis
3.3 Phương Pháp nghiên cứu
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của lượng men bánh mì lên sự phát triển
của quần thể luân trùng nước ngọt Brachionus angularis
Thí nghiệm được thực hiện trong phòng điều hoà ở nhiệt độ 28
0
C. Luân
trùng được nuôi trong các chay hình nón có thể tích 0,8 L với mật độ thả luân
trùng ban đầu 200 ct/ml (Nguyễn Tuấn Khương, 2008). Luân trùng được cho
ăn bằng tảo cô đặc và men bánh mì, lượng men bánh mì được tính theo công
thức do Lavens et al. (1994) đề nghị: m(g) = 0.0168Dt
0,415
* V (1)
m: lượng men bánh mì cho bể luân trùng trong một ngày (g)
Dt: Mật độ luân trùng tại thời điểm t (ct/mL).
V: Thể tích bể nuôi (L).
Men bánh mì được xay trong máy sinh tố với tỉ lệ 50g/lít nước và bảo
quản trong tủ lạnh ở 4

0
C, thức ăn được cho ăn 8 lần/ngày
16
Thí nghiêm bố trí trên 15 chay hình nón (0,8 L) với 5 nghiệm thức, mỗi
nghiệm thức lặp lại 3 lần, bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
Nghiệm thức 1 (NT
100
): Lượng men bánh mì cho ăn: (1)*100% (g/ngày)
Nghiệm thức 2 (NT
80
): Lượng men bánh mì cho ăn: (1) * 80% (g/ngày)
Nghiệm thức 3 (NT
60
): Lượng men bánh mì cho ăn: (1) * 60% (g/ngày)
Nghiệm thức 4 (NT
40
): Lượng men bánh mì cho ăn: (1) * 40% (g/ngày)
Nghiệm thức 5 (NT
ĐC
): Lượng tảo cho ăn là 60.000 tb/con/ngày (Đối
chứng)

Hình 3.1: Bể nuôi luân trùng ở thí nghiệm 1
Thay nước 25%/ngày, dùng lưới 30 µm ngăn không cho luân trùng vào
trong lưới, xi-phông nước trong lưới ra 30% (lượng nước này được đưa vào
chai nhựa 110 ml dùng để phân tích N – NH
4
+
và N – NO
2

-
), sau đó cấp nước
mới vào bể nuôi để đảm bảo thể tích 800 ml.
Các yếu tố theo dõi:
Chỉ tiêu thuỷ lý
+ Nhiệt độ: đo 2 lần/ngày vào lúc 8h và 14h bằng nhiệt kế.
+ pH: đo 1 lần/ngày vào lúc 8h bằng máy đo pH (water proof pH
scan 2 tester)
Chỉ tiêu thuỷ hoá: được thu vào 3 ngày/lần lúc 10h và phân tích tại
phòng Kỹ thuật phân tích chất lượng nước, Bộ môn Thủy Sinh học Ứng dụng,
khoa Thủy Sản. Mẫu được trữ lạnh ở điều kiện 4
0
C.
+ N-NO
2
-
: Phân tích theo phương pháp Diazonium
+ N-NH
4
+
: Phân tích theo phương pháp Indo – phenol blue.
Chỉ tiêu sinh học
17
+ Kích thước luân trùng: Đo chiều dài (không tính gai đầu và gai
đuôi) và chiều rộng (tại vị trí mà kích thước lớn nhất) bằng kính hiển vi vật
kính 10. (đo ngày đầu tiên và ngày cuối cùng)
+ Mật độ luân trùng: được xác định hàng ngày bằng cách sử dụng
micropipette 100 µl. Mẫu thu vào mỗi buổi sáng với 3 lần lặp lại. Mẫu được
cố định và nhuộm màu bằng Lugol và đếm dưới kính lúp, không đếm những
con không bắt màu Lugol (đã chết).

+ Tỉ lệ luân trùng mang trứng:


+ Tốc độ tăng trưởng đặc biệt: (Suantika, 2000)
µ =
t
NN
t
)ln(ln
0


Trong đó:
µ: Tốc độ phát triển của luân trùng
t
N : Mật độ luân trùng tại thời gian t (cá thể/ml)
0
N
: Mật độ luân trùng ban đầu (cá thể/ml)
t: Thời gian nuôi (ngày)
Thí nghiệm được dừng lại khi mật độ luân trùng giảm trong 3 ngày liên
tiếp, và sẽ lấy tỉ lệ thức ăn của nghiệm thức có mật độ luân trùng cao nhất để
bố trí thí nghiệm sau.
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của tỉ lệ thu hoạch lên sự phát triển của
quần thể luân trùng nước ngọt Brachionus angularis
Thí nghiệm được thực hiện ở ngoài trời. Luân trùng được nuôi trong
các bể composite có thể tích 30 L với mật độ thả luân trùng ban đầu 200 ct/ml
(Nguyễn Tuấn Khương, 2007). Cho ăn hoàn toàn bằng men bánh mì với tỉ lệ
men bánh mì tốt nhất được thực hiện ở thí nghiệm 1 và cho ăn 8 lần/ngày
Thí nghiêm bố trí trên 12 bể composite ( 30L) với 4 nghiệm thức, mỗi

nghiệm thức lập lại 3 lần, bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
Nghiệm thức 1 (NT
0
): tỉ lệ thu hoạch 0%/ngày
Nghiệm thức 2 (NT
15
): tỉ lệ thu hoạch 15%/ngày
Nghiệm thức 3 (NT
25
): tỉ lệ thu hoạch 25%/ngày
Re = x 100 (%)
số con cái mang trứng
Tổng số luân trùng

×