Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

(SKKN 2022) Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp Bốn - Năm thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.88 KB, 18 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định: "Đến
năm 2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và tồn diện theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng
giáo dục được nâng cao một cách toàn diện gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống,
năng lực sáng tạo, năng lực thực hành...."
Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện nhân cách con người địi hỏi nhà
trường nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng phải quan tâm trang bị tri thức, kỹ
năng, thái độ cho người học, đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy người, đặc
biệt là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp học sinh biến tri thức thành hành
động, thái độ thành hành vi, kỹ năng để sống an tồn, khỏe mạnh, thành cơng và
hiệu quả.
Thực tế, xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con
người ngày càng được nâng cao. trong thời đại Công nghệ -Thông tin, tất cả lĩnh
vực phát triển như vũ bão, các em được học tập và sinh hoạt trong các môi trường
khá đầy đủ và tiện nghi nên học sinh có những hiểu biết khá phong phú, ngồi ra
thơng qua các kênh thơng tin, đặc biệt là nhờ truy cập Internet. Tuy nhiên, vấn đề
mà giáo dục và xã hội quan tâm trong thời gian qua đó là văn hố ứng xử, khả
năng giao tiếp, kĩ năng sống trong cuộc sống của giới trẻ - trong đó có học sinh cịn nhiều hạn chế. Các em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống.
Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình
huống thường gặp trong cuộc sống, trong giao tiếp. Đặc biệt kỹ năng tự bảo vệ
trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn cuộc
sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết cách
từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, tự chăm sóc sức khỏe bản
thân ... cịn gặp nhiều khó khăn lúng túng. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là việc rất
quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành nhân cách của trẻ cho đến tuổi
trưởng thành.
Giáo dục kĩ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, đặc biệt ở
lứa tuổi Tiểu học. Bởi vì lửa tuổi này đã hình thành những hành vi các nhân, tính
cách và nhân cách. Việc làm quen với các mơn học để hình thành và xây dựng cho


các em các kĩ năng sống như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,… sẽ
giúp các em tự tin, chủ động biết cách xử lí mọi tình huống trong cuộc sống và
quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh
của các em. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ hình thành và tập dượt cho
các em những hành vi, thói quen, kĩ năng xử lý các tình huống diễn ra trong cuộc
sống.
Trang 1


Kĩ năng sống chiếm vị trí vơ cùng quan trọng đối với cuộc sống thực tiễn,
hoạt động lao động của con người đặc biệt là lứa tuổi các em. Kỹ năng sống khơng
phải do bẩm sinh, di truyền mà nó được hình thành, phát triển trong quá trình sống,
qua hoạt động, trải nghiệm, tập luyện, rèn luyện..... Vì vậy, muốn nâng cao chất
lượng giáo dục tồn diện thì cần thiết phải giáo dục KNS cho học sinh.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ở tiểu học trong những năm qua đã có
nhiều chuyển biến rõ nét, đã được các cấp quản lý giáo dục, các trường, đội ngũ
giáo viên cũng như cộng đồng quan tâm. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng sống
còn đơn điệu về nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải còn cứng nhắc, chưa
phù hợp và hiệu quả rèn luyện chưa cao. Việc thực hiện giáo dục KNS chủ yếu
thông qua việc lồng ghép trong các tiết học, các môn học, trong việc tổ chức các
hoạt động học tập, các bài học tích hợp. Theo tơi đóng một vai trị hết sức quan
trọng và khơng thể thiếu trong việc giáo dục KNS cho HSTH, đó là giáo dục KNS
cho các em thông qua các HĐNGLL.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của điều đó, ở phạm vi của bài
viết này, tơi mạnh dạn đưa ra sáng kiến về “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp Bốn - Năm thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp”.
1.2. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Thực tế đã có nhiều sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu về giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, những đề tài nghiên cứu
về việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thơng qua HĐGDNGLL cịn ít nên tơi

đã lựa chọn nghiên cứu và đưa ra “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh Tiểu học thơng qua hoạt động GDNGLL” nhằm:
Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu qua HĐNGLL góp phần nâng cao
sự hình thành, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, để từ đó học sinh ý thức được
giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của
bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành
pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem
lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết
làm hành trang bước vào đời.
Đề tài còn mong muốn đem lại cho học sinh vốn tự tin ban đầu, giúp các
em có được các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như: kĩ năng tự nhận
thức, kĩ năng tự chăm sóc, tự bảo vệ và tự phục vụ; kĩ năng giao tiếp; kĩ năng tìm
kiếm và xử lí thơng tin…; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện cho học
sinh nói riêng và nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung.
1.3. PHẠM VI ÁP DỤNG:
Đề tài này đã được áp dụng là khối lớp Bốn - Năm ở trường tôi.

Trang 2


2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP
BỐN - NĂM Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY.
Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong
quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù ở một số mơn học, các hoạt động ngoại khóa,
giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách
thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép cịn
chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy bản thân tơi thấy kĩ năng sống của học sinh rất nhiều
hạn chế. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Cịn phần lớn các

em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách
xưng hơ chuẩn mực, chưa có các kĩ năng thích nghi, thích ứng, hợp tác. Các em cịn
ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tịi cịn hạn chế.
2.1.1. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh:
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào
“Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, bản thân đã gặp những thuận
lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa
phương. Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những
biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các
bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện: Rèn luyện kĩ
năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm
việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng
phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn
luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hịa bình, phịng ngừa bạo lực và các tệ
nạn xã hội.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp GV thuận lợi cung
cấp cho các em hình ảnh, thông tin thiết thực để tăng cường giáo dục KNS qua các
bài học, mơn học.
Trong q trình theo dõi thực tế sinh hoạt và việc tham gia các hoạt động của
các em học sinh tại trường thông qua quan sát thực tế thì về cơ bản các em học sinh
đều ngoan ngỗn vâng lời thầy cơ, cha mẹ, lắng nghe và tiếp thu khá tốt những nội
dung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện của giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách
Đội, nội quy, quy định của nhà trường.
Các em tham gia khá nhiệt tình các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn
nghệ …Đa số các em biết vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương tích.
* Khó khăn:
Trang 3



Đối với học sinh
Trong thực tế một số em còn có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện
các nội dung, biết lí thuyết nhưng khơng biết, khơng có thói quen vận dụng thực
hành. Cụ thể như hầu hết khi hỏi các em học sinh “ Để giữ gìn trường lớp sạch, đẹp
em phải làm gì?” thì các em đều trả lời được là “không được vứt rác bừa bãi, vẽ bậy
lên tường …” tuy nhiên thực tế các em biết nhưng một số em vẫn không thực hành
những nội dung các em đã trả lời.
Một số em ăn quà xong bỏ vỏ ni lông vào bồn hoa thay vì bỏ vào thùng rác,
một số em cịn vẽ bậy lên tường, ăn kẹo cao su nhả bã kẹo bừa bãi…. . tương tự
như vậy trong việc thực hiện Luật giao thông đường bộ, khi hỏi các em là “ Em hãy
cho biết đi bộ tham gia giao thông như thế nào là đúng?” , các em trả lời đúng hết
và rất nhanh tuy nhiên khi ra các đường các em vẫn đi theo hàng hai, hàng ba, đùa
nghịch trên đường…
Một số em đi vệ sinh bỏ giấy không đúng nơi quy định, không xả nước khi đi
vệ sinh xong …
Một số em còn mua những đồ chơi nguy hiểm để chơi mà các em không biết
được sự nguy hiểm khi chơi các trị chơi này ví dụ như súng bắn đạn cao su, kiếm,
gươm… hoặc những loại có thể gây thương tích, mất an tồn khi chơi. Một số em
cịn mua các loại bánh kẹo màu mè, khơng có nhãn mác của Trung Quốc hoặc của
những cơ sở không đảm bảo chất lượng. Các em chưa có khả năng nhận biết để bảo
vệ sức khỏe bản thân.
Học sinh tiểu học nói chung và học sinh Trung tâm nói riêng hiện nay kĩ
năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Qua tìm hiểu và tiếp xúc trực tiếp với
học sinh bản thân tôi nhận thấy:
Phần lớn học sinh thiếu tự tin, rụt rè trong giao tiếp, có những vấn đề các em
biết nhưng các em không mạnh dạn trình bày ý kiến trước đơng người, có những
điều các em cịn băn khoăn nhưng khơng giám bày tỏ cùng ai.
Nhiều em chưa có kĩ năng giải quyết các vấn đề gặp phải một cách tích cực,

khơng nhận dạng được những tình huống nguy cơ có hành vi tiêu cực, gây rủi ro
Chưa có kĩ năng rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phịng tránh tai nạn
giao thơng, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
Học sinh ngày càng thực dụng, ỉ lại và lười hoạt động.
Đối với giáo viên
Đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho
học sinh, điều này được thể hiện rất đầy đủ trên hồ sơ, giáo án… Nhưng do chưa được
tập huấn, chưa được hướng dẫn cụ thể nên khi thực hành, phần lớn giáo viên vẫn còn
lúng túng trong việc tổ chức hoạt động các bài học có nội dung giáo dục KNS cho học
sinh. Thơng qua các hoạt động giáo dục thích hợp, giáo viên chưa tận dụng hoặc có
thực hiện song không mang lại hiệu quả. Một số giáo viên lúng túng cả về nội dung,
biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh, nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa
Trang 4


hiểu đầy đủ rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức
chưa đủ, chưa rõ nên khơng thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu
để rèn kĩ năng cho học sinh.
Trong quá trình giáo dục giáo viên phần lớn chỉ quan tâm tới việc dạy chữ
mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích
ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là một vấn đề khó đối với các em. Một
số giáo viên chưa chú trọng đến kĩ năng thực hành, chủ yếu hình thành trên lí
thuyết.
Chưa lồng ghép việc giáo dục kĩ năng sống vào các bài học, các mơn học
một cách triệt để.
Giáo viên TPT Đội có tổ chức các hoạt động ngoại khóa tuy nhiên việc tổ
chức các hoạt động này cịn ít, trong đó việc xác định mục tiêu rèn luyện kĩ năng
sống chưa được chú trọng đúng mức.
Một số giáo viên chủ nhiệm chưa quan tâm đúng mức đến công tác chủ
nhiệm lớp, mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau vì thế cũng

coi nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh.
Đối với phụ huynh học sinh
Về phía các bậc cha mẹ các em ln nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú
trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Tốn thì
lo lắng một cách thái q! Ngồi ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có
một số bố mẹ thì q nng chiều, cung phụng con cái khiến trẻ khơng có kĩ năng
tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều cơng việc, con em
mình lại thường xuyên ở nội trú tại trường nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt
động cần thiết… Một số phụ huynh kĩ năng giao tiếp trong gia đình cịn nhiều hạn chế,
xưng hơ chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Nhiều học sinh phải ở nhà với ông bà vì bố mẹ đi làm ăn xa, nên thiếu sự quan
tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây chính là điều kiện dễ dẫn đến các tệ nạn xã hội xâm
nhập vào các em nếu các em thiếu đi các kĩ năng sống, thiếu sự quản lí chặt chẽ
của nhà trường - gia đình - xã hội.
2.1.2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:
Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc
sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng
kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng,
trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được
cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường.
Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận tôi thấy học sinh
chưa biết giao tiếp, chưa biết ứng xử, chưa có các kĩ năng thích nghi, thích ứng,
hợp tác, chưa biết ứng phó tự bảo vệ mình khi có tình huống xảy ra… là do sự
giáo dục của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên
Trang 5


nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực của
cuộc sống. Giáo viên và người lớn chưa thật coi trọng việc GD KNS cho các em.
Việc rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi

còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực hiện giáo
dục KNS cho các em chưa nhiều.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn
nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh thơng qua các hoạt động ngồi giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong
công tác giáo dục.
Qua tiến hành khảo sát một số kĩ năng sống cơ bản của học sinh lớp Bốn
-Năm (20 học sinh) đầu năm học - lần 1 kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
MỨC ĐỘ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN
TT Kĩ năng sống cơ bản
Có hình
Kĩ năng chưa
của học sinh lớp Năm Kĩ năng tốt
thành kĩ
tốt
năng
SL
%
SL
%
SL
%
1
Tự nhận thức của bản
1
5
10
50
9

45
thân
2
Xác định mục tiêu
2
10
10
50
8
40
3
Bảo vệ bản thân
3
15
9
45
8
40
4
Đảm nhận trách nhiệm
3
15
10
50
7
35
5
Giao tiếp
1
5

7
35
12
60
Các kĩ năng khác các em cũng còn thể hiện rất nhiều hạn chế.
Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt ít và số học sinh có
kĩ năng chưa tốt cịn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là
vấn đề cần quan tâm.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn
nêu trên, trên cơ sở khảo sát nắm bắt tình hình thực tế của nhà trường trong việc
thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tôi đưa ra một số biện pháp
trọng tâm nhằm thúc đẩy, phát huy hết các ưu điểm mà nhà trường đã đạt được và
khắc phục các tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nội dung này.
2.2. CÁC GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP
BỐN - NĂM THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP:
Nội dung “rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh” là một trong 5 nội dung của
phong trào “xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”, đồng thời đây cũng
là một trong những nội dung quan trọng được tích hợp vào các mơn học và kết hợp
giáo dục thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp. Tổng phụ trách Đội là nòng cốt
chịu trách nhiệm tổ chức, quản lí hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Trang 6


Các lực lượng phối hợp gồm Cơng đồn, Đồn thanh niên, phụ huynh học
sinh, một số các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội. Các tổ khối trưởng có
trách nhiệm đơn đốc chỉ đạo giáo viên trong tổ thực hiện theo kế hoạch hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Biện pháp 1: Tổ chức hiệu quả rèn luyện kĩ năng sống thông qua các chủ
đề ở tài liệu Sống đẹp.
Tài liệu sống đẹp giúp các em hình thành các năng lực, phẩm chất nhứ: Tự

phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong cuộc sống …; Tích
cực tham gia các hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung
thực, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè và những người khác; yêu trường, yêu quê
hương, đất nước; … Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú.
Sách được biên soạn theo 6 chủ đề, được chia thành 2 tập. các chủ đề đó lại được
xây dựng xoạy quanh cuộc sống hằng ngày của các em. Các chủ đề đó lại được cấu
trúc đồng tâm, thống nhất và xuyên suốt từ lớp Một đến lớp Năm, phù hợp tâm lí
lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của học sinh:
TT
CHỦ ĐỀ
NỘI DUNG CHÍNH
1
Em là bong hoa nhỏ Kĩ năng nhận thức của bản thân:
của quê hương.
Học sinh tự nhận thức khả năng của bản thân thông
qua các hoạt động của tỉnh, thành phố, quê hương.
2
Ước mơ của em.
Kĩ năng xác định mục tiêu:
Học sinh rèn kĩ năng xác định mục tiêu thông qua
3

4

5

6

Em phịng chống
xâm hại tình dục.


Kĩ năng bảo vệ bản thân:
Học sinh rèn kĩ năng bảo vệ bản than tránh khỏi
nạn xâm hại tình dục.
Em và quê hương.
Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm:
Học sinh ý thức được trách nhiệm của mình với
q hương thong qua các hoạt động cộng đơng.
Lời hay, ý đẹp.
Kĩ năng giao tiếp:
Học sinh rèn kĩ năng giao tiếp thể hiện ở việc nói
lời hay, ý đẹp, hành động văn minh, lịch sự.
Em ứng phó với căng Kĩ năng bảo vệ bản thân:
thẳng.
Học sinh rèn kĩ năng giảm thiểu và kiểm sốt tình
trạng căng thẳng xảy ra trong cuộc sống.
Giáo dục kĩ năng sống phải tuân thủ các nguyên tắc:
Tương tác.
Thời gian môi trường giáo dục.
Trải nghiệm.
Tiến trình.
Trang 7


Thay đổi hành vi.
Tương tác: Thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong
nhà trường, nhiều KNS sẽ được hình thành trong quá trình HS tương tác với bạn
cùng học và những người xung quanh (kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết
vấn đề...). Do đó, tổ chức các hoạt động giáo dục có tính tương tác, HS sẽ có dịp
thể hiện các ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và

xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận
khác.
Trải nghiệm: Chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các
tình huống thực tế. HS chỉ có kĩ năng khi các em tự làm việc đó, chứ khơng chỉ nói
về việc đó. Kinh nghiệm có được khi HS được hành động trong các tình huống đa
dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện
thực tế.
Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động giáo dục có tính chất trải nghiệm trong nhà
trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS hiệu quả.
Tiến trình: Giáo dục KNS địi hỏi phải có cả quá trình:
Nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà
mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới.
Do đó, nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì khâu nào trong chu trình trên: thay
đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay
đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Thay đổi hành vi: Giáo dục KNS thúc đẩy người học thay đổi hay định
hướng lại các giá trị, thái độ và hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và
giá trị ở từng con người là một q trình khó khăn. Có thời điểm người học lại
quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước.
Thời gian - môi trường giáo dục: Giáo dục KNS cần thực hiện càng sớm
càng tốt đối với học sinh. Môi trường giáo dục cần được tổ chức nhằm tạo cơ hội
cho HS áp dụng kiến thức và kĩ năng vào các tình huống "thực" trong cuộc sống.
Giáo dục KNS được thực hiện mọi lúc, mọi nơi trong gia đình, trong nhà trường và
cộng đồng. Người tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô giáo, là bạn
cùng học hay các thành viên trong cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo
dục KNS được thực hiện trong các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt
động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo
dục khác.
Biện pháp 2: Thực hiện kế hoạch phịng chống đuối nước và phổ cập
bơi an tồn cho học sinh.

Do điều kiện tự nhiên huyện Lệ Thủy có hệ thống sơng ngịi, ao hồ dày đặc,
lượng nước thay đổi theo mùa. Lũ lụt thiên tai xảy ra thường xuyên. Nhiều địa bàn
Trang 8


là vùng chiêm trũng của huyện Lệ Thủy thường bị ngập lụt dài ngày, nguy cơ xảy
ra tai nạn đuối nước trong học sinh cao.
Việc phổ cập dạy bơi, dạy các kĩ năng an toàn dưới nước cho học sinh là một
trong những giải pháp cơ bản để giảm thiểu tai nạn đuối nước. Bởi vậy phải nâng
cao nhận thức và trách nhiệm cho phụ huynh học sinh về thực hiện các biện pháp
để kiểm sốt, hạn chế tình trạng tai nạn đuối nước nhằm tạo môi trường học tập,
vui chơi an toàn cho học sinh; giáo dục học sinh nắm chắc các kĩ năng, kĩ thuật bơi
an toàn khả năng sống sót trong mơi trường nước.
Mơn bơi lội được phổ cập rộng rãi như một môn học trong nhà trường, nhằm
trang bị cho học sinh những kĩ năng sống sót khi gặp trường hợp nguy cấp trong
mơi trường nước.
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Kế hoạch Phổ cập bơi cho toàn thể học sinh
và phụ huynh học sinh trong việc tiến tới phổ cập bơi.
Vận động phụ huynh tự dạy bơi cho con em mình (trong đó có u cầu phụ
huynh cam kết về đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh khi tập bơi). Đây là giải
pháp an toàn và hiệu quả nhất.
Biện pháp 3: Tổ chức việc giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt
động xã hội, đền ơn đáp nghĩa.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Lá lành đùm lá rách” …. Là những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện tốt hoạt động này góp phần giáo dục
truyền thống cách mạng, lịng u nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm của các em
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời hình thành nhân cách cho
các em. Qua đó các em ý thức hơn về vai trò trách nhiệm trong việc thực hiện các
hoạt động xã hội, đồng thời qua hoạt động này rèn luyện cho các em kỹ năng đồng
cảm, chia sẻ.

Vào những ngày kỷ niệm như thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12,
thương binh liệt sĩ 27/7 …để nhớ ơn công lao của các anh hùng liệt sĩ, những thế
hệ cha anh đi trước tổng phụ trách đội tuyên truyền ý nghĩa các ngày này dưới cờ,
giáo viên chủ nhiệm tuyên truyền trong sinh tiết sinh hoạt ngồi giờ lên lớp …..
Sau khi tun truyền thì trường tổ chức cho một số lớp tham gia làm công tác vệ
sinh, dâng hoa và hương tại bia tưởng niệm tại địa bàn trường đang đóng. Qua
cách tổ chức này thì đã phối hợp giữa giáo dục qua tuyên truyền với việc các em có
hành động thực tế để thể hiện lịng biết ơn của mình với các thế hệ cha anh đi
trước.
Để tổ chức tốt hoạt động GDKNS qua các hoạt động xã hội, đền ơn đáp
nghĩa cho học sinh thì phải phối hợp chặt chẽ giữa cơng tác tuyên truyền vận động
kết hợp với hành động thực tế.

Trang 9


Biện pháp 4: Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ chức hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí nhằm hình thành kỹ
năng sống cho học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh. Đối với trường dạy hai buổi/ngày thì vai trị của
giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em càng quan trọng hơn vì phần
lớn thời gian trong ngày là các em ở trường, tiếp xúc trực tiếp với giáo viên chủ
nhiệm.
Là trường dạy 100% hai buổi/ngày thì có thể nói đây là điều kiện hết sức
thuận lợi để tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Giáo viên chủ nhiệm sau khi nhận lớp phải tạo sự gần gũi và gắn kết giữa
giáo viên và học sinh. Động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những
sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt
động giúp giáo viên, học sinh hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường

học tập thân thiện - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em,
các thầy cơ giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện
theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh
không thể mạnh dạn, tự tin trong một mơi trường mà giáo viên ln gị bó và áp
đặt.
Đặc biệt GV cần thay đổi hình thức sinh hoạt lớp: Là giáo viên chủ nhiệm lớp
thì giờ sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan trọng nhất, bởi tiết này không đơn
thuần chỉ dừng lại ở việc nhận xét ưu, khuyết điểm. Người thầy chủ nhiệm cần
lắng nghe các em học sinh trình bày, cần cảm thơng và tin tưởng các em trong
những trường hợp, hoàn cảnh mà các em phải phạm lỗi. Khi hiểu được các em,
giáo viên chủ nhiệm dễ hướng dẫn, tư vấn cho các em sửa chữa lỗi lầm, hướng các
em đến các biện pháp giải quyết vần đề tích cực hơn. Đặc biệt trong giờ sinh hoạt
này, GVCN cần lấy các tấm gương điển hình về học tập, giúp đỡ bạn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao để tuyên dương, khen ngợi phần này được nhấn mạnh
hơn, phần tồn tại chỉ nhắc nhở không quá khắt khe có như vậy các em mới tự giác
thực hiện tốt.
Đối với học sinh tiểu học thì giáo viên chủ nhiệm có thể coi là người cha
người mẹ thứ hai của các em, là người gần gũi và có thể hiểu tính cách, hành vi của
từng em trong lớp. Vì thế giáo viên chủ nhiệm là một trong những nhân tố quan
trọng để thực hiện hiệu quả công tác giáo dục KNS cho các em. Vì vậy nhà trường
phải thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, và có những định hướng cụ thể để giáo viên
thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp của mình.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí là các hoạt
động không thể thiếu với các em. Các hoạt động này có ý nghĩa giáo dục to lớn đối
với học sinh bậc tiểu học. Các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kỹ
Trang 10


năng mạnh dạn, tự tin, tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đồn kết, lịng nhân ái …đồng
thời giúp thỏa mãn về tinh thần cho trẻ sau những giờ học căng thẳng.

Đội thiếu niên chủ trì và phối hợp tổ chức cho các em tham gia các hoạt động
như :
Tổ chức hội thi “ vẽ tranh” để chào mừng Nhà giáo Việt Nam 20.11; tổ chức
HKPĐ cấp trường; tổ chức hội thi kể chuyện theo sách nhân dịp kỹ niệm ngày 18.4;
Tổ chức biểu diễn văn nghệ, kịch câm…
Phối hợp tuyên truyền, vận động học sinh tham gia đọc truyện, sách …. Từ
đó giúp các em có các nội dung giải trí lành mạnh.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí là một hoạt động cần thiết với
các em theo quan điểm “Học mà chơi, chơi mà học” thông qua các hoạt động này
rèn luyện cho các em kỹ năng hợp tác, sự đồn kết gắn bó, rèn luyện sức khỏe, sự
khéo léo, sự hiểu biết xã hội …. Ngồi ra các hoạt động này cịn giúp các em thoải
mái, sảng khoái sau những giờ học căng thẳng.
Biện pháp 5: Tổ chức giáo dục lao động, giáo dục sức khỏe, hướng dẫn
học sinh vui chơi đúng cách, phòng tránh tai nạn bom mìn, tai nạn thương
tích..
Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thơng qua lao động cơng ích
sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngồi ra lao động cơng ích cịn góp
phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động
lành mạnh. Lao động cơng ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực
nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp.
Ngay từ đầu năm học nhà trường xây dựng kế hoạch lao động. Phân công
trách nhiệm cụ thể cho từng lớp phụ trách từng khu vực, giáo viên chủ nhiệm chịu
trách nhiệm trước nhà trường về nhiệm vụ được giao.
Các lớp vừa có trách nhiệm lao động, vệ sinh khu vực được phân công hàng
ngày, đồng thời cũng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sinh khu vực của mình. Kịp thời
phát hiện và báo cáo sao đỏ, tổng phụ trách Đội nếu có học sinh lớp khác làm mất
vệ sinh khu vực của lớp mình quản lý.
Ngồi ra 1 tháng/lần các lớp thực hiện vệ sinh toàn bộ lớp học như lau bàn,
lau kính, lau tủ và tất cả học sinh thực hiện tổng vệ sinh chung toàn trường. Thực
hiện dãy cỏ, qt dọn tồn bộ khn viên trường, thực hiện nhặt cỏ trong các bồn

hoa. Phân công mỗi lớp phụ trách một bồn hoa. Đây là một phần trong những kế
hoạch của Tổng phụ trách để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp các em biết
cách chăm sóc cây ra sao và biết để được một bồn hoa xanh tốt thì phải trải qua
quá trình vất vả, chăm sóc thế nào. Qua đó để hiểu thêm về công việc của người
lao động, biết trân trọng sức lao động và thành quả lao động.
Phát động phong trào “Sân trường em khơng có rác”: Sân trường có thể nói
là bộ mặt của nhà trường, sân trường sạch hay bẩn nó phản ánh một phần nội dung
Trang 11


giáo dục mơi trường, giáo dục KNS của trường đó đã đạt hiệu quả hay chưa. Nội
dung này Đội thiếu niên và giáo viên chủ nhiệm trực tiếp thực hiện.
Để thực hiện phong trào này nhà trường bố trí hợp lý các giỏ, thùng đựng
rác tại sân trường, trên các phòng học, hành lang. Ở từng thùng đựng rác được dán
các khẩu hiệu tuyên truyền như “ Hãy bỏ rác đúng nơi qui định”, “Bỏ rác vào
thùng”, “ Hãy bảo vệ môi trường” …
Đội sao đỏ làm nhiệm vụ theo dõi, giám sát, theo dõi tình hình thực hiện của
các bạn mình. Kịp thời phát hiện, nhắc nhở những bạn thực hiện chưa tốt, tổng hợp
báo cáo báo cáo tổng phụ trách, báo cáo giáo viên chủ nhiệm có học sinh vi phạm.
Hàng ngày giao cho đội sao đỏ có nhiệm vụ kiểm tra và thúc nhắc các lớp
làm vệ sinh đúng thời gian, đúng khu vực quy định, nếu ngày nào sân trường dơ
bẩn liên đội sẽ trừ điểm thi đua của lớp chịu trách nhiệm khu vực được giao.
Qua việc thực tổ chức thực hiện giáo dục lao động cho học sinh đã mang lại
hiệu quả thiết thực, các em thấy được ích lợi của việc lao động; có ý thức tốt trong
việc giữ gìn vệ sinh chung, học sinh bỏ rác đúng nơi qui định; khuôn viên trường
ln được giữ gìn sạch đẹp.
Lao động ln gắn liền với giáo dục sức khỏe, phịng chống tai nạn thương
tích cho học sinh Một số nội dung trọng tâm được đặc biệt quan tâm thực hiện giáo
dục các em trong các năm qua đó là:
Trước hết dạy tốt, dạy kĩ các bài học về ATGT trong chương trình HĐNGLL

của các khối lớp để các em biết, các em hiểu được luật giao thơng mới có ý thức
thực hiện đúng luật.
Quy định tất cả học sinh đi xe đạp khi ra khu vực cổng trường giờ tan học
không được chạy xe mà phải dắt xe qua khu vực đông người mới được phép lên xe
đi. Khơng đi bộ tràn ra lịng lề đường khi tan học.
Tổng phụ trách Đội trực tiếp thường trực và thực hiện công tác ổn định trật
tự giao thơng khu vực cổng trường vào giờ đưa, đón học sinh.
Nhờ thực hiện các biện pháp trên mà trong năm học khu vực cổng trường an
tồn, khơng có tai nạn giao thơng xảy ra.
Ngồi việc chú trọng thực hiện nội dung trên thì nhà trường cũng thường
xuyên hướng dẫn các em kỹ năng vui chơi, sinh hoạt đúng cách để không để xảy ra
tai nạn.
Nhắc nhở học sinh không sờ tay vào lỗ ổ cắm điện; không leo lên lan can
của nhà cao tầng; không xô đẩy nhau khi đi lên xuống cầu thang; không chơi dao,
kéo và các đồ vật sắc nhọn …
Giáo dục học sinh một số tình huống thường gặp trong trường như kỹ năng
xử lý tình huống khi thấy bạn bị té chảy máu chẳng hạn. Gặp tình huống trên thì
thứ nhất các em phải báo ngay cho thầy cô biết, thứ hai là phải khẩn trương đưa
Trang 12


bạn vào phòng y tế. Như vậy khi gặp các tình huống này xảy ra vì các em đã học
nên các em có thể xử lý được ngay.
Ngồi ra hàng tháng thì nhân viên y tế phối hợp cùng với tổng phụ trách Đội,
giáo viên chủ nhiệm thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe như: tuyên
truyền về bệnh cúm H1N1, H5N1; dịch tay chân miệng; phòng tránh đuối nước;
tránh đau mắt hột, mặc quần áo phù hợp với thời tiết… với các hình thức như tuyên
truyền dưới cờ, trong sinh hoạt Đội, sinh hoạt sao …. cho học sinh. Chính qua việc
thực hiện nội dung này giúp các em có một lượng kiến thức nhất định giúp các em
có thể bảo vệ sức khỏe của cá nhân.

Qua việc giáo dục sức khỏe, hướng dẫn các em vui chơi đúng cách, phịng
chống tai nạn thương tích thì các em đã tiếp thu và thực hiện khá tốt các nội dung
giáo dục. Trong các năm học vừa qua không xảy ra tai nạn thương tích nghiêm
trọng trong trường; các em chấp hành khá tốt Luật giao thơng; từng bước có hiểu
biết và biết cách bảo vệ sức khỏe của bản thân …
Biện pháp 6: Tăng cường công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường, xã
hội, huy động cộng đồng hỗ trợ các nguồn lực cho các hoạt động Giáo dục kĩ
năng sống cho các em. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và thi đua
khen thưởng.
Phụ huynh học sinh là một thành tố không thể thiếu trong ba thành tố để
thực hiện công tác giáo dục học sinh đó là Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Thực
tế nhiều cha mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc, làm hết tất cả mọi việc cho các em
mà khơng biết rằng điều đó vơ tình dẫn đến việc trẻ thiếu hụt kỹ năng sống, không
biết cách tự phục vụ bản thân, đôi khi việc giáo dục kỹ năng sống cũng chưa được
phụ huynh học sinh quan tâm đúng mức điều này khiến các em gặp phải khó khăn
khi trưởng thành.
Vì vậy trong các cuộc họp phụ huynh học sinh lớp, họp phụ huynh học sinh
trường cùng với việc triển khai các nội dung khác thì nhà trường đặc biệt chú ý đến
vấn đề phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho các em. Có thể nói rằng gia đình là
cái nơi giáo dục tối quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho các em. Một số nội
dung nhà trường trao đổi, phối hợp để phụ huynh thực hiện như:
Giáo viên chủ nhiệm gợi ý phụ huynh học sinh xây dựng và kiểm tra việc
thực hiện thời gian biểu ở nhà : Trao đổi với phụ huynh học sinh về quy định thời
gian biểu trong ngày cho các em. Giáo viên chủ nhiệm sẽ chịu trách nhiệm hướng
dẫn các em thực hiện thời gian biểu phù hợp. Ví dụ thời gian biểu buổi sáng ngày
bình thường của một học sinh như sáng 6 giờ dậy, đánh răng, rửa mặt, quét nhà, ăn
sáng sau đó đi học … sẽ phối hợp theo dõi, động viên, nhắc nhở các em thực hiện
theo thời gian biểu. Vào ngày thứ bảy, chủ nhật các em được nghỉ thì cùng với mẹ
nhặt rau nấu cơm, các em học sinh lớp lớn hơn có thể cắm cơm phụ cha mẹ, chế
biến một số món ăn đơn giản; dọn dẹp nhà cửa, lau bàn ghế …

Trang 13


Phối hợp giáo dục các em về các ứng xử văn hóa. Ví dụ như có khách đến
nhà, hoặc đi chơi nhà người khác các em phải thưa người lớn tuổi hoặc đơn giản ở
gia đình khi ăn cơm các em phải so đũa cho mọi người, cha mẹ ăn xong phải lấy
tăm cho cha mẹ …
Phối hợp trong việc nêu gương: Kĩ năng sống thì khơng phải chỉ học trong
nhà trường. Nhà trường chỉ quản lý học sinh trong thời gian ở trường cịn khi ra
đường, về nhà thì cha mẹ mới là người thầy thực sự. Một thực tế là ở trường, cô
giáo dạy không được vứt rác bừa bãi mà phải cho vào thùng rác nhưng ngay trước
mặt con, nhiều phụ huynh cầm cả bịch nước mía vừa uống xong vứt xuống đường;
ở trường cô dạy không được vượt đèn đỏ tuy nhiên khi chở các em một số phụ
huynh học sinh vượt đèn đỏ….. Vì vậy việc phối hợp với phụ huynh là cực kỳ
quan trọng. Nhà trường và gia đình phải cùng chung tay chỉ bảo các em, đồng
thời phụ huynh học sinh cũng phải là tấm gương cho các em noi theo.
Phối hợp trong việc tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động ngoại
khóa: Vận động cha mẹ học sinh hỗ trợ và đồng ý cho các em tham gia các hoạt
động ngoại khóa vào các ngày nghỉ như ngày chủ nhật xanh, Hội khỏe Phù Đổng,
biễu diễn văn nghệ, hưởng ứng các cuộc đi tham quan mà nhà trường tổ chức, hỗ
trợ kinh phí cho việc khen thưởng, động viên các phong trào, phối hợp tổ chức lao
động định kỳ….
Ngoài việc phối hợp với gia đình thì việc phối hợp với các ban ngành đoàn
thể của xã để thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho các em cũng được nhà trường
chú trọng: Ví dụ phối hợp với Đồn thanh niên các xã, thị trấn để tổ chức các hoạt
động vui chơi trong hè cho các em học sinh, tổ chức ngày chủ nhật xanh dọn dẹp
khuôn viên trường; Phối hợp với trạm y tế của xã để tuyên truyền về các bệnh theo
mùa, hướng dẫn học sinh 5 kỹ thuật sơ cấp cứu, khám sức khỏe định kỳ và tư vấn
sức khỏe cho các em học sinh; …
Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội góp phần quan trọng

trong sự thành cơng của việc giáo dục KNS cho học sinh. Nhà là lực lượng then
chốt trong công tác phối hợp này và để đạt được hiệu quả thì nhà trường phải có
những định hướng cụ thể trong cơng tác phối hợp trong đó cơng tác tuyên truyền,
vận động Ban đại diện cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh đóng vai trị tối quan
trọng để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra cần phối hợp triệt để với các ban
ngành đoàn thể ở địa phương trong đó cần trú trọng việc tham mưu lãnh đạo chính
quyền địa phương để chỉ đạo các ban ngành đồn thể giúp cho cơng tác phối hợp
đạt hiệu quả cao hơn.
Huy động nguồn lực là một trong những nhân tố quan trọng để tổ chức có
hiệu quả hoạt động Giáo dục kĩ năng sống. Để những việc làm trên có tính khả thi
tơi chọn chương trình trọng điểm, cụ thể là tổ chức các hoạt động nhân dịp kỷ niệm
ngày 18.4 ngày “Bảo vệ và chăm sóc người khuyết tật Việt Nam” với nội dung
Trang 14


phong phú, hấp dẫn, gây sự chú ý cho học sinh, phụ huynh. Thơng qua đó khẳng
định hoạt động Giáo dục kĩ năng sống có tác dụng to lớn nhằm dẫn dắt các em đi
tới mục tiêu giáo dục, tạo môi trường, tạo điều kiện để học sinh trải nghiệm, rèn
luyện kĩ năng sống. Từ đó, dễ dàng vận động phụ huynh, các tổ chức chính trị ở
địa phương, các doanh nghiệp tư nhân, các nhà hảo tâm trên địa bàn ủng hộ vật
chất, tinh thần, để tổ chức tốt các hoạt động Giáo dục kĩ năng sống.
Tham mưu nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh để xây dựng quỹ hỗ trợ
cho hoạt động Giáo dục kĩ năng sống.
Đánh giá kết quả hoạt động Giáo dục kĩ năng sống là một khâu khơng thể
thiếu trong q trình tổ chức hoạt động Giáo dục kĩ năng sống nhằm xem xét, nhận
định những kết quả đạt được về mặt kiến thức, kỹ năng, hành vi, thái độ ứng xử,
những tiến bộ và những hạn chế của học sinh sau mỗi quá trình hoạt động.
Việc kiểm tra đánh giá phải dựa trên chương trình, kế hoạch đã được quy
định, phải có tiêu chí, chuẩn mực cho từng hoạt động, có thể định tính, định lượng
hoặc được sự thừa nhận của tập thể giáo viên, của học sinh trong những điều kiện

hoàn cảnh cụ thể. Việc kiểm tra đánh giá đối với hoạt động Giáo dục kĩ năng sống
được tiến hành như sau:
- Tiến hành kiểm tra đánh giá trong mỗi hoạt động và sau mỗi hoạt động.
- Kiểm tra đánh giá trong từng phần công việc.
- Kiểm tra đánh giá theo chuẩn đã thống nhất.
- Kiểm tra đánh giá phải công khai, công bằng và kịp thời, phải động viên
được phong trào, khuyến khích cá nhân và tập thể phấn đấu vươn lên hồn thành
nhiệm vụ. Cần kết hợp các hình thức kiểm tra để có kết quả chính xác:
- Kiểm tra thường xuyên.
- Kiểm tra đội xuất.
- Kiểm tra chéo giữa các khối lớp.
Trong công tác kiểm tra đánh giá, phải đánh giá xếp loại các hoạt động với
đánh giá thi đua của các lớp, từng cá nhân. Đi cùng với nó là những quyết định
biểu dương, khen thưởng về vật chất và tinh thần một cách kịp thời, đồng thời chỉ
ra những tồn tại, yếu kém, thiếu sót trong từng hoạt động của tổ, nhóm và cá nhân
để có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ.
2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
*Về phía học sinh
Thơng qua các biện pháp giáo dục thì các em từng bước được bồi dưỡng thêm
các kĩ năng sống. Các em tự tin, chủ động khi tham gia các hoạt động tập thể;
tham gia tích cực các hoạt động xã hội vì cộng đồng, hoạt động đền ơn đáp
nghĩa…
Các em biết chăm sóc giữ gìn sức khỏe cho bản thân, biết giữ gìn vệ sinh cá
nhân, vệ sinh lớp học, vệ sinh sân trường, đi vệ sinh đúng cách … góp phần làm
cho khn viên trường, lớp học ln sạch, đẹp, thống mát. Các em duy trì và làm
các công việc trong lớp với tinh thần tự giác rất cao. Các em biết tham gia giao
thông đúng luật, vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương tích…
Trang 15



Khi về nhà, các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình. Với
bạn bè hồ đồng vui vẻ. Khi nói năng tự tin, lịch sự, nhã nhặn với bạn bè, lễ phép
với thầy cô. Các em đã biết cách xưng hơ thân thiện, biết hịa đồng, đặt lợi ích tập
thể lớp lên trên lợi ích cá nhân; Biết tránh những người lạ, không để cho người lạ
tiếp cận vv... Ngồi ra, các em cịn biết lập cho mình những kế hoạch học tập ở lớp,
ở nhà và cả kế hoạch giúp đỡ những bạn học chậm. So với đầu năm học những học
sinh thụ động nhút nhát, các em đã dần mạnh dạn hơn, tự tin hơn, thân ái mạnh dạn
giao tiếp với bạn bè. Mối quan hệ bạn bè trong lớp ngày càng tốt đẹp hơn, các em
luôn biết quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong học tập.
Qua tiến hành khảo sát một số kĩ năng sống cơ bản của học sinh lớp Bốn Năm (20 học sinh) vào cuối học kì 1 - lần 2 kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
MỨC ĐỘ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN
TT Kĩ năng sống cơ bản
Có hình
Kĩ năng chưa
của học sinh lớp Năm Kĩ năng tốt
thành kĩ
tốt
năng
SL
%
SL
%
SL
%
1
Tự nhận thức của bản
2
10
12

60
6
30
thân
2
Xác định mục tiêu
3
15
12
60
5
25
3
Bảo vệ bản thân
4
20
11
55
5
25
4
Đảm nhận trách nhiệm
4
20
12
60
4
20
5
Giao tiếp

2
10
9
45
9
45
*Về phía phụ huynh học sinh
Thông qua các cuộc họp phụ huynh học sinh hoặc gặp gỡ trao đổi riêng thì
phụ huynh học sinh đã nắm bắt rõ thêm sự cần thiết phải GDKNS cho các em và
cách giáo dục phù hợp. Phụ huynh học sinh đã quan tâm hơn đến việc GDKNS cho
con em của mình khi các em ở gia đình, phụ huynh khơng chỉ nhắc các em học văn
hóa mà còn chú ý đến việc GDKNS cho các em.
Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng
hiệu quả sáng kiến này. Các giáo viên trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này
trong các HĐGDNGLL, học sinh đa số đều có kĩ năng giao tiếp - hợp tác tốt hơn:
thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực
trong cuộc sống, các em tự tin, chủ động hơn không bị quá phụ thuộc vào người
lớn mà tự tin, chủ động, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản
thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên.

3. PHẦN KẾT LUẬN
Trang 16


3.1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Kĩ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội, nó cần thiết đối
với học sinh cuối cấp Tiểu học để các em có thể ứng phó một cách tự tin, tự chủ và
hoàn thiện hành vi của bản thân trong giao tiếp, giải quyết các vấn đề của cuộc
sống, mang lại cho mỗi cá nhân cuộc sống thoải mái, lành mạnh về thể chất, tinh
thần và các mối quan hệ xã hội.

Vấn đề giáo dục kĩ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách
của người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của
người thầy. Vì vậy, để học sinh khơng thất vọng vì thầy thì trước hết “mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận
động. mỗi thầy cơ giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải hết
lòng thương yêu, gần gũi với học sinh và đặc biệt thầy cô phải gương mẫu trong
từng lời ăn tiếng nói, trong cư xử hằng ngày với học sinh với đồng nghiệp với phụ
huynh, và với cả mọi người, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
xã hội. GDKNS cho học sinh thông qua HĐNGLL là một những nội dung giáo dục
quan trọng, có được KNS sẽ giúp các em học sinh tự tin bước vào cuộc sống tương
lai. Tăng cường rèn luyện KNS cho học sinh chính là nâng chất lượng nguồn lực
đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Có thể khẳng định, đến nay các em học của tôi đã có nhiều tiến bộ trong phát
triển năng lực và phẩm chất. Thương u, cơng bằng, kiên trì và trung thực là khẩu
hiệu của bản thân tôi trong nhiều năm dạy. Mong rằng chúng ta những thầy cô hãy
biết tận dụng ưu thế cơ hội của mình để làm tốt nhiệm vụ: “Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
3.2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Đối với nhà trường, thầy cô giáo:
Nhà trường chỉ đạo giáo viên chủ động, tăng cường giáo dục kỹ năng sống
theo định hướng chung của kế hoạch HĐNGLL năm, tháng, tuần của trường; đồng
thời cũng phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của giáo viên trong việc tổ chức các
hoạt động theo đặc điểm riêng của từng lớp .
Áp dụng việc tổ chức các hoạt động GDKNS thông qua các chủ đề của cuốn
tài liệu như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng đồng cảm chia sẻ, kỹ năng tư duy tích

cực ….. cụ thể hóa bằng những câu chuyện , những trị chơi. Nội dung này được
giáo viên lồng ghép thực hiện thông qua các tiết sinh hoạt NGLL.
Trang 17


Hình thành KNS cho học sinh chính là hình thành nhân cách cho các em. Vì
vậy nội dung này cần được chú trọng thực hiện và giáo dục một cách thường
xuyên, liên tục, kết hợp hợp lý, nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế.
Giáo viên tổ chức các hoạt động lao động vệ sinh lớp, kể chuyện, biểu diễn
văn nghệ, tiểu phẩm, thi đố vui, hướng dẫn tham gia giao thông đúng cách …
trong các tiết NGLL.
Phải tạo được sự hiểu biết trong nhận thức của giáo viên và các thành viên
liên quan về giáo dục KNS. Phải làm mọi thành viên liên quan xác định rõ KNS
không phải là những gì đó phức tạp. Cần giáo dục các em từ những việc hết sức
đơn giản, gần gũi với các em,…. cần thực hiện kiên trì, quyết tâm từng bước trong
suốt quá trình giảng dạy
Phối hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội
khác trong việc giáo dục KNS cho các em.
Đối với phụ huynh học sinh:
Luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các
em, theo dõi mọi biểu hiện của các em để có sự giáo dục cho phù hợp. Tạo ra môi
trường giao tiếp lành mạnh thân thiện gần gũi ngay trong gia đình, động viên con
em tự tin bày tỏ suy nghĩ, tâm tư tình cảm hay mong muốn của mình, dạy sự hòa
đồng, ý thức trách nhiệm, dạy sự chia sẻ cảm thông… Bố mẹ cũng phải là tấm
gương cho con học tập.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện về GD KNS cho
học sinh lớp Bốn - Năm thông qua các HĐGDNGLL. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều
nhưng đề tài của tôi chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến
được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao.

Tơi xin chân thành cảm ơn !

Trang 18



×