Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Phân tích quan điểm của triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.4 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ BÀI
Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá
việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh
viên hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên : Phạm Duy Tuấn
Mã sinh viên : 11216082
Lớp học phần : LLNL1105(221)_38
Hà Nội – 2022

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

ĐỀ BÀI
Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối
quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay.


Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên : Phạm Duy Tuấn
Mã sinh viên : 11216082
Lớp học phần : LLNL1105(221)_38

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................ 4
NỘI DUNG CHÍNH...................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC.................................................................................................... 5
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức...................................................... 5
1.1.1. Quan điểm về vật chất............................................................... 5
1.1.2. Quan điểm về ý thức..................................................................7
1.2. Quan điểm Triết học Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức...........................................................................................9
1.2.1. Vật chất quyết định ý thức.........................................................9
1.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất.....11
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận chung...................................................12
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG THỰC TIỄN
ĐỜI SỐNG SINH VIÊN HIỆN NAY................................................................13
2.1. Liên hệ việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong đời sống sinh viên hiện nay....................................................... 13
2.2. Đánh giá việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong đời sống sinh viên hiện nay....................................................... 17
KẾT LUẬN.................................................................................................. 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................21


LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta thấy triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống
các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con
người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, của chủ
nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và của triết học Mác – Lênin nói chung là sự
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của
hiện thực khách quan. Trong Triết học Mác - Lênin có đề cập đến quan niệm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ đó
thì vật chất giữ vai trị quyết định đối với ý thức. Tiếp đến, trong thực tiễn đời
sống sinh viên hiện nay thì khi sinh viên vận dụng một cách hiệu quả mối quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ giúp cho bản thân mỗi người có thêm
nhiều kiến thức, sự hiểu biết đa dạng, phẩm chất tốt, có định hướng nghề nghiệp
hiệu quả, lựa chọn ngành học một cách hợp lý từ đó hồn thiện bản thân hơn
nữa khiến bản thân trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Từ quá
trình học tập, mỗi người sẽ áp dụng được những kiến thức lý thuyết vào trong
hoạt động thực tiễn cuộc sống, cống hiến sức lực, tư duy của bản thân khiến cho
đất nước ngày càng giàu mạnh và phát triển. Xuất phát từ ý nghĩa và mục đích
như trên, là cơ sở để em chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của triết học Mác Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá
việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay
(trong lựa chọn ngành học, định hướng nghề nghiệp của bản thân; trong
tình bạn, tình yêu…)”.


NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức
1.1.1. Quan điểm về vật chất
Các quan niệm về vật chất của các nhà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trước Mác đều mắc phải những sai lầm và hạn chế nhất định như mang
tính trực quan siêu hình máy móc. Lênin đã dựa vào những thành tựu của khoa
học đầu thế kỉ XX và kế thừa những giá trị triết học duy vật trong quá khứ đã
nêu ra một định nghĩa đúng, bao quát được những đặc trưng cơ bản nhất của vật
chất - một định nghĩa mà cho tới nay các nhà khoa học hiện đại vẫn thừa nhận:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thực tại khách quan được đem
lại cho con ngứời trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Từ khái niệm đó mà ta có thể
khái quát những nội dung cơ bản của vật chất như sau:
Cần phân biệt vật chất là một phạm trù triết học với bản chất của sự vật hiện
tượng cụ thể của thế giới vật chất. Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất
không phải là sự sáng tạo tuỳ tiện của tư duy con người, mà trái lại, là kết quả
của sự khái quát, trừu tượng hoá, những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có
của sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, cái vơ tận, khơng sinh ra,
khơng mất đi. Từ đó mà trong q trình xem xét ta cần tránh sự nhận định vật
chất với bản chất của các sự vật hiện tương luôn có sự phát sinh, phát triển, thay
đổi là một.
“Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại bên ngồi ý thức và
khơng lệ thuộc vào ý thức”1. Tính trừu tượng của vật chất bắt nguồn từ hiện thực
khác quan, do đó mà nó tồn tại ngồi ý thức của con người và không tách rời
khỏi hiện thực cụ thể của nó, nó chính là những gì tồn tại xung quanh con người.
1

PGS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ tịch Hội đồng), 2021, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia Sự thật, trang 128.


Sự đối lập giữa vật chất và ý thức tồn tại ở sự tuyệt đối, nếu tuyệt đối hố tính
trừu tượng của vật chất, thì theo đó vật chất cũng biến mất và rơi vào quan điểm
duy tâm, nhưng nếu tuyệt đối hố tính hiện thực, cụ thể của vật chất, nó sẽ trở
thành vật thể. Từ đó ta có thể nhận thấy được, mọi sự vật, hiện tượng từ nhỏ
nhất đến cái lớn nhất, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất, dù là sản phẩm của tự
nhiên hay xã hội, đều tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của con người,
đều thuộc phạm trù vật chất và đều là các dạng cụ thể của vật chất.
“Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào giác quan của con người thì
đem lại cho con người cảm giác”2. Trái với những quan điểm duy tâm về sự tồn
tại của vật chất, quan điểm của triết học Mác - Lênin cho rằng vật chất chính là
hiện thực khách quan, từ đó mà khẳng định sự tồn tại của vật chất, thông qua sự
lệ thuộc của ý thức vào vật chất, sự phụ thuộc đó chính là do sự tác động trực
tiếp của vật chất đến các giác quan của con người. Tuy không phải tất cả các vật
chất đều có thể tác động được đến những giác quan đó, những thơng qua các
thiết bị khoa học kỹ thuật do chính con người tạo ra mà ta có thể nhận thức được
những cảm giác mà vật chất mang lại. Chỉ cần nó là những thứ khách quan, tồn
tại độc lập với ý thức con người thì nó vẫn là vật chất.
“Thứ ba, vật chất là cái mà chẳng qua ý thức là sự phản ánh của nó” 3.
Thông qua những tác động của vật chất vào các giác quan của con người, mà từ
đó con người có sự phản ánh các đặt điểm tính chất của các sự vật chất khách
quan đó mà sinh ra ý thức của con người. Khi đứng trên lập trường của quan
điểm duy tâm mà cho rằng ý thức là cái có trước, đó là điều bất khả thì, bởi sự
tồn tại của vật chất là khách quan trong thế giới tự nhiên, cùng với đó là sự độc
lập với ý thức con người, nên khơng thể nào ta hình thành ý thức trước khi có sự
tác động của vật chất vào các giác quan của con người. Thực tế cũng đã chứng

2


PGS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ tịch Hội đồng), 2021, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia Sự thật, trang 130.
3
PGS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ tịch Hội đồng), 2021, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia Sự thật, trang 131.


minh đều này, ta khơng thể có những kiến thức và sự hình dung về một vật chất
nếu chưa có sự tiếp xúc với nó từ trước.
Trong triết học khi bàn về phạm trù “vật chất” thì ln gắn liền với việc
phải bàn tới các phạm trù liên quan đến sự tồn tại của nó. Đó là phạm trù vận
động không gian và thời gian. Vận động theo quan điểm của Mác – Lênin thì:
Vận động được hiểu theo nghĩa chung nhất, là phương thức tồn tại của vật chất,
là thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ kể từ vị trí giản đơn đến tư duy. “Vật chất” là vô tận,
vô hạn, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính khơng thể
tách rời vật chất cho nên bản thân sự vận động không thể mất đi hoặc sáng tạo
ra. Vì vậy một khi chúng ta nhận thức được hình thức vận động của vật chất thì
sẽ nhận thức được bản thân vật chất. Cùng với phạm trù vận động thì khơng gian
và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất.
Lênin nhận xét rằng: Trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động
và vật chất đang vận động khơng thể vận động ở đâu ngồi khơng gian và thời
gian
1.1.2. Quan điểm về ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người là sản
phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Vì vậy, để hiểu đúng
nguồn gốc của ý thức cần phải xem xét nó trên cả hai mặt: tự nhiên và xã hội.
Một là, nguồn gốc của tự nhiên của ý thức: não người và hiện tượng khách quan
trong đó não người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất. Hoạt động của ý

thức chỉ xảy ra trên cơ sở hoạt động của não người. Nếu não người bị tổn
thương một phần hay toàn bộ thì hoạt động của ý thức cũng bị ảnh hưởng theo.
Chỉ có con người mới có ý thức, động vật bậc cao cũng khơng thể có ý thức
được. Sự phản ánh của thế giới khách quan bằng ý thức của con người là hình
thức phản ánh cao nhất, hình thức đặc biệt chỉ có ở con người trên cơ sở phản
ánh tâm lý ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Các sự vật hiện tượng tác động
lên giác quan của con người và truyền những tác động đó lên trung ương thần


kinh đó là bộ óc của con người do đó con người có một hình ảnh về các sự vật
đó. Hai là, nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngơn ngữ. Nhờ có q
trình lao động mà vượn người trở thành người và xuất hiện não người. Trong
quá trình lao động, con người buộc giới tự nhiên biến đổi tức là buộc giới tự
nhiên bộc lộ những bản chất đặc trưng của nó ra bên ngồi để con người có thể
phát hiện. Trong q trình lao động các cơ quan cảm giác khác nhau của con
người càng trở nên hồn thiện hơn và do đó có khả năng phản ánh thế giới
khách quan ngày càng trở nên chính xác hơn. Chính trong q trình lao động mà
ngơn ngữ dần được hình thành. Ngơn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà con người ngày càng bớt lệ thuộc vào tự
nhiên. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhờ có ngơn ngữ mà con người có
thể truyền đạt trực tiếp kinh nghiệm từ người này sang người khác; từ thế hệ này
sang thế hệ khác và như vậy, không những làm cho ý thức ngày càng phát triển,
và nhờ có ngơn ngữ mà con người ngày càng có thể đi sâu khám phá thế giới
quan. Vì vậy, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần đủ
cho sự ra đời của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì khơng thể có ý
thức.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì bản chất của ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Đây là hình ảnh tinh thần chứ khơng phải là hình
ảnh vật lý. Ý thức là cái khách quan làm tiền đề. Nội dung của ý thức là do thế
giới quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có ý

nghĩa, ý thức là sự phản ánh sáng tạo tích cực của thế giới khách quan. Ý thức là
sự thống nhất của khách quan và chủ quan. Phản ánh ý thức là sáng tạo do nhu
cầu thực tiễn quy định. C. Mác nói: “Ý thức là cái vật chất được di chuyển vào
não người và được cải biến trong đó”. Ý thức là hình thức phản ánh có mục
đích và vì thế có chọn lọc, có khả năng chỉ ra bản chất và quy luật của sư vật từ
đó giúp cho chủ thể hoạt động và có thể dự đoán được tương lai phát triển của
chúng. Nhờ có ý thức mà con người có thể tạo ra dưới dạng hình ảnh của tinh
thần mà các sự vật, hiện tượng không tồn tại trong thực tế. Ý thức ra đời trong


quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc của con người là q trình năng động sáng tạo ở ba
mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều có định hướng có chọn lọc các thơng tin cần thiết.
Hai là, mơ hình hố đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Đây là
quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật
chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra
hiện thực khách quan, tức là q trình hiện thực hố tư tưởng thông qua quan
niệm thực tiễn, biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật
chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện tượng. Ý thức cịn mang
tính lịch sử-xã hội vì ngay từ đầu ý thức mang bản tính xã hội, nó mang tính lịch
sử vì nó là sự phản ánh và nội dung của sự phản ánh đó là do thế giới khách
quan quy định mà thế giới vật chất đó ln nằm trong q trình vận động biến
đổi và phát triển khơng ngừng. Vì vậy, ta khẳng định rằng: Ý thức là toàn bộ
những hoạt động tinh thần của con người, là hình thức phản ánh và là hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, phản ánh mang tính tích cực và sáng
tạo.
1.2. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức
1.2.1. Vật chất quyết định ý thức

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những
khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất thì “sinh ra” ý thức, vì ý thức xuất hiện đã gắn liền với sự xuất
hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người thì chính là kết
quả của một q trình phát triển, tiến hóa lâu dài và phức tạp của, của thế giới
vật chất, thế giới tự nhiên. Con người do giới tự nhiên và vật chất sinh ra, cho
nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người - cũng do giới tự
nhiên và vật chất sinh ra. Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã


chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, cịn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và
vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người chính là một dạng vật chất có
tổ chức cao nhất, đồng thời là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Sự tồn tại
của ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định
sự ra đời của cải vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định đến nội dung của ý thức: Cho dù “ý thức”
dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện
thực vận động và phát triển theo các quy luật khách quan của nó, được phản ánh
vào ý thức thì mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và
chủ yếu chính là hoạt động thực tiễn mang tính xã hội - lịch sử của loài người là
yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế
giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả bề rộng và chiều sâu là
động lực mạnh mẽ nhất quyết định đến tính phong phú, độ sâu sắc nội dung của
tư duy và ý thức con người qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện
đại.

Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: Ta thấy phản ánh và sáng
tạo là hai thuộc tính khơng tách rời nhau trong bản chất của ý thức. Nhưng sự
phản ánh của con người không phải là ”chụp ảnh”, “soi gương” hoặc là “phản
ánh tâm lý” như con vật mà chính là phản ánh, tự giác, sáng tạo, tích cực thơng
qua thực tiễn khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật
chất- đây là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt
động vật chất mang tính cải biến thế giới của con người – cũng là cơ sở để hình
thành và phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa sáng tạo, vừa phản
ánh, sáng tạo trong phản ánh và phản ánh để sáng tạo.


Thứ tư, vật chất quyết định đến sự vận động và phát triển của ý thức: Như
chúng ta thấy mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức thì đều gắn liền với quá
trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức cũng
phải thay đổi theo.
1.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra,
nhưng khi đã ra đời thì ý thức có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ
thuộc một cách máy móc vào vật chất. “Ý thức” một khi ra đời thì nó có tính
độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. “Ý thức” thì có thể thay đổi
nhanh, chậm, hoặc đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung thì chúng ta
thấy ý thức thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ vào hoạt động thực tiễn mà ý thức có thể làm biến
đổi các điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “ thiên nhiên thứ hai ”
phục vụ cho cuộc sống của chính con người. Cịn tự bản thân ý thức thì không
thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên nền tảng những tri thức về thế
giới khách quan, có sự hiểu biết về những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục

tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để góp phần thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm
nhập vào quần chúng nhân dân – đây là lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trị
rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng”4.

4

C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr. 580.


Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người; ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng
hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực thì ý thức có thể
dự báo hay tiên đốn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên
các lý luận định hướng đúng đắn và các lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ
góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh
vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó
phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội chúng ta ngày càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày
càng to lớn, nhất là trong bối cảnh và thời đại ngày nay. Cụ thể là thời đại thông
tin, kinh tế tri thức; thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối
cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng
nhân văn là hết sức quan trọng.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận chung
Trước hết, từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, cần rút ra
nguyên tắc khách quan – đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong nhận thức

và hoạt động của con người. Nguyên tắc khách quan yêu cầu: Thứ nhất, khi xem
xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật, phải phản ánh sự vật trung
thành như nó vốn có, phải tơn trọng sự thật, khơng được lấy ý chí chủ quan áp
đặt cho sự vật. Những yêu cầu này không phức tạp, khơng khó thực hiện nhưng
trong thực tế nó lại rất hay bị con người vi phạm ở những mức độ khác nhau, do
đó mà khơng đạt được những nhận thức đúng dẫn về sự vật hoặc khơng có được
những chủ trương hoạt động thực tiễn phù hợp. Thứ hai, trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Mọi mục đích hành động, kế hoạch, chủ trương, biện pháp hành
động của con người phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hồn cảnh thực
tế khách quan, các chủ trương chính sách của con người phải phản ánh được
những nhu cầu đã chín muồi của điều kiện thực tế, có như vậy những chủ


trương, chính sách mới có thể thực hiện thành cơng. Mặt khác, các quy luật tự
nhiên, xã hội, tư duy tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, thực tế
chứng tỏ rằng nếu làm trái quy luật, con người sẽ phải hứng chịu những hậu quả.
Do đó, phải nhận thức các quy luật, hành động phù hợp với quy luật.
Kế đến là phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: Ý thức, tư tưởng,
với tính năng động sáng tạo của nó có vai trị to lớn do đó cần phát huy yếu tố
tích cực của ý thức, cũng có nghĩa là phát huy vai trị của nhân tố con người
trong hoạt động cải tạo hiện thực. Cần nâng cao không ngừng khả năng nhận
thức và vận dụng quy luật của con người. Muốn vậy đòi hỏi con người phải tích
cực học tập làm chủ các tri thức khoa học, vận dụng các tri thức trong hoạt động
thực tiễn của mình. Cần tự giác rèn luyện nhân sinh quan cách mạng, tiến bộ để
góp phần thúc đẩy sự phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ của xã hội.
Cuối cùng là khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí: Trong
sự vận động đa dạng của xã hội, xuất hiện những xu hướng cần khắc phục và
loại trừ. Xu hướng thứ nhất là xu hướng bảo thủ, trì trệ, thụ động, ỷ lại, trơng
chờ vào sự biến đổi của hiện thực, khơng tích cực và tự giác biến đổi hiện thực

ấy. Xu hướng thứ hai là xu hướng chủ quan duy ý chí, khơng căn cứ vào thực tế
khách quan để hành động mà lại lấy ý muốn chủ quan, lấy tình cảm, nguyện
vọng cá nhân làm điểm xuất phát cho chủ trương, chính sách. Cả hai xu hướng
này xét về bản chất, đều là chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức và hành động,
đều cản trở sự vận động của hiện thực và đều cần khắc phục trong hoạt động của
con người.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG
THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Liên hệ việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong đời sống sinh viên hiện nay
Xét đến sự giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
trong cuộc sống của bản thân sinh viên thì bản thân sinh viên phải có kế hoạch,


mục tiêu đặt ra để hoàn thành, để hoàn thành được thì tất yếu phải nhìn nhận từ
thực tế khách quan, từ những tiền đề vật chất hiện có. Ví dụ như khi sinh viên
muốn lựa chọn ngành học với bản thân để phù hợp với năng lực bản thân, có thể
vừa học thật tốt chuyên ngành đó vừa có thời gian giải trí, tham gia các câu lạc
bộ thì sinh viên cần đặt ra kế hoạch cụ thể, không chủ quan, trơng chờ, ỷ lại vào
cha mẹ thì chính ý thức đó của sinh viên giúp cho sinh viên nâng cao năng lực,
kinh nghiệm cho nghề nghiệp sau này khi ra trường.
Chúng ta thấy rằng ý thức chỉ đạo, hướng dẫn bản thân sinh viên trong
hoạt động thực tiễn, ý thức trang bị cho sinh viên tri thức, hiểu biết đúng đắn về
thực tại khách quan, về quy luật khách quan. Trên cơ sở đó, giúp sinh viên xác
định được phương hướng, mục tiêu, lựa chọn được biện pháp, phương pháp,
công cụ, phương tiện phù hợp để đạt được mục tiêu lựa chọn ngành học và định
hướng nghề nghiệp của sinh viên. Như vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của sinh viên. Nếu một người sinh
viên có nhận thức đúng, có tri thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách

mạng hay ta nói một cách ngắn gọn: Nếu sinh viên hiện nay có ý thức đúng - ý
thức đúng ở đây có thể là có tri thức đúng, tình cảm đúng, nghị lực đúng,. Khi
sinh viên có ý thức đúng thì hành động của sinh viên chắc chắn sẽ đúng và sinh
viên sẽ đi tới thành công trong việc lựa chọn chuyên ngành và định hướng nghề
nghiệp sau khi ra trường. Đó là xu hướng tích cực. Nhưng ngược lại, nếu sinh
viên có ý thức sai, chúng ta hiểu biết sai, tình cảm sinh viên đặt sai, sự quyết tâm
của sinh viên đặt không đúng lúc, đúng thời điểm, đúng chỗ thì rõ ràng chúng ta
nói một cách khác đi đó là ý thức mà sai, nhận thức mà sai thì đương nhiên hành
động của sinh viên sai và chắc chắn sinh viên sẽ đi tới thất bại. Đó là biểu hiện
của sự tác động tiêu cực.
Tiếp đến, bản thân sinh viên khi nhìn nhận bất kỳ tình huống, vấn đề phát
sinh trong cuộc sống thì cần nhận thức, xem xét kỹ lưỡng một cách đúng đắn,
khách quan để giải quyết tình huống, vấn đề đó. Bản thân em thấy rằng việc vận
dụng ý nghĩa phương pháp luận để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật


chất và ý thức trong cuộc sống là vô cùng quan trọng. Bản thân em là sinh viên
chuyên ngành Kinh tế phát triển thì khi tham gia các hoạt động đồn đội, em
ln chủ động, tích cực tham gia, ln tự bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức,
ý chí cách mạng – đó là những việc khiến em phát huy tính năng động, sáng tạo
của ý thức bản thân em đồng thời em ln phát huy vai trị của chính mình để
giúp ích cho sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay. Hay trong việc giao tiếp
với người nước ngồi thì em ln cố gắng trau dồi kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
tiếng anh để nói thành thạo tiếng anh với họ, từ đó tạo ra tương lai rộng mở hơn
cho nghề nghiệp sau này của em. Bởi vậy, trong thực tế đời sống, có rất là nhiều
mặt đa dạng, phong phú; vậy để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức thì bản thân sinh viên cần có cách nhận thức, tư duy khách quan, phát
huy tính năng động sáng tạo của ý thức, thái độ thực sự khách quan, khoa học,
không vụ lợi trong nhận thức để nhìn nhận vấn đề một cách chính xác từ đó giải
quyết đúng đắn vấn đề.

Để việc lựa chọn ngành học của bản thân sinh viên hiệu quả và sinh viên
có định hướng nghề nghiệp tương lai rõ ràng thì các sinh viên phải nghiên cứu,
phải hiểu rõ từng ngành học, từng ngành nghề bằng cách tra mạng, sách báo,
website liên quan đến các ngành học, ngành nghề mà bản thân thấy phù hợp Và
khi đi học thì về cơ bản bản thân sinh viên phải tự trang bị kiến thức cho bản
thân. Chỉ có trong quá trình học có nhiều điểm hoặc một số điểm mà sinh viên
chưa hiểu về ngành học, nghề nghiệp tương lai thì các bạn sinh viên trao đổi
những vấn đề đó với thầy cô giáo. Thầy cô giảng bài chỉ là tư vấn, định hướng
nghề nghiệp, gợi mở và bản thân sinh viên cần phải trang bị kiến thức liên quan
đến ngành học và kiến thức để ra trường có nghề nghiệp ổn định, phù hợp với
năng lực bản thân. Bản thân mỗi sinh viên cần ý thức được việc lựa chọn ngành
học và học tập của bản thân, có ý thức được tầm quan trọng của việc học tập
ngoại ngữ và có ý thức trong việc nâng cao năng lực của bản thân về chun
ngành mình đang học, từ đó xây dựng phương pháp học tập thích hợp khiến


trình độ bản thân được cải thiện hơn khiến việc định hướng nghề nghiệp sau khi
ra trường đạt được hiệu quả…
Liên hệ với bản thân em – một sinh viên ngành Kinh tế phát triển thì một
tiết lên lớp, bản thân em đã phải chuẩn bị bài 2-3 tiết ở nhà. Có như vậy, em mới
nắm được kiến thức trọng tâm của buổi học, chiếm lĩnh được tri thức cho bản
thân mình trước khi lên lớp nghe thầy cơ giảng bài và trong quá trình nghe
giảng, trao đổi với thầy cơ và bạn bè về kiến thức đó, để từ đó đặt ra những câu
hỏi mà bản thân cịn thắc mắc, băn khoăn chưa biết đáp án khiến vốn kiến thức
mình lấy được nhiều hơn, nắm bài tốt hơn đem lại kết quả tốt cho kỳ thi cũng
như kiến thức sau này vào cơng việc khi ra trường. Chính ý thức của bản thân
em trong việc học tập, đặt ra những mục tiêu rõ ràng giúp em gặt hái được
những kiến thức đem lại cơ hội cho tương lai của mình. Quá trình hoạt động học
tập của em tại Đại học chính là vật chất đang hoạt động cịn ý thức trong quá
trình hoạt động học tập của sinh viên là sản phẩm của bộ óc con người-sản phẩm

từ bộ óc tư duy của em và là sự phản ánh tự giác, tích cực của em, là hiện tượng
học tập và quá trình hiện thực của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan. Đồng thời việc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức
trong việc triển khai hoạt động học tập từ thực tế khách quan sẽ giúp cho quá
trình định hướng nghề nghiệp của em dễ dàng, kiến thức dễ nhớ, hiệu quả hơn
và đem lại thành tích học tập tốt về chuyên ngành Kinh tế phát triển của em.
Nếu bản thân em nhận thức đúng về chuyên ngành, có tri thức khoa học trong
suốt quá trình học tập chuyên ngành mà bản thân lựa chọn đó, có nghị lực và có
ý chí tham gia nhiệt tình mọi hoạt động học tập thì hành động của em phù hợp
với các quy luật khách quan. Từ đó, em sẽ có năng lực vượt qua những thách
thức trong quá trình thực hiện những mục đích của mình trong hoạt động học
tập-đó là sự tác động tích cực của ý thức đối với vật chất. Dưới sự định hướng
của thầy/ cô đã giúp cho hoạt động học tập của em đạt kết quả tốt, ý thức và tư
duy của em có thể quyết định hành động của bản thân, định hướng nghề nghiệp
của em sẽ đi tới thành công hoặc thất bại, hiệu quả hoặc không hiệu quả.


Bản thân em thấy một người sinh viên có tri thức, tức là có sự hiểu biết
đúng và nắm được quy luật, có niềm tin, có bản lĩnh, có ý chí quyết tâm, tình
cảm để vượt qua những khó khăn để chiếm lĩnh tri thức thì đạt đến đỉnh cao.
Cho nên cái nhân tố chủ quan, phát huy vai trò của nó là rất quan trọng. Khi đã
quán triệt nguyên tắc khách quan thì mình phải chống lại hai cái bệnh đó là bệnh
chủ quan duy ý chí, bệnh thụ động trơng chờ, ỷ lại. Từ đó, em thấy dựa vào điều
kiện khách quan, cơ sở vật chất,… của trường mình học; yếu tố từ thầy cơ giảng
bài có chất lượng hay không để học, rèn luyện phát triển cả kiến thức, kỹ năng;
bản thân em cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong học tập, cho
phương pháp học tập đúng. Bản thân em nhận thấy rằng cần ý thức được việc
hoạt động học tập của bản thân và có ý thức được tầm quan trọng của việc nắm
chắc kiến thức về chuyên ngành sư phạm Tiếng Anh và có ý thức trong việc
nâng cao năng lực của bản thân, từ đó xây dựng được động cơ, định hướng được

nghề nghiệp khi ra trường, có phương pháp học tập ngành học thích hợp khiến
trình độ bản thân được cải thiện hơn, tham gia nhiều hoạt động học tập thi đua
trong các cuộc thi, câu lạc bộ tiếng anh, lấy thực tế khách quan để áp dụng lý
thuyết mà thầy/cô giảng dạy trên lớp vào cuộc sống sẽ khiến nghề nghiệp của
bản thân em sau khi đi làm được hiệu quả, gặt hái nhiều thành công trong cuộc
sống.
2.2. Đánh giá việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong đời sống sinh viên hiện nay
Chúng ta thấy việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong đời sống sinh viên hiện nay là vô cùng quan trọng. Bản thân em thấy
rằng những yếu tố bên ngoài sinh viên, thực tiễn khách quan làm cho sinh viên
chưa lựa chọn được ngành học phù hợp, định hướng nghề nghiệp chưa thực sự
hiệu quả như yếu tố cơ sở vật chất chưa thực sự tốt; hệ thống thư viện chưa thực
sự hiện đại và cập nhật. Muốn lựa chọn ngành học, nghiên cứu, định hướng
nghề nghiệp tốt thì người thầy, người cơ phải có phương pháp, chun mơn đủ,
phải rất tâm huyết với nghề và thầy cô dạy chuyên môn, chuyên ngành phải là


những người khơi mở tư duy, phải gợi ra động lực để sinh viên lớp trẻ đam mê
chiếm lĩnh tri thức. Gợi mở nhưng phải kết nối doanh nghiệp để triển khai
những nghiên cứu đó giúp cho sinh viên tiếp cận tri thức, nâng cao trình độ
chuyên ngành một cách gần nhất, nhanh nhất. Các phương tiện giải trí đa dạng,
phong phú có sức hút hơn cả tri thức nên các bạn sinh viên rất thích vào game,
rất thích vào cái này cái kia. Mơi trường xã hội địi hỏi những con người thực sự
có năng lực, có tài năng. Vậy thì khi đi học chúng ta có quyết tâm học hơn. Rất
nhiều yếu tố bên ngoài tác động tới sinh viên. Và làm cho một bộ phận không
nhỏ sinh viên là chưa tích cực học tập, nghiên cứu, định hướng nghề nghiệp.
Thực tại khách quan, điều kiện khách quan ở bên ngồi nó tác động tới sinh viên
mà làm cho sinh viên như vậy. Tất nhiên chúng ta nói đến nhân tố khách quan
thì chúng ta cũng phải đề cập tới nhân tố chủ quan. Bản thân sinh viên có lỗi nên

sinh viên kém có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó chắc chắn có ngun nhân
đến từ chính bản thân sinh viên. Do bản thân sinh viên lười, xuất phát điểm thời
học sinh không thực sự tốt, nhiều sinh viên cịn rất nhiều vấn đề như vui chơi,
giải trí lấn át hết, bản lĩnh ý chí đương đầu với khó khăn, vượt qua khó khăn
chiếm lĩnh tri thức cịn quá ít quá hạn chế. Một số sinh viên mơ hồ về nghề
nghiệp của bản thân khi ra trường do thầy cơ, nhà trường khơng tổ chức những
chương trình khởi nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên,…
Khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải xác định được
động cơ học tập như thế nào trước, chúng ta biết rằng tương lai, công ăn việc
làm trong mọi ngành nghề đều sẽ khó khăn hơn. Vậy thì, bản thân sinh viên
đang ngồi trên ghế nhà trường thì phải chuẩn bị hành trang của mình sau 4 năm
đại học những thứ sau: Khơng chỉ về kiến thức mà cịn về kỹ năng, về năng lực.
Kiến thức không phải chỉ là kiến thức ngành, cơ sở ngành, kiến thức cơ bản mà
trong điều kiện hiện nay thì chúng ta cịn phải bổ sung thêm những kiến thức, kỹ
năng mà bản thân còn rất yếu, rất thiếu. Phải chuẩn bị những điều kiện đó vì
chúng ta dự báo được xu hướng phát triển của nhu cầu công ăn việc làm thế nào,
của yêu cầu của ngành nghề trong tương lai ra sao thì khi ngồi trên ghế nhà


trường, chúng ta phải học như thế nào, phải rèn luyện như thế nào, phải phấn
đấu như thế nào? Thì chúng ta mới có được cơng ăn, việc làm tốt trong tương
lai, mới có được cái nghề nghiệp ổn định tốt và có cơ hội phát triển trong tương
lai. Cịn nếu chúng ta khơng có hiểu biết đúng đắn, chúng ta những năm học đại
học chỉ là những năm gọi là chơi dài, học là chuyện phụ, vui chơi giải trí game
là chuyện chính thì rõ ràng với cái nhận thức sai lầm như vậy thì rõ ràng hành
động của chúng ta sai và chúng ta sẽ thất bại trong việc tìm kiếm cơng ăn việc
làm trong tương lai.
Và khi sinh viên khơng trì trệ, khơng chủ quan, khơng thụ động, có ý chí
đương đầu với khó khăn, vượt qua khó khăn chiếm lĩnh tri thức, ý thức được
tầm quan trọng của việc lựa cọn ngành học, có các biện pháp, phương pháp học

tập và rèn luyện hợp lý, phân tích cặn kẽ, thấu đáo hồn cảnh thực tế khách quan
sẽ làm cho việc định hướng nghề nghiệp tương lai được hiệu quả, đem lại cuộc
sống cho bản thân được ổn định. Những việc làm để giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức trong đời sống sinh viên hiện nay theo bản thân
em đánh giá khá cao và tính hiệu quả của những việc làm đó đem lại lợi ích cho
bản thân sinh viên và trên tất cả là khiến đất nước ngày càng phát triển.


KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu và phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải
quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay (trong lựa
chọn ngành học, định hướng nghề nghiệp của bản thân; trong tình bạn, tình
yêu...) thì chúng ta thấy rằng thế giới về bản chất là vật chất, vật chất thì tồn tại
khách quan có trước và quyết định ý thức, cịn ý thức thì chính là cái có sau và
là sự phản ánh vật chất, cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Trong hoạt động thực tiễn thì nhân tố vật chất là cơ sở quy định các nhân tố tinh
thần chỉ có thể phát huy tác dụng nếu nó bảo đảm sự thống nhất gắn bó với các
nhân tố vật chất. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng
nó khơng thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể
hoạt động. Tương lai thì cuộc cạnh tranh cơng ăn việc làm rất phức tạp, thời kỳ
sinh viên chúng ta phải học tập, rèn luyện, ngoại ngữ, kiến thức chuyên ngành,
cơ sở ngành phải vững, chun mơn tốt, kỹ năng mềm,… thì khi ra trường
chúng ta sẽ có một tương lai rộng mở. Chính ý thức đúng, hành động đúng sẽ
đưa đến thành cơng, cịn khi ý thức sai như việc một số sinh viên suốt ngày tập
trung cho việc vui chơi, giải trí, suốt ngày u đương, suốt ngày game, lơ đề, cờ
bạc,… thì hành động sai đương nhiên chấp nhận thất bại. Do vậy, để phát huy
hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống của sinh viên hiện nay thì nhà trường cần đáp
ứng đầy đủ cơ sở vật chất, phòng học, thư viện, cán bộ giảng viên có tâm,

chun mơn, trình độ cao,… để đáp ứng nhu cầu học tập ngành học của sinh
viên và định hướng nghề nghiệp cho sinh viên và đặc biệt bản thân mỗi sinh
viên phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải phản ánh đúng thế giới khách
quan không thêm bớt và từ những kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống cũng
như trải nghiệm để bản thân mình hoạt động học tập dễ dàng, đóng góp cơng sức
học tập cho sự nghiệp đổi mới đất nước ngày càng hoàn thiện và phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002, t.1, tr. 580.
2. PGS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ tịch Hội đồng), 2021, Giáo trình Triết học
Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. PGS.TS. Bùi Thị Thanh Hương - PGS. TS. Nguyễn Minh Hoàn (Đồng
chủ biên), 2018, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã hội.



×