Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn tiếng việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.7 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là bộ môn quan trọng trong chương trình Tiểu học. Môn Tiếng
Việt góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện thế hệ trẻ. Việc dạy
học Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử
dụng Tiếng Việt văn hoá hiện đại, để suy nghĩ, giao tiếp và học tập, giáo dục cho
các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng, lành mạnh. Trong môn Tiếng Việt
muốn “ Phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, người thầy cần biết tổ chức
cho học sinh được “Tự bộc lộ” năng lực nhận thức và hành động qua các kỹ
năng nghe, đọc, nói, viết cùng với sự hợp tác trong học tập của bạn bè.
Trong 4 kỹ năng trên, nói là một hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con
người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần
đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin
đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động
giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1 sách giáo khoa đã rất chú
trọng đến việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. Nói là một trong
4 kỹ năng cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn
thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển
ngôn ngữ nói. Luyện nói tốt tức là cơ sở nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ
nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Ngoài ra, luyện nói cho học sinh, sẽ
giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ ngữ
trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy trí tưởng tượng về ngôn
ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể ,biết ứng xử và nhận xét sự
vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ của con
mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần
phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ
cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của mình,
nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình
giao tiếp.
Vì vậy với mong muốn nâng cao chất lượng đại trà ở môn Tiếng Việt mà cụ
thể là rèn kỹ năng nói cho các em lớp 1 bản thân tôi đã học hỏi đồng nghiệp, tự


nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp rèn kỹ năng nói trong môn
Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Nh©n” .
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp,
rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong
sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình. Bên cạnh đó
giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén,
bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1. Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự
1


tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý tưởng trước đám đông, thành công trong
công việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp
các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã hội.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Các giải pháp rèn kỹ năng luyện nói cho 21 học sinh lớp 1B trường Tiểu
học Nga Nh©n, huyện Nga sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
a. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Khi nghiên cứu phương pháp này tôi đã nghiên cứu các tài liệu, giáo trình
có liên quan như: SGK Tiếng Việt lớp 1, SGV Tiếng Việt 1, đổi mới PPDH
Tiếng Việt, Chuẩn kiến thức và kĩ năng các tài liệu có liên quan về Tiếng Việt...
Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh mô hình hoá để rút ra
những vấn đề lí luận có tính định hướng làm cơ sở để giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu.
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nghiên cứu điều tra thực tiễn qua dự giờ, phiếu điều tra, qua phỏng vấn học
sinh và giáo viên để làm nền cho quá trình nghiên cứu, đề ra những giải pháp
mang tính khả thi nhất.

c. Phương pháp điều tra:
Thông qua việc trao đổi với đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh và học
sinh nhằm nắm bắt thu thập tài liệu, các thông tin về tình hình thực tế có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu. Tìm hiểu thực trạng về những lỗi học sinh thường
mắc phải, từ đó phát hiện các vấn đề cần nghiên cứu và chuẩn bị cho các bước
nghiên cứu tiếp theo.
d. Phương pháp đàm thoại:
Trao đổi với đồng nghiệp về những thuận lợi, khó khăn trong dạy học và
cách sử dụng phương pháp hiện nay.
e. Phương pháp quan sát:
Thông qua các tiết dự giờ, thao giảng trên lớp có thể quan sát trực tiếp tình
hình học tập của học sinh trong một tiết học qua đó biết được khả năng tiếp thu
bài, nắm bắt kiến thức qua bài làm của học sinh. Bên cạnh đó học hỏi đồng
nghiệp và chỉ ra những hạn chế trong giảng dạy của giáo viên.
g. Phương pháp thực nghiệm:
Để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các bài đã thiết kế qua các bài
điều chỉnh cho hợp lí nhằm đạt kết quả cao trong dạy và học cũng như trong rèn
kỹ năng cho học sinh.
h. Xử lí tài liệu bằng PP thống kê.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận.
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người,
ngôn ngữ nói có tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin và đóng vai trò biểu hiện
tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng để biểu lộ văn hóa, tính
cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được Ông cha ta
rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Bên cạnh đó, với trẻ em, đây

là lứa tuổi đang dần hình thành nhân cách. Chính vì vậy, ngay từ khi các em còn
rất nhỏ chúng ta đã chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói”. Mặt khác, như
chúng ta đều biết, ngay từ những ngày đầu tiên trẻ cắp sách tới trường, trẻ đã
được giáo dục đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương châm “Tiên học lễ,
hậu học văn”. Do vậy, từ các lớp đầu cấp tiểu học chúng ta cần rèn cho trẻ biết
nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế
mà chúng ta cần rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với mọi người và khi
nói trước tập thể đông người.
Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học,
dạy tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan
trọng là dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc
thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể
thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện
với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong
công việc. Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói
năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao
tiếp với mọi người xung quanh thì ngay từ các lớp đầu cấp của tiểu học chúng ta
cần rèn cho học sinh kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt là điều rất quan trọng
mà chúng ta cần phải thực hiện. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới
phương pháp dạy và học là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo,
tích cực học tập của học sinh. Theo tôi môn Tiếng Việt là môn học rất cần phải
tạo điều kiện cho học sinh tự giác trong luyện tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm
lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Qua thực
tế giảng dạy, theo bản thân nhận thấy “Rèn kĩ năng nói trong môn Tiếng Việt cho
học sinh lớp 1” là điều hết sức cần thiết và quan trọng.
2.2 Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng của giáo viên:
* Ưu điểm:
Giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một
cách cơ bản. Đa số giáo viên đều tận tâm trong giảng dạy, chăm lo đến chất

lượng học sinh, cũng như việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả. Sự chỉ
đạo chuyên môn của phòng giáo dục, Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn có vai
trò tích cực giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tiếng
Việt.
Bản thân tôi đã nhiều năm liền dạy lớp 1, ít nhiều cũng đúc rút được
chút kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhiều năm nay, ở trường Tiểu học Nga
3


Nhân, chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt nói chung và việc rèn kỹ năng
nói cho học sinh đã được nâng lên. Bởi dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà
trường, đội ngũ giáo viên đã đổi mới phương pháp giảng dạy đó là phát huy tính
tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập.
* Tồn tại:
- Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ
chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho
hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh
tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà
thôi. Đa số các đồng chí trong thao giảng hoặc các tiết dự giờ rất ngại dạy các
tiết 2 của bài Tiếng Việt. Bởi vì tiết 2 có hoạt động luyện nói cho học sinh.
- Chưa phân loại đối tượng học sinh để đưa câu hỏi cho phù hợp với đối
tượng. Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi
dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,
giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời chứ chưa biết bằng các câu hỏi gợi mở
để giúp học sinh khá, giỏi có thể nói được những câu có hình ảnh hơn.
- Trong phần luyện nói giáo viên chủ yếu sử dụng các hình ảnh có sẵn trong
SGK chứ chưa sưu tầm thêm các loại tranh ảnh khác phục vụ cho bài luyện nói
đạt kết quả cao hơn.
- Giáo viên nghiên cứu nội dung của chủ đề luyện nói, và tranh phục vụ cho
bài luyện nói chưa kỹ.

- GV cũng chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói hiệu quả.
GV chưa có biện pháp kiểm soát kết quả HS luyện nói theo nhóm khiến việc tổ
chức cho HS hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả.
2.2..2. Đối với phụ huynh:
Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con
cái, giao việc học tập của con em cho nhà trường. Mặt khác, một số phụ huynh
điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn không có điều kiện chăm lo cho con em
học tập, ở nhà các em còn phải làm nhiều việc phụ giúp gia đình vì vậy các em
đến trường thường trong trạng thái mệt mỏi, uể oải. Một số phụ huynh đi làm ăn
xa phải gửi con cho ông bà, cô bác trông hộ. Các em trong đối tượng này thì bị
thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên khi học thường không chú tâm vào việc học
tập.
2.2.3. Thực trạng học của học sinh:
- Các em chủ yếu là con em vùng nông thôn nên các em còn hạn chế về vốn
sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói
gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học.
- Trong giờ học chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi khi giáo viên
nêu yêu cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc

4


chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ
chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không?
- Nhiều em còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu
trả lời hay cho chính mình.
- Trong quá trình giao tiếp đó các em thường nói không đủ câu, không đủ ý
và không được ai giúp đỡ chỉnh sửa cách giao tiếp cho phù hợp. Khi đến lớp các
em thường nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
Trước những thực trạng mà thực tế dạy học của khối lớp 1 trong các năm

trước, sau 2 tháng dạy học tôi khảo sát kỹ năng nói của học sinh lớp 1B đầu
năm học 2017- 2018 kết quả thu được như sau:

Sĩ số học sinh

21

Sồ học sinh nói
tốt

Sồ học sinh nói
đạt yêu cầu

Số HS nói chưa đạt
yêu cầu

(Nói thành câu,
thành đoạn)

(Nói đủ câu, lưu
loát, đúng chủ đề)

(Nói chưa đủ câu, nói
chưa lưu loát, chưa
đúng chủ đề)

số
lượng

Tỉ lệ


số
lượng

Tỉ lệ

số
lượng

tỉ lệ

3

10,7%

9

32,1%

9

32,1%

Vậy làm sao để khắc phục được những thực trạng và nguyên nhân cơ bản
nêu trên để giúp các em làm đúng và nắm vững kiến thức, phục vụ cho việc học
tập của học sinh đạt kết quả tốt bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ và tìm hiểu,
nghiên cứu tài liệu, học hỏi ở một số đồng nghiệp có kinh nghiệm cùng với một
số kinh nghiệm của bản thân, tôi đã tìm ra các biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp
khi dạy học sinh trong giờ học Tiếng Việt lớp 1 ở năm học 2017 – 2018. Cách làm
này nhằm nâng cao kỹ năng nói trong dạy học phân môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu

học nói chung và lớp 1B trường Tiểu học Nga Nhân nói riêng.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Giải pháp 1: Nghiên cứu nội dung, yêu cầu chương trình môn Tiếng Việt
lớp 1.
Để giúp HS luyện nói một cách có hiệu quả trước hết người giáo viên cần
nghiên cứu toàn bộ nội dung chương trình phân môn học vần - Tập đọc lớp 1.
Hệ thống lại toàn bộ các chủ đề luyện nói, nghiên cứu kỹ nội dung của từng chủ
đề, xác định rõ mục tiêu chính của các chủ đề luyện nói. Nghiên cứu tranh, đồ
dùng, phương tiện dạy học nhằm phục vụ tốt cho bài luỵên nói, cách sử dụng
tranh cho bài luyện nói như thế nào tránh sử dụng tranh như dùng trong dạy học
các bài đạo đức.
Kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt lớp 1 được xác định như sau:
5


- Nói trong hội thoại: Nói đủ to, rõ ràng, thành câu; Biết đặt và trả lời câu
hỏi lựa chọn về đối tượng; Biết chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học.
- Nói thành bài: Kể lại một câu chuyện đơn giản đã được nghe.
Phần 1. Phần học Vần: Chương trình Học vần ở lớp 1 được học trong 24 tuần,
bao gồm 103 bài ứng với 206 tiết dạy, được phân bố trong hai tập sách: tập 1
gồm 83, tập 2 gồm 20 bài. Có thể chia nội dung dạy học Học vần làm 3 phần:
phần thứ nhất (6 bài đầu) có nội dung làm quen với chữ cái e, b, các dấu thanh;
phần thứ hai gồm 25 bài tiếp theo dành cho các chữ cái và âm (cấu trúc âm tiết
có vần là 1 nguyên âm); phần thứ ba gồm 72 bài giới thiệu vần phức tạp và các
tiếng có vần phức tạp dần. Nếu lấy mục đích của bài học làm tiêu chí phân loại,
có thể chia các bài Học vần thành 3 dạng: Dạng bài làm quen với âm và chữ
(và dấu thanh), dạng bài dạy học Âm- vần mới và dạng bài Ôn tập.
* Dạng bài thứ nhất: làm quen với âm và chữ
Ở giai đoạn này, phần luyện nói theo tranh tương đối tự do, theo chủ đề
của tranh, không gò bó trong các âm thanh vừa học. giáo viên gợi ý theo định

hướng, bằng các câu hỏi hướng dẫn học sinh nói qua những câu trả lời đơn giản,
nội dung gần gũi với trẻ em. Mục tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là
giúp học sinh làm quen với không khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, dám
mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo
viên trong môi trường giao tiếp mới- giao tiếp văn hóa, giao tiếp học đường.
Ví dụ:
Phần luyện nói bài 1. e
- Giáo viên nêu nhưng câu hỏi :
+ Quan sát tranh, các em thấy những gì? Các bạn nhỏ trong bức tranh
đang học gi?
+ Các bức tranh đầu chó điểm chung là gì?...
Kết thúc phần luyện nói giáo viên hỏi: Học là cần thiết nhưng rất vui. Ai
ai cũng phải đi học và học hành chăm chỉ. Vậy lớp ta có thích đi học đều và học
tập chăm chỉ không?
Phần luyện nói bài 3. bé
- Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi gợi ý:
+ Quan sát tranh em thấy những gì?
+ Các bức tranh này có gì giống và có gì khác nhau
+ Em thích bức tranh nào nhất? Vì sao?
- GV phát triển chủ đề luyện nói:
+ Ngoài các hoạt động kể trên, em và các bạn còn những hoạt động nào
khác?
+ Ngoài giờ học tập, em thích làm gì nhất?...
* Dạng bài thứ hai: Dạy - học âm vần mới.
Giáo viên dựa vào chủ đề gợi ý trong tranh tiến hành linh hoạt tùy theo
trình độ học sinh, nhằm đạt được yêu cầu: nói về chủ đề trong sách giáo khoa,
chú ý đến các từ ngữ có âm vần mới học, từ đó mở rộng cả những từ ngữ có âm
vần chưa học. Chú ý nói theo định hướng, bằng câu hỏi của giáo viên, học sinh
có thể nói được những câu đơn giản, có nội dung gần gũi với cuộc sống xung
quanh các em.

6


Ví dụ: Dạy phần luyện nói Bài 30: ua - a
Chủ đề luyện nói: Gi÷a tra
Tôi đã đưa ra các câu hỏi gợi ý theo tranh để học sinh có điểm tựa luyện nói:
- Trong tranh vẽ gì?
- Tại sao em biết đây là bức tranh vẽ giữa trưa mùa hè?
- Giữa trưa, là lúc mấy giờ?
- Buổi trưa, mọi người thường ở đâu và làm gì?
- Buổi trưa, em và các bạn thường làm gì?
- Tại sao trẻ em không nên chơi đùa vào buổi trưa?
* Dạng bài thứ ba: Ôn tập âm, vần
Ở dạng bài này không có phần luyện nói như ở 2 dạng bài trên mà luyện
nói thông qua kể chuyện theo tranh. Nhưng giáo viên kể cho học sinh nghe là
chủ yếu. Sau phần kể chuyện, nếu còn thời gian, giáo viên đặt câu hỏi đơn giản
về nội dung câu chuyện cho học sinh trả lời.
Phần thứ 2: Phần luyện tập tổng hợp:
Gồm 13 tuần, tiếp tục phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học
sinh thông qua các loại bài: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện được cấu
trúc theo cách xen kẽ các chủ điểm: Nhà trường, gia đình, thiên nhiên – Đất
nước. Mỗi chủ điểm học trong 1 tuần. Sau 3 tuần sẽ kết thúc 1 vòng 3 chủ điểm.
Tiếp đó, các chủ điểm được nhắc lại nhưng có sự phát triển, mở rộng hoặc đổi
mới. Tuần cuối cùng( tuần 35) dành cho ôn tập- kiểm tra.
Giải pháp 2: Xây dựng hình ảnh người giáo viên có uy tín, mẫu mực kiên
nhẫn và tận tâm.
Có thể nói uy tín, mẫu mực, kiên nhẫn và tận tâm là các yếu tố đóng vai
trò quyết định trong việc hình thành cho học sinh kĩ năng nói đúng và nói chuẩn.
Học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp 1, mọi thao tác hoạt động của các
em hầu như là bắt chước giáo viên. Do vậy, muốn học sinh nói đủ to, rõ ràng,

thành câu, giáo viên phải là người nói đúng, nói chuẩn ở mọi lúc, mọi nơi. Nếu
giáo viên nói sai thì học sinh sẽ dễ làm theo cái sai ấy.
Ví dụ: Giáo viên nói “hoàn cảnh” thành “hoàng cảnh” thì học sinh cũng sẽ
nói “hoàng cảnh”.
Hoặc giáo viên nói không có ngữ điệu thì học sinh cũng sẽ không biết
cách thể hiện ngữ điệu trong lời nói.
Phần lớn các em học sinh lớp 1 còn nhút nhát, rụt rè. Do vậy, giáo viên
cần phải tạo cơ hội cho các em được thường xuyên nói trước đám đông, khen
ngợi, khuyến khích, động viên để các em tự tin hơn, cởi mở hơn khi nói trước
thầy cô, trước các bạn.
Khi dạy đọc, giáo viên phải hướng dẫn các em phát âm thật chuẩn bởi có
đọc đúng thì mới nói đúng. Nếu các em chưa phát âm đúng thì sẽ ngại khi nói vì
sợ các bạn chê cười nên không dám nói to (vừa đủ nghe), ngượng nghịu, mất tự
nhiên. Sau khi hướng dẫn, nêu yêu cầu của việc luyện nói, ban đầu giáo viên có
thể làm mẫu để học sinh biết được các em cần phải nói to, rõ ràng như thế nào,
cử chỉ điệu bộ ra làm sao.
7


Nếu từ thể hiện chủ đề luyện nói khó thì giáo viên có thể giải thích cho học
sinh hiểu ý nghĩa của từ trước khi luyện nói.
Ví dụ: Từ “lễ hội”, giáo viên có thể giải thích cho học sinh hiểu đây là một
ngày hội mang tính văn hóa dân gian, trong lễ hội có nhiều trò chơi dân gian.
Khi đã tập được cho học sinh được tác phong tự nhiên, nói to, rõ ràng,
giáo viên phải biết cách gợi ý khéo léo cho các em nói đúng chủ đề, nói thành
câu. Ban đầu, khi các em còn bỡ ngỡ, bằng phương pháp trực quan và hệ thống
câu hỏi, giáo viên gợi ý cho các em nói đúng câu phù hợp vói chủ đề.
Ví dụ: Luyện nói theo chủ đề “Mai sau khôn lớn” (Bài vần ôn-ơn)
Cho học sinh quan sát tranh vẽ về mỗi người làm một nghề khác nhau để
cung cấp cho học sinh biết về các nghề phổ biến: giáo viên, bác sĩ, công an, bộ

đội, lao công, thợ xây…
- Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi:
+ Mai sau khôn lớn em sẽ làm gì ?
HS: Mai sau khôn lớn em sẽ làm công nhân.
+ Muốn trở thành một công nhân giỏi thì bây giờ em phải làm gì?
HS: Em phải cố gắng học tập.
Như vậy, các em sẽ biết nói đúng câu, đúng chủ đề. Thông qua nội dung
này, giáo viên giáo dục các em phải làm theo các nội quy trường, lớp, có cách
học phù hợp để có kết quả học tập tốt.
Sau khi học sinh đã biết nói đủ câu, đúng chủ đề có thể cho học sinh tự
hỏi đáp với bạn mình một cách tự nhiên.
Ví dụ: Luyện nói theo chủ đề “Ngày chủ nhật” (Bài ăt-ât)
- Có thể gợi ý cho học sinh nói theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Chủ nhật bạn làm gì?
+ Trong các việc đó, bạn thích nhất việc nào?
+ Hãy kể cho mình nghe về một ngày chủ nhật mà bạn nhớ nhất?
Trong quá trình hướng dẫn học sinh luyện nói, giáo viên phải tuân theo
những thao tác sư phạm bắt buộc như:
+ Giới thiệu chủ đề luyện nói (có thể yêu cầu học sinh nêu tên chủ đề).
+ Hướng dẫn học sinh quan sát tranh của chủ đề.
+ Hướng dẫn học sinh luyện nói theo yêu cầu.
+ Cho học sinh luyện nói (với nhiều hình thức khác nhau).
Thời gian giành cho phần luyện nói trong tiết học vần (HK1) và Tập đọc
(HK2) rất ít (5-7 phút), do vậy, giáo viên cần hạn chế nói nhiều. Điều quan trọng
là giáo viên phải biết cách khơi gợi, tạo hứng thú cho học sinh nói, bộc lộ được
cảm xúc, ý nghĩa của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ngôi nhà”, phần luyện nói giáo viên phải gợi mở để
học sinh nói về ngôi nhà mình đang ở, nêu được những đặc điểm nổi bật, những
tình cảm gắn bó trong ngôi nhà của gia đình mình, và qua quan sát tranh trong
sách giáo khoa được giáo viên trình chiếu trên màn hình và qua sự gợi mở khéo

léo của cô giáo học sinh bộc lộ mơ ước về ngôi nhà trong tương lai.
8


Hoặc dạy bài “Vì bây giờ mẹ mới về” phải biết cách làm cho học sinh
hiểu yêu cầu hỏi nhau dựa trên nội dung bài đọc:
+ Bạn có hay làm nũng cha mẹ không?
+ Bạn có cho làm nũng cha mẹ là một thói xấu không?
+ Hãy kể về một lần bạn làm nũng cha mẹ?...
Từ đó, học sinh sẽ nghĩ ra những câu hỏi, câu trả lời tự nhiên, hồn nhiên,
độc đáo.
Với một vài bài đọc, yêu cầu luyện nói có thể là: nối các từ ngữ hay mệnh
đề thể hiện sự hiểu biết nội dung, nói tiếp câu dở dang. Giáo viên phải nêu yêu
cầu thật cụ thể, rõ ràng. Có thể gọi một vài học sinh khá, giỏi làm mẫu trước lớp.
Ví dụ: Nói về cây sen trong bài “Đầm sen”
- Cây sen mọc trong đầm.
- Lá sen……………….(Lá sen màu xanh thẫm)
- Cánh hoa………………(Cánh hoa màu đỏ nhạt)
Nếu các em đã nói đúng yêu cầu trong hội thoại thì việc rèn kĩ năng nói
thành bài (kể lại một câu chuyện đơn giản đã được nghe) sẽ dễ dàng và thuận lợi
hơn.
Trong quá trình học sinh luyện nói, giáo viên cần chú ý uốn nắn, sửa sai
kịp thời không chỉ về lời nói mà còn cử chỉ, điệu bộ nhất là khi các em luyện nói
thành bài.
Trong các giờ học nhất là đối với các em nói nhỏ, chưa đủ câu, giáo viên
phải thường xuyên yêu cầu các em trả lời câu hỏi, động viên, khuyến khích các
em trả lời câu hỏi, động viên, khuyến khích các em mạnh dạn hơn.
Gần gũi với học sinh, sửa sai không chỉ trong giờ học mà kể cả khi các em
giao tiếp với thầy cô, bạn bè trong giờ chơi.
Sau mỗi chủ đề luyện nói, giáo viên cần khéo léo liên hệ giáo dục kĩ năng

sống cho học sinh cách xử lí tình huống trong thực tế.
Tóm lại, để học sinh nói đủ to, rõ ràng, đúng câu, đủ ý diễn đạt, giáo viên
phải thật sự kiên nhẫn, tận tâm, tận tụy hướng dẫn. Cũng từ việc rèn nói trong
các giờ học mà giúp cho các em sớm có tính mạnh dạn, cởi mở, tự tin.
Giải pháp 3: Đề cao biện pháp dạy học cá thể hóa.
Đây là một việc làm vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiến
bộ của học sinh. Do vậy, giáo viên cần phải quan tâm đến mọi đối tượng học
sinh trong lớp học, với mỗi đối tượng cụ thể cần có các phương pháp thích hợp.
+ Đối với học sinh tiếp thu bài tốt (học sinh khá, giỏi) nói đúng, tự nhiên,
lưu loát thì giáo viên cần bồi dưỡng bằng các câu hỏi mở rộng, phân công làm
nhóm trưởng để có thể nhận xét và giúp các bạn trong nhóm sửa sai.
+ Đối với học sinh tiếp thu bài còn hơi chậm (học sinh trung bình) chỉ biết
nói theo mẫu, đúng chủ đề thì giáo viên cần tạo nhiều tình huống phù hợp với
chủ đề cho các em nói. Khuyến khích các em nói trước đám đông, giúp các em
mạnh dạn, tự tin.
9


+ Đối với học sinh tiếp thu bài chậm (học sinh yếu) cần cung cấp cho học
sinh một vốn từ thật chuẩn (qua phần tập đọc, quan sát tranh ảnh…). Giáo viên
cần hướng dẫn thật tỉ mỉ và cụ thể, không nóng vội khi các em nói sai, nói nhỏ.
Ban đầu có thể giúp học sinh nói bằng cách trả lời câu hỏi (theo mẫu).
Phần luyện nói trong tiết học là rất ít song phần này được thể hiện thường
xuyên trong từng bài. Do vậy giáo viên phải thay đổi các hình thức luyện nói để
học sinh không nhàm chán.
Tổ chức luyện nói theo chủ đề trong nhóm đôi sau đó cho các em nói ở
nhóm lớn (4 - 6 em) và mới nói trước lớp. Có như vậy các em sẽ vững vàng hơn
để tự tin hơn khi nói trước lớp.
Trong khi tổ chức hoạt động theo nhóm lớn, chú ý luân phiên nhóm trưởng
để tất cả các em trong nhóm đều được đại diện nhóm nói trước lớp.

Cần nghiên cứu nội dung của bài luyện nói để có cách tổ chức, chia nhóm
cho hợp lí có thể là nhóm nhiều trình độ hoặc nhóm cùng trình độ.
Ví dụ: Với chủ đề “Sáng sớm, chiều tối, đêm khuya” (Bài uơ-uya), có
thể chia nhóm cùng trình độ (mỗi nhóm 3 - 4 em).
+ Với nhóm học sinh tiếp thu bài tốt: ngoài việc quan sát tranh để xác
định cảnh trong tranh là cảnh của buổi nào trong ngày, hoạt động của người, vật
trong từng cảnh, tưởng tượng xem người ta còn làm gì trong các buổi này, giáo
viên còn hướng dẫn cho các em nói về công việc của em hoặc một người nào đó
trong gia đình em thường làm vào các buổi trong ngày.
+ Với nhóm học sinh tiếp thu bài còn hơi chậm: yêu cầu các em xác định
cảnh trong tranh là cảnh buổi nào, hoạt động của người và vật trong từng cảnh,
nói về công việc của em thường làm vào một buổi trong ngày.
+ Với nhóm học sinh tiếp thu bài chậm: chỉ yêu cầu các em xác định cảnh
trong tranh là cảnh buổi nào, hoạt động của người và vật trong từng cảnh.
Trong khi hoạt động nhóm, giáo viên cần thường xuyên giúp đỡ học sinh
và khen ngợi, đặc biệt là những học sinh tiếp thu bài chậm cần động viên khi các
em có sự cố gắng. Không quát nạt, gò ép…các em sẽ sợ, nói một cách miễn
cưỡng, nói lí nhí trong miệng.
Có làm được như vậy thì học sinh mới thực sự tiến bộ không chỉ kĩ năng
luyện nói mà cả những kiến thức, kĩ năng ở các môn học khác.
Giải pháp 4: Vận dụng linh hoạt kỹ năng dạy học Tiếng việt trong rèn
kỹ năng nói cho học sinh.
Đối với học sinh lớp 1 phần đa các em con vùng nông thôn nên một số
học sinh chưa qua mẫu giáo, việc nói năng của các em còn mang tính chất tự
phát. Trên thực tế học sinh lớp 1, khi trả lời giáo viên hoặc trả lời các câu hỏi bài
tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt lủn, nói trống không, không
đầy đủ câu. Mặt khác, qua nhiều lần dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi nhận
thấy khi học sinh trả lời như vậy rất ít giáo viên ý thức sửa câu trả lời cho HS.
Ví dụ: Khi dạy bài 4 về dấu hỏi.
Giáo viên đưa tranh con hổ hỏi:

10


+ Tranh vẽ gì? Thay vì phải trả lời: “Thưa cô, tranh vẽ con hổ ạ”. Thì học
sinh thường chỉ trả lời: “con hổ”.
+ Hay trong tiếng “hổ” có dấu gì ? học sinh thường trả lời: “dấu hỏi”, chứ
không phải là: “Thưa cô, trong tiếng hổ có dấu hỏi”.
Bởi lẽ do thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả năng nhớ nội
dung câu hỏi của học sinh còn hạn chế. Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu bước
chân vào lớp 1, với 6 bài học đầu tiên về âm và dấu thanh. Đồng thời áp dụng
với tất cả các tiết học khác như: toán, tự nhiên xã hội, đạo đức…Tôi bắt đầu tập
trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu
hỏi của giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 9: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan sát và hỏi:
Tranh vẽ con gì ? (cho học sinh trả lời)
Nếu học sinh trả lời “Con bß” hoặc không biết cách trả lời thì giáo viên
hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời phải
kèm theo lời thưa cô (thầy).
M: Thưa cô, tranh vẽ con bß. Sau đó cho học sinh nhắc lại.
Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại
câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đôi khi cho học sinh đọc câu trả lời
đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần
hình thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy
đủ câu. Quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất kỳ
môn học nào, sau vài lần sửa các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu.
Mặt khác, học sinh lớp 1 các em còn rất ngây thơ, trong tâm trí các em cô
giáo luôn là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Chính vì vậy mà mỗi lời nói, cử chỉ của
cô giáo luôn là tấm gương để học sinh bắt chước.
Giải pháp 5: Rèn cho học sinh kỹ năng nói thành câu, thành đoạn.
Đối với học sinh lớp 1, đặc biệt là con em vùng nông thôn thì vốn từ của

các em rất hạn chế, nghèo nàn. Chính vì vậy khi diễn đạt một vấn đề nào đó mà
các em nhìn thấy thường rất khô khan và cụt ý.
Ví dụ: Sau mỗi chủ đề luyện nói thì mục tiêu cuối cùng là học sinh phải
nói được 2 - 3 câu về chủ đề đó. Chẳng hạn như mục tiêu cuối cùng của bài
luyện nói: “Giúp đỡ cha mẹ” Bài 88 - Tiếng việt lớp 1- Tập 2 là học sinh phải
nói được: “Trong tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang
quét sân, bạn nữ đang cho gà ăn”.
Nâng cao hơn đối với học sinh nói tốt thì học sinh phải nói được: “ Trong
tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang quét sân, bạn nữ
đang cho gà ăn. Sân đã được bạn quét sạch sẽ, đàn gà đã được ăn no. Sau khi
làm được những việc để giúp đỡ cha mẹ em cảm thấy rất vui.”.
Sau khi rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu
hỏi ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Khi học sinh đã quen và đây cũng là lúc mà
các em bước vào các bài học âm vần, tập đọc bắt đầu có các chủ đề luyện nói
11


tương ứng với mỗi bài học. Giáo viên bắt đầu tiếp tục rèn cho học sinh cách
trình bày các chủ đề luyện nói thành câu, thành đoạn, đúng chủ đề luyện nói.
Ví dụ: Bài 39 chủ đề luyện nói là: Bà cháu.
Phần đa học sinh chỉ có thể nói: “Tranh vẽ bà và cháu. Bà đang kể chuyện
cho các cháu nghe”.
Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề trên, trước hết giáo
viên phải hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu hỏi gợi ý giáo viên
đưa ra:
+ Tranh vẽ gì ?
+ Người bà đang làm gì?
+ Ánh mắt bà nhìn các cháu như thế nào?
+ Các cháu đang làm gì?
+ Thái độ của bà với các cháu ra sao?

+ Ở gia đình em ai là người thường kể chuyện cổ tích cho em nghe?
+ Em yêu quý bà nhất ở điều gì?
Kết hợp với các câu hỏi làm điểm tựa để các em trả lời, khi hướng dẫn
học sinh luyện nói giáo viên phải thường xuyên chú ý cách trình bày, sửa cho
các em câu, từ, cách dùng từ ngữ để diễn đạt. Có như vậy mới hình thành cho
học sinh nền nếp, thói quen trình bày một vấn đề nào đó phải có sự lô gíc. Đây
cũng là tiền đề để học sinh có khả năng viết văn ở các lớp học tiếp theo.
Giải pháp 6. Lựa chọn hình thức, phương pháp và cách sử dụng ĐDDH
hiệu quả giúp học sinh phát huy khả năng luyện nói, nâng cao chất lượng
dạy học Tiếng Việt.
Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới
thiệu khác nhau tạo cho giờ học sinh động, gây hứng thú cho học sinh. Trong khi
dạy luyện nói cho học sinh lớp 1, giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều hình
thức, phương pháp, đồ dùng dạy học hỗ trợ, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh
chóng và hiệu quả hơn. Các em sẽ thấy hứng thú hơn khi thực hành luyện nói.
Bởi đây là giai đoạn tâm lí lứa tuổi của các em thích mới lạ nhưng cũng rất
nhanh chán. Nếu rập khuôn một cách máy móc một hình thức hướng dẫn học
sinh luyện nói dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú với hoạt động
luyện nói. Đặc biệt trong một lớp sẽ có nhiều đối tượng học sinh. Chính vì vậy
mà giáo viên cũng cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối
tượng, tuỳ nội dung từng bài.
Chẳng hạn như với các chủ đề nói về: cây cối, hoa trái …giáo viên có thể
đưa những vật thật hoặc tranh ảnh để học quan sát lấy điểm tựa để luyện nói.
Ở những bài chỉ có 1- 2 câu gợi ý sách giáo khoa, giáo viên có thể ứng
dụng Công nghệ thông tin trong một phần nội dung của tiết học (ở phần luyện
12


nói theo chủ đề ) để giúp học sinh có cơ hội được xem, được thấy những gì có
liên quan đến chủ đề mình đang học qua đó có thể hiểu và nói tốt hơn.

Ví dụ: Bài 17, chủ đề luyện nói: Thủ đô
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trên màn hình (tranh trong sách
giáo khoa giáo viên chụp lại) và nêu một số câu hỏi gợi ý:
+ Trong tranh, vẽ những gì?
+ Các em có biết cô giáo đưa học sinh đi thăm cảnh gì?(Chùa Một Cột)
+ Chùa Một Cột ở đâu? (Hà Nội)
+ Hà nội còn được gọi là gì?( Thủ đô)
+ Mỗi nước có mấy thủ đô? (GV có thể giới thiệu Hà Nội là thủ đô của
nước Việt Nam).
+ Em nào đã được đến Thủ đô? Em hãy kể một số cảnh đẹp về thủ đô
mà em biết?
Giáo viên trình chiếu một số địa điểm, cảnh đẹp ở Thủ đô Hà Nội cho học
sinh biết.

Cảnh Hồ Gươm

Bưu điện Hà Nội

Chùa một cột

Lăng Bác

Chủ đề: Hỏi-đáp về cây hoa
13


+ Trước khi học bài này, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh về
các loài cây, hoa hoặc một số loài cây thật mang đến lớp.
+ Trong quá trình dạy luyện nói, yêu cầu học sinh nói theo nhóm đôi: hỏiđáp về cây trong tranh, ảnh mà em sưu tầm được hoặc cây em đã mang đến lớp.


+ Gọi đại diện 2-3 nhóm học sinh nói trước lớp, kèm theo tranh, ảnh về
cây hoặc cây thật. Chẳng hạn:
Học sinh A: Bạn có thể cho mình biết đây là cây gì?
Học sinh B: Đó là cây hoa lan.
Học sinh A: Bạn có biết cây hoa lan sống ở đâu không?
Học sinh B: Nó sống trên thân cây, ở trong mùn đất, than củi,…
Học sinh A: Cây hoa lan có thể dùng làm gì?
Học sinh B: Hoa lan để trang trí...
Với những chủ đề gần gũi với học sinh, giáo viên gợi mở cho học sinh nói
qua vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình thức dạy học như trò
chơi học tập, sắm vai nhân vật hay thảo luận nhóm.
Ví dụ: Chủ đề nói về gia đình “Ba má”, “Bà cháu”… có thể cho học sinh
sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm,
chăm sóc em. Hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của
một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của mình.
Chủ đề: Nặn đồ chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay,
ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh… tổ chức cho học sinh tham gia
chơi trò chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp
với thời tiết…
Với những chủ đề lạ, xa với cuộc sống của các em như chủ đề: Rừng,
Suối, đèo, thung lũng; Lễ hội; Đất nước ta tuyệt đẹp; …giáo viên có thể dùng
tranh ảnh hỗ trợ giúp học sinh có thể cảm nhận, hiểu được nội dung chủ đề
luyện nói.

14


Trong khi hướng dẫn học sinh luyện nói giáo viên cũng cần chú trọng đến
việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp. Tùy từng đối tượng học sinh mà có
cách sử dụng câu hỏi gợi ý.

Đối với học sinh yếu, nói năng còn rụt rè, khi nói diễn đạt câu không hết
ý hay không diễn đạt được chủ đề luyện nói thì giáo viên sử dụng hệ thống câu
hỏi để gợi ý, hướng dẫn học sinh trả lời theo các gợi ý một cách đầy đủ, có hệ
thống theo chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề “Bữa cơm” (Bài vần ôm- ơm)
Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi:
+ Em thường ăn cơm cùng với ai?
HS: Em thường ăn cơm với ba mẹ và chị gái em.
+ Ai là người thường xuyên chuẩn bị bữa cơm cho cả gia đình?
HS: Mẹ em là người thường xuyên chuẩn bị bữa cơm cho cả gia đình?
Khi học sinh đã nói được theo chủ đề thì mới hướng dẫn các em tự hỏi và
trả lời với bạn.
Ví dụ: Chủ đề: “Biển cả” ( Bài iên- yên)
Học sinh A: Nước biển có màu gì?
Học sinh B: Nước biển có màu xanh.
Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt những
câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói.
Trọng tâm khi dạy luyện nói cho học sinh, tôi thường chú ý rèn kỹ năng
nói to, rõ tiếng, nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay và giàu cảm xúc với
một ngữ điệu tự nhiên, chân thành.
Giải pháp 7: Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội để
rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1.
Việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình có vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự tiến bộ của học sinh. Ở trường, các em được tiếp xúc, giao lưu
với thầy cô, bạn bè, các anh chị lớp trên, được tham gia vào các hoạt động của
nhà trường tổ chức. Ở nhà, các em được tiếp xúc, sinh hoạt và giao tiếp với
người thân. Vì thế phải được sự quan tâm của mọi người tạo tình huống cho các
em được nói và luyện nói thường xuyên như: chào, hỏi, xin phép, tâm sự…
Có sự liên lạc thường xuyên giữa gia đình và nhà trường nhằm chấn chỉnh,
uốn nắn kịp thời những sai lệch trong quá trình phát triển năng lực học tập của

các em. Thông qua sổ liên lạc điện tử, những buổi họp phụ huynh và những lần
giáo viên gặp gỡ trực tiếp phụ huynh học sinh cần trao đổi cụ thể và tìm ra
những giải pháp tối ưu nhất để giúp học sinh nói lưu loát, tự nhiên.
Đối với một số em là học sinh yếu nói chưa lưu loát, chưa dùng đúng từ,
đúng câu, chưa phù hợp với chủ đề khi luyện nói, giáo viên phát phiếu về gia
đình để phụ huynh luyện nói cho con em mình. Yêu cầu phụ huynh đánh số lần
15


hc sinh ó luyn núi mu cõu ú v khoanh trũn trc kt qu m hc sinh ó
t c.
Vớ d: Khi dy luyn núi v cõy hoa sen trong bi m sen.
Ni dung ca phiu nh sau:
Mu cõu cn luyn núi
Núi ni tip v cõy sen:
Cõy sen mc trong m.
Lỏ sen cú mu xanh thm.
Hoa sen cú mu o nht.
Ht sen dựng lm thuc.

S ln ó núi

Kt qu
a. Núi ỳng mu cõu,
lu loỏt, rừ rng, t nhiờn.
b. Núi ỳng mu cõu
nhng cha lu loỏt, rừ rng,
t nhiờn.
c. Núi cha ỳng mu cõu.


n u bui hc, giỏo viờn thu li phiu ú v kim tra li kt qu luyn
núi ca hc sinh. i vi nhng ch khú, hc sinh cha th ghi nh c
mu cõu, bng cỏch ny cỏc em s c luyn tp khc sõu thờm, t ú s ghi
nh v núi tt hn.
Ngoi ra khi t chc cỏc trũ chi trong mụn Ting vit, giỏo viờn thng
xuyờn cho cỏc em k nng núi cũn kộm lờn núi trc lp. Nh vy, cỏc em s
mnh dn, t tin hn khi núi trc ỏm ụng. Sau mi ln tham gia t kt qu
tt giỏo viờn phi chỳ trng n vic ng viờn, khuyn khớch bng cỏch trao
gii thng khớch l tinh thn cho nhng hc sinh ó cú c gng. Gii thng
cú th ch l nhng mún qu rt nho nh cõy bỳt chỡ, mt quyn vnhng cú
tỏc dng ng viờn, khớch l cỏc em rt nhiu. Khi trao gii thng, giỏo viờn
yờu cu cỏc em núi v cm xỳc, suy ngh ca mỡnh khi c nhn phn thng,
qua ú cng ó rốn luyn cho cỏc em k nng núi. Giỏo viờn cú th gi ý cho hc
sinh núi trong nhng ln u tiờn.
Cú lm c nh th thỡ hc sinh mi cú mụi trng hc tp tt, cỏc em
s cú t tin, s ci m hn, t nhiờn hn trong khi núi thỡ k nng luyn núi
ca cỏc em tt hn.
2.4. Hiu qu ca sỏng kin kinh nghim.
Qua nhiu nm ỏp dng v thc hin kinh nghim trong vic hỡnh thnh
v rốn luyn k nng núi cho hc sinh khi lp 1, tụi ó mang li hiu qu cao
cho vic dy - hc mụn Ting Vit cng nh k nng giao tip ca cỏc em ngy
c hon thin hn. Lp tụi ch nhim cng c nh trng, bn bố ụng
nghip, ph huynh ỏnh giỏ cao v ý thc, thỏi , k nng núi ca cỏc em.
Trong nm hc va qua lp tụi ch nhim cú cỏc em Nguyn Mạnh
Tiến Dũng, Đặng Khánh Duy, Mỵ Thị Tuyết Nhi, Bùi Khánh Linh,
Mai Thị Anh vo u nm hc cỏc em ny cú thỏi s st, nhỳt nhỏt, núi
trng khụng, thiu ch ng, din t khụng rnh mch, ngi tip xỳc vi cỏc bn
16



nhưng sau quá trình được hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói các em đã có sự
tiến bộ rõ rệt, đã tự tin hơn khi giao tiếp, hăng hái phát biểu xây dựng bài, đã
mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình trước lớp, kết quả học tập của các em có sự
tiến bộ rõ rệt.
Kết quả qua các lần khảo sát ở cuối học kì I và kết quả đến thời điểm
tháng 4 năm 2018 đã đạt được như sau:
Thời
gian
Sĩ số

Sồ học sinh nói
tốt
(Nói thành câu,
thành đoạn

Sồ học sinh nói
đạt yêu cầu

Số HS nói chưa
đạt yêu cầu

(Nói đủ câu, lưu loát, (Nói chưa đủ câu,
đúng chủ đề)
nói chưa lưu loát,
chưa đúng chủ đề

Số lượng

Tỉ lệ


Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

5

25

10

42,8

6

32,2

10

42,8

11

57,2

0


0

Cuối học kỳ 1
21 học sinh
Tháng 4/ 2018
21 học sinh

Nhìn vào bảng kết quả cho ta thấy việc áp dụng các biện pháp rèn
kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1 như trên đã đem lại hiệu quả cao. Giúp học
sinh có kỹ năng nói, giao tiếp tốt, tự tin và đó là tiền đề để hình thành nhân cách
cho trẻ.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp rèn kỹ năng nói cho học
sinh lớp 1, bản thân tôi thấy để đạt được hiệu quả cao trong rèn kỹ năng nói cho
học sinh thì bản thân mỗi giáo viên cần:
- Nắm bắt và hiểu nội dung, mục tiêu của chương trình, ý đồ của từng chủ
đề luyện nói.
- Hình thức tổ chức hoạt động học tập phải linh hoạt. Tận dụng tối đa
phương tiện trực quan, phát huy năng lực quan sát của học sinh. Hệ thống câu
hỏi dẫn dắt, gợi ý phải rõ ràng, ngắn gọn xoay quanh chủ đề luyện nói, phù hợp
với mọi trình độ của học sinh trong lớp.
- Khi học sinh tham gia vào nhóm hoạt động, giáo viên cần theo dõi và
không bỏ sót học sinh nào khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, chứ không chỉ
chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả
17


các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì vậy, việc phân nhóm nhỏ để
cho các em được tập nói là rất cần thiết.

- Phối hợp nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa khác để phát triển kỹ
năng nói.
- Thường xuyên động viên, khuyến khích học sinh tham gia giao tiếp.
- Xây dựng lớp học trong không khí học tập thoải mái, vui tươi, thân thiện
giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh. Động viên, khuyến khích, uốn nắn
học sinh kịp thời ở tất cả các môn học, gần gũi trò chuyện cùng học sinh, nhất là
học sinh nhút nhát. Xây dựng tốt nề nếp lớp học, phối hợp nhịp nhàng các hình
thức tổ chức dạy học.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
Bổ sung cho các lớp 1 bộ tranh dạy luyện nói. Tổ chức chuyên đề dạy
phân môn Tiếng Việt lớp 1 trong đó có phần luyện nói cho tất cả các đồng chí
giáo viên dự để rút kinh nghiệm dạy phần luyện nói cho học sinh lớp 1 tốt hơn.
* Đối với các đồng chí giáo viên dạy lớp 1:
Cần quan tâm hơn tới việc luyện nói cho các em học sinh trong tiết dạy
Tiếng Việt. Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ chủ đề dạy luyện nói, xây dựng hệ
thống các câu hỏi gợi ý phù hợp để các em học sinh có thể nói đúng chủ đề và
nói một cách sáng tạo. Chứ không nên hướng dẫn học sinh trả lời theo câu hỏi
của giáo viên. Có thể sưu tầm một số các tranh ảnh liên quan đến chủ đề luyện
nói để các em có vốn hiểu biết phong phú và nói tốt hơn. Nói tốt cũng chính là
tiền đề để các em có thể viết bài tập làm văn tốt hơn ở các lớp trên.
Trên đây là kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân về rèn kỹ năng nói cho
học sinh lớp 1 thực tế đã áp dụng có hiệu quả. Tôi rất mong được sự quan tâm
giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí trong Hội
đồng khoa học các cấp, để tôi phát triển và thực hiện đề tài này trong những năm
học tới đạt kết quả tốt hơn.
Nga Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Mai Thị Hường

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Hoàng Thị Nhung

18


19



×