Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

(SKKN 2022) một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn tiếng việt cho học sinh lớp 2a, trường tiểu học xuân cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.77 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN KỸ NĂNG NĨI TRONG MƠN TIẾNG VIỆT CHO
HỌC SINH LỚP 2A, TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN CAO

Người thực hiện: Lê Thị Thanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Cao
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

MỤC LỤC
TT
1

Nội dung
Mở đầu
MỤC LỤC
THANH
HÓA NĂM 2022

Trang
1


1.1
1.2


1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Các biện pháp tổ chức thực hiện
Hiệu quả của SKKN
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

1
2
2
2
3
3

3
6
15
16
16
17


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Năm học 2021 - 2022 diễn ra trong bối cảnh tình hình đất nước có nhiều
biến động, kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn do xảy ra đại dịch Covid-19; năm
học tiếp tục triển khai Kết luận 51 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo", tập trung triển khai Nghị quyết 88 của Quốc hội về
đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, áp dụng từ năm
học 2020 - 2021.
Những năm gần đây, UBND huyện và Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Thường Xuân tỉnh Thanh Hóa đã có những biện pháp chỉ đạo quyết liệt giúp đưa
chất lượng giáo dục huyện nhà đi lên ngang tầm với các huyện khác trong khu
vực. Vì vậy chất lượng giáo dục của huyện nhà có nhiều chuyển biến tích cực.
Kỷ cương nề nếp ở các nhà trường được chấn chỉnh, có nhiều tiến bộ, cơng tác
quản lý nhà nước ở các trường học được quan tâm và chuyển biến tốt hơn. Ý
thức trách nhiệm của đa số giáo viên trong công tác giảng dạy được nâng lên,
chất lượng giáo dục đại trà được cải thiện đáng kể. Nhiều trường đã đưa ra được
các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Tuy chất lượng giáo dục
đại trà đã có những chuyển biến tiến bộ, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng và yêu cầu về giáo dục đào tạo của huyện, chất lượng giáo dục tồn diện
cịn chênh lệnh giữa các vùng miền.

Trong đó giáo dục ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng. Các kiến
thức được truyền thụ một cách toàn diện và phong phú, nhằm cung cấp cho học
sinh những kiến thức và kĩ năng ban đầu rất cơ bản, tạo cho các em tính chủ
động, linh hoạt, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với cuộc sống xã hội, đồng thời nó
là cơ sở cho các em tiếp tục học lên các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của
bậc Tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống.
Môn Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình
Tiểu học. Phân mơn Đọc trong bộ mơn Tiếng Việt giữ một vị trí vơ cùng quan
trọng. Mơn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học, trang bị
cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà trường.
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một mối quan
hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được công cụ
ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên trong
các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi.
Trên thực tế dạy học Tiếng Việt và đánh giá học sinh theo thơng tư 27/TTBGDĐT, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động luyện
nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Các em chưa mạnh dạn,tự tin


2
khi nói hoặc chưa thể diễn đạt được nội dung cần nói (do vốn kĩ năng ngơn ngữ
cịn ít). Chính vì vậy ngay từ đầu năm học 2021- 2022 tơi được phân công giảng dạy
lớp 2A. Sau khi nhận lớp và tổ chức dạy học cho học sinh tôi nhận thấy: Việc tổ
chức luyện nói cho học sinh trong học Tiếng Việt cịn gặp nhiều khó khăn và kết
quả học tập chưa cao. Giáo viên thường đưa ra gợi ý, đa phần học sinh nhắc lại
các câu mẫu của giáo viên chỉ có một số rất ít nói được theo cách riêng của
mình. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt, phát huy quan điểm dạy
học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải có những biện pháp cụ
thể để tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh ngay trong giờ học Tiếng Việt.
Vì những lí do trên, tơi đã tìm tịi, nghiên cứu và đưa ra “Một số biện
pháp rèn kĩ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2A, trường

Tiểu học Xuân Cao, huyện Thường Xuân” để trao đổi với các bạn đồng
nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao kĩ năng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và dạy học
rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2A nói riêng.
Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh
dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen
dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức
của bản thân. Trước những vấn đề mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói,
lời phát biểu, trả lời các câu hỏi theo nội dung bài học, khả năng giao tiếp với
mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về chương trình, nội dung sách giáo khoa, đối tượng
học sinh và việc thực hiện mục tiêu dạy học lớp 2 hiện nay .
“Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2A, trường Tiểu
học Xuân Cao, huyện Thường Xuân”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
* Nghiên cứu lí luận:
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung
đề tài
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo
* Nghiên cứu thực tế :
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về cách dạy học rèn kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2.


3
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.Chủ yếu rút ra từ thực
tế kinh nghiệm của bản thân và các bạn đồng nghiệp qua quan sát, thực hành, kiểm

tra, đối chiếu chất lượng.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu phương pháp quan sát, thu thập
thơng tin.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

Nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2021-2022 là: Nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý giáo
dục; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy
mạnh giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh; nâng cao chất
lượng dạy ngoại ngữ.
Nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực chủ
động tính sáng tạo của học sinh, đảm bảo nguyên tắc (Dạy học thông qua cách
tổ chức các hoạt động học tập của học sinh), trong những năm gần đây giáo viên
Tiểu học đã được tập huấn, được triển khai rất nhiều phương pháp, biện pháp tổ
chức lớp học. Qua q trình đổi mới, giáo viên có nhiều sự lựa chọn trong việc
tổ chức các hoạt động dạy học, phù hợp tâm sinh lý lửa tuổi học sinh.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thơng, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính
thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt
có vai trị cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi
con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt Tiểu học ngồi việc cung cấp
kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt cịn phải giúp học sinh giao
tiếp tốt trong mơi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng,
nắm rõ vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngơn ngữ, lời nói là trao đổi
thơng tin, đóng vai trị biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hố, tính nết của
con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay từ nhỏ, từ
các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng mực, lịch sự
trong khi giao tiếp. Ông cha ta thường răn dạy con cháu qua các câu ca dao, tục

ngữ như: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”; “ Lời nói khơng mất tiền mua, Lựa
lời mà nói cho vừa lịng nhau”. Hay câu: “ Chim khơn kêu tiếng rảnh rang, Người
khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Ngoài ra, việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng
giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực và trong công việc.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Thuận lợi


4
- Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tới việc nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường. Nhà trường có tập thể cán bộ giáo viên ln đồn kết
và có chun mơn vững vàng, nhiệt tình trong cơng tác.
- Nhà trường là một trong các trường tiểu học thuộc chương trình Phát
triển vùng của Dự án Tầm nhìn thế giới nên bản thân cũng được tiếp thu nhiều
phương pháp dạy học tích cực của dự án.
- Cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư tương đối đầy đủ, đảm bảo
cơ bản cho công tác giảng dạy.
2.2.2. Khó khăn
* Về giáo viên:
- Nhiều giáo viên cịn hạn chế về kĩ thuật nói do ảnh hưởng của phương
ngữ (thanh hỏi/ thanh ngã, âm tr/ch, s/x,...) nên không tự tin làm mẫu.
- Một số giáo viên vẫn chưa tổ chức được các hình thức dạy học một cách
linh hoạt tạo hứng thú cho học sinh.
- Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về nghi thức lời
nói cũng như viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Một số giáo
viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp dạy học cịn đơn
điệu, rập khn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng tạo, chưa linh hoạt,
chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến sửa câu, cách dùng từ
đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ít sáng tạo.
- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí, mơi trường

sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp
phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay trả
lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngơn ngữ, vì
sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vơ tình giáo
viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
* Về học sinh:
- Đơn vị trường đóng tại xã thuộc vùng kinh tế khó khăn. Số hộ nghèo
còn nhiều. Học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 50%. Đa phần bố mẹ đi làm ăn
xa nên không có thời gian kèm cặp con em mình.
- Tổng số học sinh lớp 2A là 32 em thì có đến 22 em là con em dân tộc
thiểu số ( chiếm 68,8%) nên các em thường phát âm sai (theo tiếng của dân tộc
mình) dẫn đến giao tiếp bằng ngơn ngữ nói chưa đúng. Cụ thể các em thường
mắc lỡi như:
+ Các lỗi về thanh: thanh hỏi / thanh ngã ( đây là lỗi phát âm của hầu hết
các em).


5
+ Lỗi khi phát âm: Các em là học sinh dân tộc nên thường sai các âm o/ô,
s/ th,vần au/âu.. (con ong/ con ông; thầy giáo/ sầy giáo, cây cau/cây câu, l/ v ...)
- Lỗi dùng từ, cách thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ khi thể hiện lời nói.
Ngơn ngữ của học sinh mang bản sắc địa phương, nhiều em còn bỡ ngỡ, lúng
túng khi thực hiện hoạt động nói. Đặc biệt là khi nói theo chủ đề, nói về một nội
dung nhất định. Các em gặp khó khăn khi lựa chọn từ ngữ, sắp xếp từ ngữ đó
thành câu và sắp xếp các ý cần nói. Vì vậy, các em chưa chủ động nói mà chỉ nói
khi được hỏi (trả lời câu hỏi). Học sinh lớp 2 chưa có vốn từ phong phú, chưa sử
dụng từ linh hoạt, việc nắm nghĩa của từ còn hạn chế. Việc vận dụng từ ngữ để
đặt câu, tạo đoạn còn chưa linh hoạt, các ý cần nói chưa có sự chọn lọc và sắp
xếp theo một trật tự từ lơ gíc hợp lí. Vì vậy, các em thường nói tự do, nói khơng
đủ câu, đủ ý, diễn đạt chưa mạch lạc, thường ngắc ngứ, lúng túng, bế tắc khi

trình bày một vấn đề khó, cần huy động vốn từ lớn. Các em nói tự do theo
suy nghĩ của mình, khơng chú ý tới cách thức nói, nghi thức nói và nội dung,
mục đích của mình.
Hơn nữa tâm lý của các em học sinh lớp 2 thường nhút nhát, không tự tin,
sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, trước những nơi đơng người. Điều đó
dẫn đến hiệu quả giao tiếp bị hạn chế. Trước tình hình đó vào đầu tháng 9 năm
học 2021-2022 tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng để tìm biện pháp khắc phục
những tồn tại trên.
2.2.3. Khảo sát thực tế
Để chuẩn bị cho việc dạy thực nghiệm, ngay từ đầu năm học 2021-2022,
tôi đã cho học sinh làm một số bài tập về luyện nói. Kết quả thu được như sau:

Lớp

2A

HS nói đúng,
Học sinh nói
Sĩ nói hay (nói có
trơi trảy, rõ
Số kèm theo ngữ
ràng, diễn đạt
HS điệu, có cử
được nội dung
chỉ, điệu bộ)

32

HS hiểu nội
Học sinh nói

dung câu hỏi khơng đủ câu, đủ
nhưng trả lời ý, diễn đạt còn
còn ngượng
ngắc ngứ, lúng
ngùng
túng.

SL

TL(%)

SL

TL(%
)

SL

TL(%
)

SL

TL(%)

5

15,6%

7


21,8%

11

34,5%

9

28,1%

Qua khảo sát cho thấy số học sinh nói đúng, nói hay, nói trơi chảy chưa
nhiều mà số học sinh diễn đạt câu còn ngắc ngứ, lúng túng còn cao. Từ thực tế
giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tơi xin trình bày một số biện pháp cụ thể
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tiếng Việt.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


6
2.3.1 Biện pháp 1: Phân nhóm học sinh.
Ở biện pháp này tôi sử dụng phương pháp quan sát, thu thập thơng tin, tơi
đã xử lí những thơng tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những biện pháp
thực hiện sau:
Tơi tiến hành phân chia học sinh theo các nhóm:
Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, khi giao tiếp biết
thể hiện lời nói biểu cảm, lịch sự ( Gồm các em:Kim Ngân, Quỳnh Như, Công
Nhất, Hà Đạo, Bảo An). Những học sinh này tôi phân làm nhóm trưởng của các
nhóm trong lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng
Việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. Những em này là người dẫn
chương trình trong các giờ luyện nói.

Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy, lịch sự
nhưng chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp. ( Gồm các em:
Ly,Trâm, Khánh, Mai, Long, Thành, Mai, Loan,…).
Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp cịn
lúng túng, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng cộc
lốc, chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu. ( Gồm các em: Trà My, Thiên Nhi, Lan, Đức
Anh, Tuấn, Chung,…).
Ví dụ: Trong tiết nói và nghe: Họa mi, vẹt và quạ (Tiếng Việt 2, tập 1 Trang 65- Sách kết nối tri thức với cuộc sống)
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh:
+ Phân vai theo từng nhân vật.
- Người dẫn chuyện: Chọn học sinh nhóm 1.
- Các nhân vật:Họa mi,vẹt,quạ chọn học sinh ở nhóm 2 hoặc nhóm 3
- Giáo viên gọi từng nhóm lên thực hiện nhiệm vụ của mình.
2.3.2. Biện pháp 2: Giúp học sinh luyện nói thơng qua hệ thống bài tập.
Với biện pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện
tập “nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp
của các em ngày càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trơi chảy, mạch lạc,
lời văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác
khả năng học tập của học sinh. Chính vì vậy tơi đã xây dựng hệ thống bài tập rèn
kĩ năng nói cho học sinh dựa trên hệ thống nguyên tắc.
Khi xây dưng hệ thống bài tập cần phải đảm bảo tính hệ thống. Bài tập
được xây dựng theo hướng chú ý khai thác phát huy vốn ngôn ngữ và kinh
nghiệm giao tiếp đã có của học sinh. Nội dung bài tập được xây dựng thể hiện
yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, tức là hệ thống bài tập được xây dựng


7
và sử dụng dựa trên lí luận dạy học hiện đại - dạy học hướng vào hoạt động của
người học.
Để tham gia vào hoạt động giao tiếp tốt thì học sinh cần phải nghe, nói

tốt. Trong giao tiếp cần rèn luyện kĩ năng nói phát âm chuẩn, nói trong các tình
huống giao tiếp cụ thể, nói dựa theo câu hỏi định hướng hoặc trả lời câu hỏi, nói
theo nội dung bài học.
Trường hợp 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn.
Ở phần này, giáo viên chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các từ
tiếng khó cần rèn đọc trong phần luyện đọc ở tiết1. Lập danh sách những học
sinh phát âm chưa chuẩn để rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng, chính
xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra những ý kiến riêng
của bản thân, lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng.
Cụ thể tôi lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai
chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác.
Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn
và chính xác. Đa số học sinh trong lớp 2A do tôi làm chủ nhiệm các em thường
phát âm sai ch/ tr, x/s, r/d, các nguyên âm đôi, phát âm sai thanh hỏi, thanh ngã.
Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc tơi ln quan
tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu ch/tr, x/s, r/ d, các ngun âm đơi và từ
ngữ có chứa thanh hỏi, thanh ngã để học sinh luyện đọc nhiều. Bên cạnh đó, tùy
theo nội dung của bài học giáo viên đưa ra những trò chơi giúp hoạt động vừa
học vừa vui chơi thoải mái.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Thi đọc nhanh và đúng câu có
âm đầu, vần, thanh dễ lẫn. Giáo viên tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ, câu
văn có những âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do cách phát âm của địa
phương) rồi ghi vào mảnh giấy “ làm đề bài” thi đọc trong nhóm. Lần lượt từng
học sinh lên bốc thăm và đứng lên đọc to bài trước lớp, cả lớp nghe và đại diện
một số học sinh đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát
âm đúng. Giáo viên nhận xét, tuyên dương bạn đọc tốt.
Ví dụ minh họa:
1. Đọc phân biệt các âm đầu dễ lẫn:
a. Phân biệt ch/ tr.
Quê hương là cầu tre nho

Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng to
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.


8
b. Phân biệt x/s.
Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phịng lại xơn xao nhớ
đến những người thân ở quê.
c. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn( thanh hỏi, thanh ngã).
Kẽo cà kẽo kẹt
Bé Giang ngủ rời
Tóc bay phơ phất
Vương vương nụ cười.
Trường hợp 2: Loại bài tập tình huống
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngơn
ngữ nói. Trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đã tạo điều kiện cho
học sinh được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở
các bài Đọc, viết, nói và nghe… học sinh được chơi đóng vai, đóng kịch kể lại
theo từng chủ điểm của bài học, học sinh được tham gia chơi đóng vai ơng bà,
cha mẹ và các cháu nhỏ, người bán hàng, người mua hàng... để luyện tập các
nghi thức của lời nói (chào hỏi khi gặp mặt, chia tay, nói lời cảm ơn, xin lỡi, u
cầu đề nghị một việc gì đó...) Hoạt động này là một cách luyện tập phát triển
ngơn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa phát triển ngơn ngữ nói, vừa giáo
dục tác phong văn minh, lịch sự. Để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần
dành thời gian nghiên cứu nội dung bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn
dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học sinh
của lớp mình. Ngồi ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với
từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những
đại từ xưng hơ khác nhau và những cử chỉ thể hiện khác, tùy tình huống vui

hay buồn.
Khi nói lưu ý học sinh nên thể hiện cử chỉ tình cảm để câu nói thể
hiện sự lễ phép, lịch sự.
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp
trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống
hàng ngày với một thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình
huống vì khi nói các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỡi em vì bạn đã làm bẩn áo em.
Các em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên
nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi
vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống
của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới khơng bị


9
lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ
nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thơi mà."
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ
với các em, các em chỉ cần nói có hoặc khơng. Tuy nhiên, giáo viên cần giải
thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu khơng giải thích,
các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì khơng thể phát huy được
tính tích cực, chủ động của học sinh. Cịn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp
dạng bài tập này các em sẽ nói, đáp tốt hơn. Bởi vậy giáo viên cần cho các
em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể
hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết
hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. Chính vì vậy trong q trình giảng dạy tơi
đã phân ra từng dạng bài theo từng trường hợp cụ thể. Từ đó tôi hướng dẫn

cho các em thực hành về các nghi thức lời nói kết hợp cả cử chỉ, thái độ,
tình cảm.
a) Dạng bài: Chào hoi hoặc tự giới thiệu; Đáp lại lời chào: Tôi hướng
dẫn các em khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh
mắt, nụ cười,...phải tùy từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều này cũng
chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải phù hợp với
từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên, lịch sự, cử chỉ
thân mật. Khi đáp lại lời chào, tơi hướng cho học sinh cần nói thế nào để tỏ thái
độ lịch sự, thân mật. Khi đáp lại lời tự giới thiệu cần nói thế nào để tỏ thái độ
vui vẻ, phấn khởi, đón chào.
Đối với dạng bài này tơi tổ chức cho học sinh chơi trị chơi phỏng vấn.
Trị chơi này có thể áp dụng vào bài tập 2 phần luyện viết đoạn.(Tuần 1Tiếng Việt 2, tập 1, trang 16 - Sách kết nối tri thức với cuộc sống ).
Tự giới thiệu: Câu và bài.
* Mục đích của trò chơi:
- Luyện tập cách giới thiệu về mình và về người khác với thầy cơ, bạn
bè hoặc người xung quanh.
- Phân cơng: 1 học sinh đóng vai phóng viên truyền hình, cịn 1 học sinh đóng
vai chị phụ trách, 1 học sinh đóng vai đội viên Sao Nhi Đồng... sau đó đổi vai.
- Học sinh có thể chơi trị chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.
- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng
em, giáo viên cần tổ chức cho một hoặc hai cặp học sinh làm mẫu trước lớp.


10
* Cách chơi: - Một học sinh giới thiệu về mình (tên, q qn, học
lớp, trường, thích mơn học nào, thích làm việc gì?...)
Ví dụ1: Tên tơi là: Nguyễn Hồng Nam
Quê tôi ở: xã .......
Tôi học lớp 2 Trường Tiểu học .....
Tơi thích học mơn Tiếng Việt.

Tơi rất thích hát và vẽ tranh.
- Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại
từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng
rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều học sinh tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất.
Ví dụ 2: Đáp lời chào
Bài tập 1: Nói lời của em (Tiếng Việt 2, tập 1- trang 11- Sách kết nối
tri thức với cuộc sống ).
1. Trước khi đi học, em nói lời chào bố, chào mẹ như thế nào?
2. Khi đến trường, gặp thầy cơ giáo, em nói lời chào như thế nào?
3. Khi gặp bạn bè ở trường, em nói lời chào như thế nào?
Đối với bài này tôi cho học sinh đóng vai theo cặp theo từng tình huống
đưa ra. Trước hết tơi cho cặp học sinh nói tốt làm mẫu 3 tình huống trên, sau
đó lần lượt các cặp khác lên thể hiện theo từng tình huống. Giáo viên tuyên
dương, động viên khuyến khích học sinh thể hiện tốt các tình huống đó và
đồng thời sửa chữa, uốn nắn cho học sinh còn lúng túng hoặc đưa ra cách
ứng xử chưa phù hợp. Lưu ý học sinh khi nói lời chào phải lễ phép, lịch sự
(đối với người lớn tuổi), cịn đối với bạn bè thì thân mật, cởi mở.
b) Dạng bài: Nói lời cảm ơn hay xin lỗi; Đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi.
Tôi hướng dẫn các em khi nói lời cảm ơn hay xin lỡi lời nói phải chân thành,
lịch sự, lễ phép và đi liền với cách biểu hiện tình cảm, thái độ của mình
khiến mọi người thơng cảm, bỏ qua cho lỡi của mình. Đối với dạng bài đ áp
lời cảm ơn hay đáp lời xin lỗi tôi đã gợi ý để các em biết được:
+ Đáp lời cảm ơn các em cần chú ý ngữ điệu, cách xưng hô:
- Lời người lớn tuổi: chân tình
- Lời bạn bè: lễ phép, khiêm tốn.
- Với bạn bè thân quen lời đáp cần thể hiện thái độ gần gũi, quan tâm.
- Với người lạ (khách) lời đáp cần thể hiện thái độ lịch sự, lễ phép.
+ Đáp lời xin lỗi:



11
- Với những sự việc nhỏ, khơng đáng kể thì lời đáp cần thể hiện thái độ
nhẹ nhàng, vui vẻ, sẵn sàng bỏ qua.
- Với những việc đáng buồn hay đáng tiếc xảy ra, lời đáp cần thể hiện thái
độ lịch sự, nhẹ nhàng nhưng cũng có thể kèm theo ý nhắc nhở để lần sau họ
không mắc lỗi như vậy nữa.
Với dạng bài tập này tơi sử dụng trị chơi chọn lời nói đúng để các em
luyện nói.
Trị chơi này có thể áp dụng vào các dạng bài: Cảm ơn, xin lỗi ,đáp lời
cảm ơn,..( Tuần 29, 30 - Sách kết nối tri thức với cuộc sống )
* Mục đích của trò chơi:
Luyện cho học sinh cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và
đáp lại lời cảm ơn của người khác, khi họ cảm ơn với mình.
Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm
ơn và xin lỗi bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 4 tranh minh họa (4 băng giấy ghi 4 tình huống khác nhau có xuất
hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn).
+ Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái.
+ Một bạn bị vấp ngã được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống.
- Chia nhóm: 8 HS/nhóm.
- 1 túi sách to dựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống.
- Cử 2 HS giúp việc cho giáo viên.
* Cách chơi: - Mỡi nhóm cử 2 học sinh tham gia trị chơi ở tình
huống 1 lên trước bảng lớp để học sinh khác theo dõi.
- Học sinh đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trị chơi đóng vai
ở mỡi tình huống đã cho trong khoảng 1 phút.

Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai
bạn gái đang xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một
học sinh đóng vai bạn trai đến bên cạnh bạn gái và nói: "Bạn để mình xách
đỡ cho nào!" rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: "Cảm ơn bạn,
bạn tốt quá!" Bạn trai cười tươi và nói: "Có gì đâu, việc nho thơi mà!"


12
- Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, giáo
viên yêu cầu 2 học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để
cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng.
- Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên.
Chú ý: 2 học sinh giúp việc giáo viên ghi lại câu nói của hai bạn tham
gia chơi ở từng tình huống, mỡi học sinh giúp việc cho giáo viên chỉ chuyên
ghi lại lời nói của một vai (vai "cảm ơn" hoặc vai "đáp lại lời cảm ơn").
c) Dạng bài: Nói, đáp lời chúc mừng (chia vui), chia b̀n, an ủi:
- Khi nói lời chia vui hướng dẫn các em cần chú ý: người mình chia
vui là ai? Chia vui về chuyện gì? Tình cảm, thái độ, cử chỉ khi nói phải như
thế nào cho phù hợp.
Hướng dẫn học sinh cần nói với thái độ chân thành, tự nhiên, vui vẻ
nhằm thể hiện sự chia vui hay khâm phục, tự hào, phấn khởi.
- Đáp lời chúc mừng (chia vui) cần nói thế nào để bày tỏ niềm vui của
mình và sự biết ơn đối với bạn.
Ví dụ: Mình rất vui và cảm ơn bạn nhé!
- Khi nói lời chia buồn, an ủi cần bày tỏ tình thương u, sự quan tâm,
thơng cảm với nhau. Chú ý giọng hỏi thăm phải nhẹ nhàng, tình cảm. Khi
nói lời an ủi với người trên, em cần tỏ thái độ ân cần nhưng lễ phép (thể hiện
qua giọng nói và cách xưng hơ).
Lời an ủi thể hiện sự động viên và lời đáp lại phải thể hiện sự chân thành,
làm cho con người thêm thông cảm, gần gũi nhau hơn.

Chú ý: Khi nói hay trả lời, cần nhìn vào người hỏi chuyện, nói to đủ nghe
với thái độ tự nhiên, nét mặt tươi vui.
Ví dụ: Bài tập 1 (Tiếng Việt 2, tập1 - trang 125-Sách kết nối tri thức với
cuộc sống ):
Khi cây hoa do ông (bà) trồng bị chết. Em có thể nói lời an ủi ông (bà) như sau:
- Bà ơi! Bà đừng buồn. Cháu sẽ cùng bà trồng lại cây khác, bà nhé!
- Bà đừng buồn nữa, cháu sẽ nhờ bố tìm cây khác trồng lại để bà vui.
Trường hợp 3: Loại bài tập rèn kĩ năng hội thoại.
Đối với dạng bài tập này tôi lựa chọn các đề bài phù hợp, xây dựng các
tình huống giao tiếp để kích thích hứng thú tham gia hoạt động của học sinh.
Khi sử dụng loại bài tập này tôi thường tổ chức lớp học theo nhiều hình thức: cả
lớp, nhóm, cá nhân.
Ví dụ: Thảo luận ý nghĩa của câu chuyện: “Cảm ơn anh hà mã”.


13
( Chủ điểm: Giao tiếp và kết nối - Tiếng Việt 2, tập 2- trang 86- Sách kết
nối tri thức với cuộc sống)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ câu chuyện sau đó thảo luận nhóm
đơi theo nội dung câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
- HS1:Hươu đã làm gì khi nghe dê hỏi?
- HS2: Trả lời: “Khơng biết” rồi lắc đầu bỏ đi.
- HS1:Theo bạn vì sao dê con thấy xấu hổ?
- HS2: Vì dê con đã nhận ra mình đã khơng nhớ lời cơ dặn, đã khơng nói
năng lịch sự, lễ phép nên khơng được cơ hươu và anh hà mã giúp.
- HS1: khi muốn người khác giúp đỡ thì chúng ta phải như thế nào?
- HS2: Chúng ta phải nói năng lịch sự, lễ phép.
- HS1: Khi được người khác giúp đỡ ta phải nói như thế nào?
- HS2: Khi được người khác giúp đỡ ta phải cảm ơn một cách lịch sự.
Ví dụ : Bài tập 2, Luyện nói (Tuần 21).

Đối với bài tập này tơi hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm đơi
theo hình thức một học sinh hỏi, một học sinh trả lời câu hỏi.
- HS1: Bông cúc trắng mọc ở đâu?
- HS2: Bông cúc trắng mọc ở bên bờ rào, giữa đám cỏ dại.
- HS1: Chim Sơn Ca bị nhốt ở đâu?
-HS2: Chim Sơn Ca bị nhốt ở trong lồng.
-HS1: Em làm thẻ mượn sách ở đâu?
-HS2: Em làm thẻ mượn sách ở thư viện.
Sau khi học sinh thảo luận, đại diện các nhóm lên trình bày trước lớp
theo hình thức hội thoại như trên.
Trường hợp 4: Loại bài tập nói và nghe ( kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc,
kể về bản thân và những người xung quanh ).
Trong chương trình SGK mới, phần nói và nghe thực chất là kể lại câu
chuyện. Kể chuyện là một biện pháp được sử dụng nhiều để rèn luyện kĩ năng
ngôn ngữ. Đặc biệt là ở lớp 2, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
Thơng qua kể chuyện, các em được luyện tập cả về ngữ điệu nói, thể hiện thái
độ giao tiếp cụ thể. Vì vậy, bài tập kể chuyện là một biện pháp tổ chức hoạt động
giao tiếp cho học sinh lớp 2 trong giờ học Tiếng Việt.
Đối với loại bài tập này tôi thường gọi 1 học sinh học tốt kể chuyện cho cả
lớp nghe, hướng dẫn và tập cho học sinh kể từng đoạn, kể theo vai nhân vật, kể


14
toàn bộ câu chuyện. Học sinh tập kể các chi tiết chính, kể thay lời nhân vật… kết
hợp thể hiện thái độ tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn
ngữ hỗ trợ, đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể.
Ở đọc, ngoài việc rèn cho học sinh có kĩ năng đọc, kể tốt, cịn rèn cho học
sinh kĩ năng nói.
Qua các bài đọc chúng ta thấy ở tiết1 giáo viên rèn kĩ năng đọc cho học
sinh. Đến tiết 4 giáo viên cho học sinh kể chuyện theo một số câu hỏi gợi ý. Học

sinh kể theo cách hiểu của mình đó chính là biện pháp luyện nói cho học sinh.
Ví dụ1: Chuyện bốn mùa (Tiếng Việt 2, Tập2, Trang 11- Sách kết nối tri
thức với cuộc sống).
Tơi phân lớp thành các nhóm hướng dẫn các em phân vai theo các nhân
vật trong chuyện để dựng lại toàn bộ câu chuyện. Học sinh nhận vai, học thuộc
lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ,
động tác, giọng nói..) của nhân vật trong chuyện. Tơi tiếp tục hướng dẫn các
nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời, phối hợp với nhau một cách nhịp
nhàng, tự nhiên (chưa cần diễn xuất cụ thể). Sau đấy hướng dẫn cho các nhân
vật cách diễn xuất . Gọi các nhóm lên trình diễn trước lớp, học sinh khác nhận
xét, bình chọn những học sinh diễn tốt để biểu dương, khen thưởng.
Ví dụ2: Truyện: “Chuyện quả bầu” (Tiếng Việt 2, tập 2, trang 121- Sách
kết nối tri thức với cuộc sống )
Đối với câu chuyện này tôi cho học sinh quan sát tranh, sau đó gọi 2 học
sinh dựa theo tranh và kể nối tiếp đoạn 1 và 2 của câu chuyện. Đối với đoạn 3
học sinh tự kể lại, giáo viên có thể gợi ý:
- Người vợ sinh ra quả bầu.
- Hai người thấy có tiếng lao xao trong quả bầu.
- Những con người bé nhỏ sinh ra từ quả bầu.
Cuối cùng tôi cho 1 hoặc 2 học sinh kể lại toàn bộ câu chuyện. Chú ý học
sinh trong khi kể cần thể hiện được giọng của nhân vật kết hợp với lời nói, cử
chỉ, điệu bộ.
2.3.3. Biện pháp 3: Đảm bảo về điều kiện, cơ sở vật chất và sự phối kết
hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
2.3.3.1. Đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đờ dùng, SGK
- Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa là điều kiện tối thiểu để giúp
các em học tốt qua các phân môn Tiếng Việt.
- Đề xuất với Ban giám hiệu để mua sắm thêm trang thiết bị (tivi, máy
chiếu,..) giúp giáo viên sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng này phù hợp với từng



15
tiết dạy, các tiết dạy sẽ nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn, nâng cao chất lượng hiệu
quả của tiết học.
2.3.3.2. Làm tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo viên thường xuyên thông báo và nhận xét kết quả học tập của học
sinh tới phụ huynh học sinh thông qua phiếu nhận xét. Luôn luôn nắm bắt tình
hình học tập ở nhà của học sinh để có biện pháp phối kết hợp với gia đình phụ
đạo, bồi dưỡng học sinh kịp thời.
Giáo viên luôn phối hợp với hội khuyến học, hội phụ nữ thôn để nắm bắt
tình hình gia đình các em, tìm hiểu thêm về những nguyên nhân dẫn đến những
học sinh có khả năng giao tiếp cịn hạn chế, chưa mạnh dạn khi nói trước đám
đơng, chưa tự tin khi thực hành nói trong các phân mơn của mơn Tiếng Việt, từ
đó giáo viên tìm giải pháp để giúp đỡ các em tiến bộ.
Tìm ra những tồn tại của học sinh để từ đó giáo viên có biện pháp khắc
phục từng lỡi sai của học sinh qua các tiết dạy trên lớp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Ngay sau khi khảo sát đầu năm học 2021 - 2022 xong, tôi đã áp dụng
những biện pháp nêu ra ở trên của đề tài vào giờ học chính khóa và các giờ
luyện Tiếng Việt ở buổi 2 để luyện nói cho học sinh, nên chất lượng học tập có
nhiều chuyển biến tích cực. Kết quả đạt được cụ thể về phần luyện nói trong
mơn Tiếng Việt (tính đến tháng 3/2022).
Lớ Sĩ
p
Số

2A

HS nói đúng,
nói hay (nói có

kèm theo ngữ
điệu, có cử
chỉ, điệu bộ)

Học sinh nói
trơi trảy, rõ
ràng, diễn đạt
được nội dung

HS hiểu nội
dung câu hỏi
nhưng trả lời
cịn
ngượng
ngùng

Học sinh nói
khơng đủ câu, đủ
ý, diễn đạt còn
ngắc ngứ, lúng
túng.

SL

TL(%)

SL

TL(%)


SL

TL(%)

SL

11

34,4%

13

40,6%

8

25%

0

TL(%)

32
0

Với kết quả đạt được trong mỡi năm học, tơi nhận thấy mình đã tìm được
hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn
Tiếng Việt. Tôi đã mạnh dạn thực hiện những biện pháp kinh nghiệm của mình
vào các tiết dạy của phân mơn Tiếng Việt. Đầu năm học, khi mới bước vào học
Tiếng Việt có khơng ít học sinh lớp tôi rất “sợ” học môn này nhưng với sự động

viên, dìu dắt của giáo viên, dần dần các em có hứng thú học hơn. Thay vào đó
học sinh rất phấn khởi chờ đón tiết học này. Các em đã có ý thức hơn trong các
giờ học, đã tự tin và hứng thú học tập hơn. Chất lượng học tập có chuyển biến rõ


16
rệt. Đa số học sinh đã biết đọc đúng, đọc hay và diễn cảm, biết thể hiện sắc thái
khi đọc bài. Đặc biệt là đã bộc lộ được sắc thái riêng biệt khi giao tiếp.
Đó chính là động lực thúc đẩy tôi ngày càng nổ lực phấn đấu hơn nữa
trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sự thành công của bài học phụ thuộc vào việc lựa chọn phương pháp
nhằm đạt hiệu quả cao, phụ thuộc vào trình độ, nghệ thuật sư phạm, lịng nhiệt
tình, vốn sống của giáo viên.
Đối với mỡi loại kiến thức có những u cầu riêng cần đạt và những
phương pháp thích hợp mà giáo viên biết vận dụng trong điều kiện cụ thể giúp
học sinh sáng tạo, chủ động khi tiếp thu kiến thức có hiệu quả.
Giáo viên và cán bộ quản lí nhà trường cần nắm được những yêu cầu và
quy trình đổi mới các phương pháp dạy và học, đặc biệt cán bộ quản lí chịu
trách nhiệm trực tiếp việc này cần quan tâm và đặt vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học ở đúng tầm của nó trong sự phối hợp các hoạt động chuyên môn của
nhà trường. Ban Giám hiệu cần trân trọng ủng hộ, khuyến khích mỡi sáng kiến,
cải tiến dù nhỏ của giáo viên và cũng cần thiết hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận
dụng các phương pháp dạy học thích hợp, với mơn học, đặc điểm học sinh, điều
kiện dạy và học ở địa phương, làm cho hoạt động đổi mới phương pháp dạy học
ngày càng được mở rộng và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đổi mới phương pháp
dạy và học khơng có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận
dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm
dạy học tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại. Đặc biệt cần chú trọng

đến cách rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh.
*Theo kinh nghiệm của bản thân và qua trao đổi với đồng nghiệp, tôi
muốn nhấn mạnh một số biện pháp khi rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong
mơn Tiếng Việt mà người giáo viên cần chú ý:
Trước hết người thầy phải tâm huyết với nghề, ln tìm tịi, phải thật sự
chịu khó, u nghề, u thích cơng việc thì mới đạt hiệu quả cao trong công
cuộc trồng người.
Nắm chắc hiểu rõ những vấn đề kiến thức của mơn học. Từ đó có những
sáng tạo, cải tiến về phương pháp sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể, từng
đối tượng học sinh.
Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu, vật thật có liên quan đến bài dạy.
Biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng
kể, lời nhân vật, nói thành câu.


17
Thông qua hệ thống bài tập trong giờ học Tiếng Việt ở lớp 2 sẽ giúp các
em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, qua đó hình thành và phát triển năng
lực tư duy ngôn ngữ cho các em: Thơng qua các dạng bài tập cịn giúp các em có
khả năng diễn đạt mạch lạc, chính xác và nhất là gây hứng thú học tập, tạo niềm
tin, lòng say mê học tập. Từ đó rèn đức tính chăm chỉ, tự tin, năng động, sáng
tạo góp phần rèn đức tính, phẩm chất và phong cách làm việc của người lao
động mới cho học sinh từ những ngày đi học.
Kết hợp tốt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học làm cho tiết học
trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên đạt hiệu quả cao.
Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết dạy ngoại khoá, các
buổi sinh hoạt tập thể với nhiều chủ đề, nội dung phong phú, đa dạng về hình
thức tổ chức để cuốn hút các em tham gia.
Liên hệ thực tế, thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn
cuộc sống hàng ngày và luyện tập lâu dài để trở thành những thói quen tích cực

và bền vững.
3.2. Kiến nghị
Nhà trường kết hợp với thầy cô Tổng phụ trách Đội phát động các phong
trào “Nói lời hay ý đẹp”. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa để các em giao lưu
học hỏi lẫn nhau. Có tuyên dương và động viên những cá nhân, tập thể có nhiều
học sinh sáng kiến trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè trong nhà trường và mọi
người xung quanh.
Tổ chức các cuộc thi hùng biện trong các ngày lễ như 20/11, 22/12… phù
hợp với cấp học của các em từ tổ, khối đến nhà trường để các em mạnh dạn hơn
trong giao tiếp.
Nhà trường trang bị thêm một số thiết bị dạy học (Tivi, máy chiếu,…), tài
liệu tham khảo về các tình huống giao tiếp để công tác giảng dạy được hấp dẫn
và thuận lợi hơn nhằm nâng cao kĩ năng luyện nói cho học sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân về “Một số biện pháp

rèn kĩ năng nói trong mơn TiếngViệt cho học sinh lớp 2A” mà tôi đã áp
dụng có hiệu quả trong lớp tơi chủ nhiệm. Tuy nhiên để thành cơng hơn nữa,
tơi mong nhận được những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, hội đồng khoa học
các cấp để sáng kiến này được áp dụng rộng rãi và thực sự có hiệu quả.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xuân Cao, ngày 17 tháng 3 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của


18
người khác.

Người viết

Lê Thị Thanh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt 2- Tập một- Bùi Mạnh Hùng (Tổng chủ biên kiêm chủ biên), Nxb
Giáo dục Việt Nam- Năm 2021 (Kết nối tri thức với cuộc sống)


19
2. Tiếng Việt 2- Tập hai- Bùi Mạnh Hùng (Tổng chủ biên kiêm chủ biên), Nxb
Giáo dục Việt Nam- Năm 2021( Kết nối tri thức với cuộc sống)
3.Sách giáo viên Tiếng việt 2-tập 1,2- Nxb Giáo dục Việt Nam- Năm 2021
( Sách kết nối tri thức với cuộc sống)
4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt- Lê Phương Nga , Đỗ Xuân Thảo ,Lê Hữu
Tỉnh - Nxb Giáo dục Hà Nội, 2000.
5. Ngữ âm tiếng Việt- Đoàn Thiện Thuật - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội- 2003
.



×