Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

(SKKN 2022) Một số giải pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho HS lớp 5B, trường Tiểu học Đông Hải 2, TPTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.98 KB, 19 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG
LÀM VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5B
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐƠNG HẢI 2,
THÀNH PHỐ THANH HĨA.

Người thực hiện: Hà Thị Trà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Hải 2
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2022

0


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2


2.3

2.4
2.4.
1
2.4.
2
3
3.1
3.2

Nội dung

Trang
Mở đầu
1
Lí do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
1
Đối tượng nghiên cứu
1
Phương pháp nghiên cứu
1
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
5
Giải pháp 1. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài.
5
Giải pháp 2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
5
Giải pháp 3. Rèn kĩ năng lập dàn ý chi tiết cho bài văn bằng việc 7
áp dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy.
Giải pháp 4. Giúp học sinh có thói quen tìm từ gợi hình, biểu 9
cảm; tạo hình ảnh cho câu văn miêu tả khi làm văn miêu tả
Giải pháp 5. Giúp học sinh biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân 11
hoá khi làm văn miêu tả
Giải pháp 6. Hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ - chọn từ “đắt”để 13
đặt câu, viết đoạn.
Giải pháp 7. Vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực và cá thể hóa 14
hoạt động dạy học.
Giải pháp 8. Cá thể hóa hoạt động dạy học.
15
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, 16
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đối với hoạt động giáo dục với bản thân.
16
Đối với đồng nghiệp và nhà trường.

17

Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị


18
18
18


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Tiếng Việt là một trong những môn học chiếm ưu thế trong chương trình
Tiểu học bởi đây là mơn học có nhiệm vụ hồn thành năng lực hoạt động ngơn
ngữ cho học sinh. Năng lực đó được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng
với 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có thể học tập và giao tiếp tớt.
Trong mơn Tiếng Việt thì phân mơn Tập làm văn ngoài nhiệm vụ rèn cho học
sinh các kĩ năng nói trên thì nó cịn góp phần đặc biệt quan trọng trong việc hoàn
thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt; phát triển ngơn ngữ, bồi
dưỡng tình yêu cái đẹp, cái thiện, lẽ phải và sự công bằng trong xã hội; góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, có tri thức, có tình cảm, thấm
nhuần truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham thích
việc làm và biết rèn luyện khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội sau này.
Trong xu thế phát triển và hội nhập giáo dục hiện nay thì đổi mới phương
pháp dạy học là việc làm thường xuyên của nhà trường, của mỗi giáo viên. Được
phân công giảng dạy khối 5 nhiều năm, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt đó là phân mơn mà nhiều giáo viên cho rằng rất khó dạy;
chất lượng học sinh Hồn thành tớt về phần Tập làm văn còn rất hạn chế. Đại đa
sớ học sinh viết văn cịn khơ khan, nhất là văn miêu tả. Việc sử dụng các từ ngữ
còn vụng về, chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ để gợi tả nên câu văn chưa có
“hồn”. Đặc biệt học sinh chưa tự quan sát, tìm tịi khám phá ra được “cái mới”,
cái nổi bật của đối tượng hoặc chưa được hướng dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ nên
học sinh chỉ tưởng tượng để viết bài theo một khn mẫu nào đó mà mình được
tham khảo. Giáo viên thường dạy cho học sinh yêu cầu các em nhớ nhiều để bắt
chước “làm văn”. Vì thế mà bài làm của các em thực chất chỉ là sao chép, vay

mượn của bài văn mẫu. Từ đó dẫn đến bài văn của nhiều em thường giống nhau.
Các em không phát huy được khả năng viết văn của mình.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cùng với mong ḿn nâng cao chất
lượng dạy học môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh Tiểu
học nói chung, tôi nghiên cứu và đề xuất: “Một số giải pháp rèn kĩ năng làm
văn miêu tả cho học sinh tại lớp 5B, trường Tiểu học Đơng Hải 2, TP. Thanh
Hóa” với hi vọng nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
dạy học môn Tiếng Việt trong nhà trường nói chung, và phân mơn Tập làm văn
nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh tại lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Các phương pháp, biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh
lớp 5B tại trường Tiểu học Đơng Hải 2, thành phớ Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan
- Nghiên cứu thực tiễn dạy học
- Thống kê toán học, quan sát, phân tích, tổng hợp, tư duy.
1


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Miêu tả là thể loại văn dùng ngơn ngữ để hình dung lại sự vật, hiện tượng,
con người,…một cách sinh động, cụ thể như nó vớn có. Nhờ có văn miêu tả, con
người có thể lạc vào thế giới của những cảm xúc, những âm thanh, tiếng động,
hương vị của những cánh đồng, khu rừng, làng quê…, thấy rõ tư tưởng, tình cảm
của mỗi con người, mỗi sự vật. Đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế, những
rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được khi quan sát cuộc sống. Đặc
điểm nổi bật của văn miêu tả là ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh và có tính biểu

cảm cao. Đây cũng chính là đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa văn miêu tả với
các thể loại văn khác nhau như văn tự sự, văn nghị luận. Ngôn ngữ văn miêu tả
giàu cảm xúc bởi trong bài viết bao giờ người viết cũng bộc lộ tình cảm, cảm xúc
hay ý kiến nhận xét, đánh giá hay bình luận của người viết với đới tượng miêu tả.
Tình cảm đó có thể là sự yêu mến, thán phục hay sự gắn bó với đới tượng được
miêu tả.
Ngơn ngữ trong văn miêu tả giàu hình ảnh bởi trong bài viết thường được sử
dụng từ ngữ gợi hình như: tính từ, động từ, từ láy hay các biện pháp tu từ như: so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ,… chính điều này đã tạo cho ngơn ngữ trong văn miêu tả
có sự ủn chủn, nhịp nhàng, diễn tả tốt cảm xúc của người viết. Hơn thế nó có
tác dụng khắc họa được bức tranh miêu tả sinh động như cuộc sống thực. Miêu tả
không chỉ đơn giản ở việc giúp người đọc thấy rõ được những nét đặc trưng,
những đặc điểm, tính chất,…không phải là việc sao chép, chụp lại một cách máy
móc mà phải thể hiện được sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng ngôn từ,
trong cách thể hiện cảm xúc, tình cảm của tác giả đới với đới tượng miêu tả. Một
bài văn miêu tả đạt yêu cầu khi mà bằng những ngơn ngữ sinh động nào đó khiến
cho người nghe, người đọc như cảm thấy mình đang đứng trước sự vật, hiện
tượng đó và cảm thấy như được nghe, sờ những gì mà tác giả nói đến.
Trong phân mơn Tập làm văn lớp 5 có 62 tiết. Trong đó văn miêu tả 43 tiết
(chiếm gần 70% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng
làm văn, góp phần cùng với các mơn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Như vậy dạy Tập làm văn theo mục tiêu của chương trình sách giáo khoa mới thì
ngồi việc rèn luyện kỹ năng viết văn bản thì cịn phải chú ý đến kỹ năng quan
sát, lập dàn ý. Bên cạnh đó hướng dẫn học sinh biết cách lựa chọn các biện pháp
nghệ thuậ cũng là yếu tố quan trọng giúp học sinh viết bài đầy đủ, chính xác, từ
đó hình thành niềm đam mê và sáng tạo trong cách viết cho học sinh. Để mỗi học
sinh khi viết một bài văn thì đó được xem như một tác phẩm nghệ thuật mang dấu
ấn cá nhân của các em.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

Trong chương trình Tiếng Việt tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan
trọng. Bằng sự thật thà cộng thêm trí tưởng tượng quá mức, học sinh tiểu học đã
cho ra “lò” những bài văn miêu tả mà khi đọc lên không thể không khỏi kinh
ngạc. Trên thực tế, việc dạy và học phân môn Tập làm văn ở tiểu học hiện nay
còn rất nhiều vấn đề bất cập.
- Về phía người dạy: đây quả là một phân môn khó, địi hỏi học sinh phải
tổng hợp được kiến thức, phải thể hiện sự rung cảm cá nhân, phải biết thể hiện
2


tiếng mẹ đẻ một cách trong sáng. Trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm
văn thường xảy ra các cách dạy:
+ Hoặc hướng dẫn chung chung để học sinh tự mày mò.
+ Hoặc dùng “văn mẫu”, học sinh cứ việc sao chép.
Cả hai cách trên đều làm cho học sinh không biết làm văn, ngại học văn, mặc
dù vẫn có tình u đới với văn học (ví dụ rất thích đọc truyện). Nguyên nhân dẫn
đến thực trạng này, một phần là do trình độ nhận thức, năng lực sư phạm của giáo
viên, cũng có thể chính ngay trong giáo viên cũng thiếu những tri thức khoa học
cũng như vốn sớng thực tế. Một ngun nhân nữa đó là “bệnh thành tích” trong
giáo dục. Vấn đề này cho thấy, nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng mức vị trí của
môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học và đặc biệt là phân môn Tập làm
văn. Phải hiểu rất rõ rằng: phân môn Tập làm văn là môn thực hành tổng hợp, là
kết quả của các môn học, đồng thời cũng là môn tạo tiền đề để học tốt các môn
học khác. Bởi lẽ, bất cứ môn học nào cũng cần biết quan sát, nhận xét, diễn đạt rõ
ràng, mạch lạc, sáng sủa.
+ Hơn nữa, hiện nay, trên các cửa hàng sách có bày bán rất nhiều sách tham
khảo, văn mẫu từ các luồng khác nhau nên đã tạo điều kiện cho học sinh chép
văn mẫu. Tuy nhiên, lỗi không ở các bài “văn mẫu” mà là ở chỗ sử dụng các bài
văn mẫu đó như thế nào. Nếu giáo viên và cha mẹ học sinh biết tận dụng các bài
văn tham khảo đó sẽ là những tư liệu tớt để học sinh có kiến thức về thế giới tự

nhiên và xã hội, học được cách viết văn (bố cục, viết câu, sử dụng từ ngữ,...), bồi
dưỡng tình yêu thiên nhiên, yêu con người, tình yêu Tiếng Việt,...
- Về phía học sinh, kiến thức sách vở cũng như kiến thức thực tế cịn rất
nhiều lỗ hổng. Nhiều học sinh ở nơng thơn chưa hề được ra thành phớ, có em
chưa từng được đến công viên, vườn bách thú hay những danh lam thắng cảnh
khác… Nhiều học sinh ở thành phố chưa hề được nhìn thấy con gà đang gáy, con
trâu đang cày ruộng, hoặc được ngắm nhìn những đêm trăng sáng, hoặc quan sát
cánh đồng lúa khi thì xanh mướt, lúc thì vàng óng, trĩu bơng… Chính giáo viên ở
bậc tiểu học cũng nhận xét hiện nay, một là học sinh thường tả cảnh, tả người
theo văn phong, suy nghĩ của người lớn, hai là tả theo đúng suy nghĩ của bản thân
và tạo ra những bài văn như trên. Qua đó có thể thấy, khi làm bài, nhiều học sinh
khơng hề nắm được đặc điểm đới tượng mình đang tả và đã viết lời văn không
phù hợp. Do vậy bài văn khó có thể truyền cảm cho người đọc. Việc học tập trên
lớp, vì thiếu tập trung và chưa có phương pháp học nên cũng có những hạn chế
nhất định. Có học sinh khi đọc đề bài lên, khơng biết mình cần viết những gì và
viết như thế nào, viết cái gì trước, cái gì sau,....
+ Ngồi ra có thể kể đến các nguyên nhân khác, như sự hấp dẫn của các trị
chơi hiện đại. Ngồi giờ học, các em thường bị thu hút vào các trò chơi games
hoặc các trang web hấp dẫn khác trên intermet mà quên đi rằng thế giới thiên
nhiên xung quanh các em thực sự hấp dẫn khác. Trẻ em ngày nay đang bị lãng
quên một thế giới thơ mộng ở xung quanh, cái thế giới mà khơng phải chỉ nhà
văn Tơ Hồi mới có. Đó là thế giới của ruộng đồng, cây cỏ, cơn trùng, của mưa,
của gió... Đây là thế giới có khả năng làm phong phú tâm hồn tuổi thơ và rèn
luyện óc quan sát, nhận xét,....
+ Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ. Phần lớn học
sinh tiểu học ít quan tâm đến việc đọc và có đọc thường là truyện tranh, thậm chí
3


có những truyện tranh khơng mang tính giáo dục. Việc trị chuyện, tiếp xúc với

bớ mẹ, với những người thân trong gia đình và cộng đồng cũng rất hạn chế bởi
những lí do: người lớn thì bận cơng việc cịn các em thì ở trường cả ngày, tới về
lại ơn bài. Cho nên vốn liếng về cuộc sống, về văn học của học sinh tiểu học rất
hạn chế. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến việc học văn và tập làm văn
của học sinh.
Từ thực trạng nêu trên, ngay từ đầu năm, tôi đã tiến hành điều tra khảo sát
chất lượng môn Tập làm văn của học sinh trong lớp mình phụ trách thơng qua bài
kiểm tra ở tuần 4 để phân loại đối tượng học sinh.
Đề bài: Em hãy tả ngôi trường của em trước giờ vào học..
Kết quả khảo sát 32 học sinh như sau:
Tổng
Hoàn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
32
4
12%
23
72%
5
16%
Qua kết quả khảo sát tơi nhận thấy tỷ lệ học sinh chưa hồn thành cịn
nhiều, sớ học sinh hồn thành tớt chiếm tỷ lệ thấp. Sớ học sinh làm văn miêu tả
còn chưa sử dụng nhiều hình ảnh so sánh và nhân hóa vì vậy tơi đã cớ gắng tìm

hiểu, tìm cách khắc phục những ngun nhân do giáo viên, những nguyên nhân
do học sinh để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm đem lại
hiệu quả cao trong tiết dạy Tập làm văn. Qua nhiều lần thử và đúc rút kinh
nghiệm, tôi đã tiến hành thực hiện các giải pháp sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để giúp học sinh đạt được mục tiêu trên, ngoài việc nắm vững nội dung,
chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn nói chung, kiểu bài văn tả cảnh
nói riêng, người giáo viên cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
* Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu trọng tâm đề bài.
Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường có đến 3 yêu cầu: yêu cầu về
thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp
học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định
nội dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a) Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b) Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c) Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công
viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung.Với đề bài này, giáo
viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng
hạn “Tả một cơn mưa khi em đang đi thả diều cùng bạn”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho các em xác định được ý
cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
4



* Giải pháp 2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của sự vật để giúp người
nghe, người đọc hình dung được các đới tượng ấy, tức là lấy câu văn để biểu hiện
các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay
vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, tôi đã hướng dẫn học sinh quan
sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý, cách tiến hành là tôi dùng các ngữ liệu đã
có trong chương trình hướng dẫn các em tìm hiểu, khai thác, phân tích rồi vận
dụng đối với sự vật cụ thể mà mình sẽ tả:
a) Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát tồn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 5 trình tự này được
vận dụng khi miêu tả lồi vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1: Tả từ ngồi vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi
Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường …, …... Trong đền dịng chữ
vàng Nam Q́c Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.” (Phong
cảnh đền Hùng – Tiếng Việt 5 tập 2)
Ví dụ 2: Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn,
dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ
Lạng).
b) Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả
cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ 1: “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào
hương thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt
thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Mộtnăm
sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới.” (Mùa thảo quả Tiếng Việt 5 tập 2).
c) Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng,

nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước,
tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, lồi vật, tả người nên vận
dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng tiêu biểu nhất, không
cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đới tượng.
Ví dụ 1: “ Bà tơi ngồi cạnh tơi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả
hai vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm
trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.”
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chng. Nó khắc sâu vào trí nhớ
tơi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi bà
mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi Tiếng Việt 5- Tập 1).Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến
ánh mắt.
Ví dụ 2: “Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức
đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu
từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây
kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
5


Ngồi các trình tự miêu tả trên, tơi thường hướng dẫn và rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...)
để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3: Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy
tác giả đã quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nh́m hơi nước.
- Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận
mưa đầu mùa.
-Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót
của chào mào.

Sau khi hướng dẫn kĩ cho học sinh cách quan sát như: trình tự quan sát, sử
dụng các giác quan để quan sát. Đọc các bài làm của các em tôi nhận thấy khả
năng quan sát vấn đề được nâng cao hơn, nhạy bén hơn, bao quát hơn, diễn đạt ý
rõ ràng, trọn vẹn, trôi chảy.
* Giải pháp 3. Rèn kĩ năng lập dàn ý chi tiết cho bài văn bằng việc áp
dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy.
Lập dàn ý là thao tác quan trọng của mỗi học sinh trong quá trình viết bài,
thao tác này giúp cho học sinh tránh việc bỏ sót ý, viết lan man, khơng đúng chủ
đề vì vậy để nâng cao hiệu quả trong việc lập dàn ý tôi đã áp dụng kĩ thuật sơ đồ
tư duy. Tôi tổ chức cho học sinh suy nghĩ một cách chủ động và sáng tạo thơng
qua hệ thớng câu hỏi, khung chủ đề, tình h́ng, phiếu bài tập,… dưới nhiều hình
thức khác nhau (bơng hoa, vịi bạch tuộc, mơ hình, cây sự kiện,…).
- Sau khi cho học sinh đọc kĩ đề, tôi sẽ đưa những câu hỏi khơi gợi nhằm
giúp HS nắm rõ các yêu cầu của đề bài.
- Kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh, vật thật hay gợi ra các vấn đề có
liên quan nhằm hướng học sinh vào đề tài.
- Giáo viên xây dựng khung mạng trên bảng phụ (giấy khổ to) đồng thời
đặt ra các câu hỏi gợi mở. Học sinh làm việc theo nhóm để hồn thành sơ đồ
mạng trong phiếu giao việc bằng cách ghi lại các ý dưới dạng từ, cụm từ, xung
quanh khung chủ đề. Qua đó, các ý cho bài văn được hình thành.

- Các nhóm trình bày kết quả nhóm mình, nhóm khác bổ sung.
- Với các ý đã tìm được, các nhóm thảo ḷn đánh sớ thứ tự, thơng qua việc
làm đó các em lập được dàn ý cho bài văn.
- Giáo viên gọi vài nhóm trình bày thứ tự các ý mình đã sắp xếp, các nhóm
khác trao đổi bổ sung.
6


- Giáo viên nhận xét và sắp xếp các thẻ từ lên bảng theo một trình tự hợp lý

tạo nên dàn bài chung cho đề văn.
- Từ dàn bài hình thành, mỗi học sinh sẽ triển khai các ý cho riêng mình
và trình bày trước nhóm rồi trước lớp. Ý kiến của các em sẽ được em khác bổ
sung và hồn thiện. Qua đó, câu văn của các em sẽ trau ch́t hơn, có hình ảnh
nghệ tḥt hơn, ít sai lỗi dùng từ, đặt câu.
Ví dụ: Ôn tập về tả con vật lớp 5 (tuần 30)
* Hoạt động tìm ý:
- Mục tiêu: Học sinh liệt kê được các bộ phận chính và hoạt động của con vật
và tìm các từ ngữ miêu tả đặc điểm của các bộ phận, hoạt động của con vật đó.
- Đồ dùng dạy học: Giáo viên chuẩn bị khung sơ đồ tư duy, thẻ từ dùng để
làm sơ đồ mạng. Phiếu bài tập.
- Các hoạt động: Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động nhóm với nội dung
sau:
+ Hãy liệt kê các bộ phận chính của con vật, hoạt động của con vật và tìm
những từ ngữ thường dùng để miêu tả đặc điểm của hình dáng và hoạt động và
trình bày theo sơ đồ mạng.
+ Sau đó yêu cầu 1- 2 nhóm học sinh nhanh nhất lên trình bày, các nhóm
khác theo dõi, bổ sung và cho ra một mạng lưới các ý:
giáo viên dùng thẻ từ biểu diễn sơ đồ tư duy
Sau đó, giáo viên yêu cầu mỗi em làm một sơ đồ tư duy về con vật em định tả.
* Hoạt động lập dàn ý:
+ Yêu cầu học sinh tự đánh số thứ tự vào các ý làm thành một dàn ý cho
riêng mình.
+ Giáo viên mời vài em lên trình bày. Giáo viên và học sinh cả lớp nhận
xét, đồng thời đưa ra cách đánh số thứ tự các ý một cách hợp lí nhất
+ Trong khi học sinh làm, giáo viên bao quát lớp và chú ý hướng dẫn các
em học sinh trung bình và yếu.
+ Giáo viên tổ chức hoạt động sau: học sinh diễn đạt các ý đã trình bày
trên sơ đồ mạng. Mỗi học sinh trình bày theo thứ tự các ý đã lập sao cho cách
miêu tả thật hay, thật sinh động. Hình dáng và hoạt động của con vật hiện lên một

cách chân thật, lôi cuốn, tự nhiên.
Ví dụ: Từng học sinh diễn đạt câu văn tả đôi mắt của con mèo:
+ Con mèo Mi-mi có đơi mắt sáng và nhanh nhẹn.
+ Đơi mắt của Mi-mi tròn và sáng như hai hòn bi ve.
+ Chú mèo Mi-mi có cặp mắt trịn xoe và tinh nhanh lạ kì.
Giáo viên sửa lỗi cho học sinh, học sinh bổ sung và rút kinh nghiệm, học
hỏi câu văn hay của bạn để tiến hành làm bài viết cho tốt hơn.
Lưu ý: Đới với học sinh chưa hồn thành, giáo viên kịp thời tác động và
giúp đỡ các em. Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các em, không bác bỏ làm các
em mất tin tưởng vào bản thân mà chỉ sửa sai nhẹ nhàng. Có thái độ thân thiện,
cởi mở với các em. Khuyến khích các em động não và suy nghĩ để tìm ý. Tạo
điều kiện cho học sinh hồn thành tớt giúp đỡ các bạn. Giáo viên kịp thời khen
ngợi động viên nếu các em tìm được ý để các em hứng khởi trong học tập. Giáo
viên phải chuẩn bị đồ dùng trực quan kĩ lưỡng và đầy đủ để khắc sâu kiến thức
cho học sinh.
7


Phương pháp này hướng đến việc cá thể hóa hoạt động của học sinh.
Thông qua những gợi ý trực quan trên bảng được trình bày theo hệ thớng sơ đồ tư
duy, học sinh được gợi ý nhiều ý tưởng cho vấn đề cần giải quyết.
Với cách tổ chức phong phú, đa dạng học sinh không thấy nhàm chán,
nặng nề trong việc học. Trái lại, tư duy của các em được kích thích, được dẫn dắt
đi đến nảy sinh nhiều ý một cách tự nhiên, nhẹ nhàng cũng như dễ dàng tạo lập
dàn ý từ các ý thu thập được.
* Giải pháp 4. Giúp học sinh thói quen tìm từ gợi hình, biểu cảm; tạo
hình ảnh cho câu văn miêu tả khi làm văn miêu tả
Để làm tốt văn miêu tả, học sinh phải có một vớn từ phong phú và quan
trọng hơn là phải biết lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ thống các từ đồng
nghĩa, gần nghĩa, có thể tìm được một vài từ phù hợp, chính xác nhất.

Trong quá trình giảng dạy, tơi thường lưu ý học sinh phải ln có thói quen
tìm từ gợi hình, biểu cảm và phải lựa chọn từ ngữ phù hợp. Ḿn làm nổi bật
hình ảnh của đới tượng, cần chú ý nhiều đến hệ thớng từ tượng hình (tả màu sắc,
hình dáng, trạng thái...); ḿn làm nổi bật khơng khí của cảnh thì chú ý tới hệ
thớng từ tượng thanh (mơ phỏng âm thanh của tự nhiên)...
Ví dụ:Tìm những từ ngữ gợi hình, gợi âm thanh khi tả sóng biển hay tả cơn
mưa rào... , giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, trao đổi thảo ḷn và
tìm các từ khác nhau.
Sau đó giáo viên nêu vấn đề: Các từ ấy được dùng như thế nào? Sau quá
trình trao đổi, nêu ý kiến cùng với vốn sống thực tế, học sinh sẽ tự nhận thấy: Tả
cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh: cuồn cuộn, nhấp nhơ, lăn tăn,
rì rầm, rì rào, lơ nhơ, ì oạp... Nhưng khơng phải miêu tả sóng lúc nào cũng dùng
được tất cả các từ ấy.
Tả sóng biển lúc biển động thì dùng từ “cuồn cuộn”; tả tiếng sóng biển vỗ
vào bờ đá thì phải dùng từ “ì oạp”; tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà nghe
từ xa thì phải dùng từ “rì rầm”, ...
Hay âm thanh của tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rõ: mưa dạo đầu rơi
x́ng sân thì “lẹt đẹt”; mưa trên mái tơn thì “rào rào”; mưa đập vào phên nứa
“đồm độp”; mưa đập vào tàu lá ch́i thì “lùng bùng”; mưa từ mái tranh giọt đổ
x́ng sân thì “ồ ồ”, ....
Sau nội dung trên, giáo viên đưa ra các dạng bài tập điền từ vào chỗ chấm;
tìm từ lạc trong nhóm từ; sửa từ chưa chính xác trong các câu; sửa lỗi liên kết
câu; tìm từ giàu hình ảnh, sinh động để biểu đạt các sự vật, hiện tượng (đối tượng
miêu tả) để học sinh rèn luyện kĩ năng dùng từ…
Chẳng hạn: Tìm những từ láy, tính từ gợi tả thích hợp để điền vào chỗ
trống trong các câu văn sau:
- Tiếng sóng vỗ... (rì rầm) vào mạn thuyền như lời ru... (êm ái) cho làng
chài yên giấc ngủ.
- Những con sóng .... (nhấp nhơ) đùa giỡn cùng bãi cát vàng.
- Những con sóng …(hiền từ) gới lưng lên nhau xơ nhẹ mạn thuyền

Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong khi làm văn miêu
tả cũng rất quan trọng. Nếu học sinh viết những câu văn miêu tả giàu hình ảnh thì
sức gợi cảm của bài văn sẽ tốt hơn.
8


Để giúp học sinh thực hiện tốt yêu cầu này, giáo viên sử dụng hệ thống bài
tập điền các từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm vào chỗ trớng; tìm những
cách diễn đạt có cách tạo hình ảnh hay hơn và sau đó là dùng những từ ngữ, biện
pháp nghệ thuật để viết câu, viết đoạn. Các dạng bài tập đó giúp phát huy được
năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực cảm thụ cho học sinh: Học sinh không
chỉ nắm được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết câu còn biết cách liên
kết các câu trở thành một đoạn văn hoàn chỉnh, hay và hấp dẫn, có thể gây được
sự chú ý cho người đọc, người nghe.
Ví dụ 1: Với bài tập: Hãy so sánh các cách diễn đạt sau và cho biết cách
diễn đạt nào hay hơn. Em hãy giải thích rõ lí do vì sao mình chọn?
a) Dịng sơng chảy qua cánh đồng.
b) Dịng sơng lượn qua cánh đồng.
c) Dịng sơng vắt qua cánh đồng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu cảm nhận của mình và nhận thấy, cả ba
câu đều miêu tả về dịng sơng nhưng hình ảnh dịng sơng trong mỗi câu văn đem
lại những ấn tượng khác nhau đối với người đọc.
Câu a) Đây là một câu văn tả thực, chỉ miêu tả đơn thuần về hình ảnh một
dịng sông như trong thực tế đời sống. Cách viết rất bình thường nên ai cũng có
thể làm được.
Câu b) So với câu 1, cách viết này đã có hình ảnh hơn. Bởi với từ “lượn”
câu văn đã góp phần gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh về một dịng sơng
mềm mại, dun dáng. Vẻ đẹp này góp phần tơ điểm thêm cho bức tranh thiên
nhiên.
Câu c) Đây là câu văn hay hơn cả. Với cách dùng từ “vắt” câu văn giúp

người đọc khơng chỉ hình dung được vẻ đẹp mềm mại của dịng sơng mà cịn cảm
nhận được vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của nó. Dịng sơng ấy như một nhịp cầu thật
duyên dáng nối khoảng không gian giữa đơi bờ.
Câu văn có sức gợi hình, gợi cảm nhiều hơn, cách miêu tả không chỉ bằng
thị giác mà còn bằng sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm; bằng tình yêu quê hương
thiết tha, sâu nặng. Đây cũng chính là một sáng tạo về nghệ thuật tạo hình ảnh
trong khi viết văn miêu tả.
Rõ ràng chỉ khác nhau một từ thơi nhưng cách gợi hình, gợi cảm của ba
câu đã khác nhau. Trên cơ sở dạng bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh cách
dùng từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả để tạo nên những độc đáo, sáng tạo riêng.
Ví dụ 2: Tơi cho các câu văn:
a) Trên cành sồi, mới mọc rất nhiều lá non
Các em có thể thay từ vào để câu văn có thể trở thành: “Trên cành sồi,
mới mọc tua tủa những chiếc lá xanh non.”
b) Hương thơm lan toả khắp khu rừng.
Các em có thể thay từ để có câu văn: “Hương thơm ngào ngạt, lan toả
khắp khu rừng.”
c) Trên vòm trời cao, những đám mây trắng đang bay.
Các em có thể thay từ để câu văn hay hơn “Trên vòm trời cao vời vợi,
những đám mây trắng đang nhởn nhơ bay.”
Sau khi các câu được thay thế từ ngữ, tôi cho các em đọc lại và so sánh
mức độ hay của câu. Từ đó các em tự nhận thấy việc thay từ rất quan trọng trong
9


mỗi câu văn, làm cho câu văn có hình ảnh và sinh động hơn.
* Giải pháp 5. Giúp học sinh biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân
hoá khi làm văn miêu tả.
Trong các bài tập đọc, tôi thường cho các em tìm những hình ảnh so
sánh, nhân hoá được tác giả sử dụng và yêu cầu các em phân tích cái hay của từ,

của hình ảnh khi được sử dụng biện pháp tu từ.
Ngồi ra tơi cịn cho các em làm một số các bài tập ở dạng:
+ Dạng 1: Tìm những từ ngữ thích hợp điền vào chỗ chấm cho hoàn
chỉnh các câu văn sau:
a) Cây bàng trước cổng trường gốc to như. . . , tán lá sum sê. . .
Các em có thể điền: “Cây bàng trước cổng trường gớc to như cột đình,
tán lá sum sê như một cái ơ khổng lồ.”
b) Dịng sơng quanh co như. . . chảy qua cánh đồng. . . .
Các em có thể điền: “Dịng sơng quanh co như một tấm lụa đào chảy qua
cánh đồng xanh mướt lúa khoai.”
+ Dạng 2: Dùng biện pháp nhân hoá để viết lại các câu sau:
Ví dụ:
a) Ánh trăng chiếu qua kẽ lá.
Các em có thể điền: “Ánh trăng xuyên qua kẽ lá nhìn x́ng mảnh sân.”
b) Mấy con chim đang hót ríu rít trên vòm cây.
Mấy chú chim đang trò chuyện ríu rít trên vòm cây.
c) Mùa xuân, sân trường mướt xanh màu lá.
Mùa xuân, sân trường khoác chiếc áo mướt xanh màu lá.
+ Dạng 3: Tìm những từ ngữ chỉ đặc điểm, dấu hiệu của con người,
điền vào chỗ trống cho thích hợp nhằm diễn tả sự vật bằng cách nhân hóa.
Ví dụ:
a) Vầng trăng (Vầng trăng hiền dịu.)
b) Mặt trời (Mặt trời nấp sau bụi tre.)
c) Bông hoa (Bông hoa thì thầm tỏa hương.)
d) Chiếc bảng đen (Chiếc bảng đen nhòe nhoẹt nước mắt.)
e) Cổng trường (Cổng trường dang tay đón chúng em.)
+ Dạng 4: Phát hiện và nêu ý nghĩa của biện pháp.
Trong đoạn văn dưới đây, sự vật nào đã được nhân hóa? Những từ ngữ nào
giúp em nhận ra điều đó? Biện pháp nhân hóa đó đã góp phần nhấn mạnh được
điêù gì?

“ Mưa mùa xn xôn xao, phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại,
rơi mà như nhảy nhót. Hạt nọ tiếp hạt kia đậu x́ng lá cây ổi cịng mọc lả x́ng
mặt ao. Mùa đông xám xỉn và khô héo đã qua. Mặt đất đã kiệt sức bừng thức dậy,
âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp, trong lành. Đất trở lại dịu mềm, lại cần
mẫn tiếp nhựa cho cây cỏ. Mưa mùa xuân đã mang lại cho chúng cái sức sống ứ
đầy, tràn trên các nhánh lá, mầm non và cây trả nghĩa cho mưa bằng cả mùa hoa
thơm, trái ngọt…”
- Trong đoạn văn đó, sự vật được nhân hóa là: Mặt đất
- Những từ ngữ giúp chúng ta nhận ra điều đó: kiệt sức, bừng thức dậy,
âu yếm đón, cần mẫn, trả nghĩa.
10


- Biện pháp nhân hóa đã góp phần nhấn mạnh được giá trị to lớn và đẹp
đẽ của những cơn mưa mùa xuân đầy sức sống.
+ Dạng 5: Tập viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nhân hóa
Ví dụ:
a) “...Những buổi chiều, con đường làng em như chìm trong giấc ngủ.
Hàng cây đứng yên cho con đường yên giấc” (Tả con đường làng)
b) “.... Chú chó nhà em rất đáng yêu. Ả ta đỏng đảnh lắm. Cái đuôi cong
cong vẻ làm duyên. Khi ăn cơm phải gọi nhẹ nhàng nó mới ăn. Nàng ăn từ tớn và
rất khảnh ăn. Ăn xong cô lăn ra ngủ trông hiền lành lắm. (Tả con vật).
c) “ ...Bơng thì lồ lộ phơ trương sự đằm thắm, xịe rộng bộ váy của mình,
khoe cả nhị vàng thơm ngát. Bơng thì mỉm cười, dun dáng, e lệ dưới tán lá.
Những bông trẻ hơn, khỏe hơn thì tua tủa, đỉnh đạc đứng ngay ngắn bên hoa
mẹ...” (Tả cây hoa hồng)
* Giải pháp 6: Hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ - chọn từ “đắt” để
đặt câu, viết đoạn.
Để giúp cho học sinh hiểu hết các nghĩa của từ, sử dụng từ hợp lí trong
từng văn cảnh cụ thể, tôi rất coi trọng việc giải nghĩa của từ.

Ví dụ: Trắng xoá là trắng như thế nào? Trắng tinh, trắng toát là trắng như
thế nào?
Trong mỗi tiết học, từ nào cịn mới đới với các em, tơi gợi ý để các em tự
hiểu, tự giải thích. Đối với các từ khó, nhất là những từ nhiều nghĩa, tơi giải
nghĩa, mở rộng nghĩa của từ và đặt từ đó vào văn cảnh cụ thể để các em dễ nhận
ra.
Ví dụ: Để học sinh dễ hiểu nghĩa của từ “quyến rũ”, tôi đặt từ “quyến rũ”
trong câu:
1. Tôi ngây ngất trước vẻ đẹp quyến rũ của vịnh Hạ Long.
(từ “ quyến rũ trong câu sẽ được các em hiểu là “hấp dẫn”)
2. Tơi đã đi nhiều nơi, đóng qn nhiều chỗ phong cảnh đẹp hơn đây
nhiều nhưng sao sức quyến rũ, nhớ thương vẫn không mãnh liệt day dứt bằng
mảnh đất cộc cằn này.
(từ “ quyến rũ” sẽ được các em hiểu là “ lôi cuốn không muốn rời xa”.)
Hiểu từ, nắm rõ nghĩa của từ sẽ giúp học sinh sử dụng từ hợp lí khi đặt
câu. Để giúp học sinh nắm hết nghĩa của từ trong các từ đã học, chúng tơi cho các
em tìm từ thích hợp điền vào các câu văn có sẵn hoặc mở rộng câu bằng vớn từ
đã học.
Ví dụ : tơi cho câu: “ Những vì sao. . . trên bầu trời. . .”
Học sinh sẽ chọn các từ sau: lung linh, huyền ảo hay rực rỡ, thăm thẳm
để điền vào.
Những vì sao lung linh tỏa sáng trên bầu trời huyền ảo.
Những vì sao lấp lánh tỏa sáng trên bầu trời thăm thẳm.
Hoặc tôi cho câu: Nắng chiều chiếu trên cánh đồng.
Các em tự mở rộng câu bằng vớn từ của mình:
Nắng vàng rực rỡ, trải rộng trên cánh đồng lúa xanh mơn mởn.
Ngoài ra, tơi cịn giúp các em biết sử dụng “sổ tay vớn từ” hoặc “sổ tay
văn học” hình thành thói quen khi gặp “từ hay” là ghi ngay vào sổ và học sinh
phải thường xuyên tìm sách báo, truyện và các tài liệu tham khảo đọc để có vớn
11



từ phong phú. Qua các bài tập đọc, bài thơ, bài đọc thêm, . . . tôi giúp học sinh
cách phát hiện và ghi lại một ý hay, những câu văn hay vào “ sổ tay văn học”. Bởi
vì sưu tầm, tích luỹ, ghi chép từng câu văn hay, những câu thơ giàu cảm xúc,
những câu ca, lời hát , . . . lâu dần trong môn học sinh sẽ thấm hình ảnh văn học.
Bằng biện pháp trên, tơi nhận thấy học sinh đã dần sử dụng từ hợp lí hơn, đã hiểu
khá rõ nghĩa của từ các em sử dụng và các em có tương đới nhiều từ để đặt câu.
* Giải pháp 7: Vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực và cá thể hóa hoạt
động dạy học.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Tập làm văn, ngoài sử
dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy khi lập dàn ý (như nói ở giải pháp 3) tôi thường sử
dụng các kĩ thuật dạy học sau:
- Kĩ thuật “Trình bày một phút”.
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn
với các bạn cùng lớp.
Kĩ thuật này có thể tiến hành theo các bước như sau:
+ Ći tiết học (có thể giữa tiết học hoặc sau một hoạt động), giáo viên yêu
cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau:
Điều quan trọng nhất các em học được sau khi được học lí thuyết về cách
làm văn miêu tả hoặc sau khi thực hành viết bài văn miêu tả là gì?
Tìm hiểu xong đoạn này, em cịn băn khoăn điều gì khơng?...
+ HS suy nghĩ và viết ra giấy. Mỗi học sinh trình bày trước lớp trong thời
gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn
được giải đáp hay những vấn đề các em ḿn được tiếp tục tìm hiểu thêm sau
khi tìm hiểu và thực hành làm văn miêu tả.
+ Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên cho học sinh góp ý phần trình
bày hoặc chia sẻ những câu hỏi học sinh đặt ra. Giáo viên có thể đưa ra thêm một
số câu hỏi như: Em cho rằng đâu là nội dung cớt lõi ? Em có thể cho một ví dụ

khơng ? Em có thể nói thêm về điểm này không ?
* Một số lưu ý khi sử dụng kỹ thuật “Trình bày một phút”:
+ Khi vận dụng kỹ thuật này, câu hỏi của giáo viên khơng nên đề cập đến
nhiều vấn đề, tránh việc trình bày của học sinh bị phân tán, dài dòng, thiếu tập
trung.
+ Khi học sinh trình bày giáo viên cần khích lệ để học sinh tự tin, hứng
thú. Định hướng học sinh lắng nghe và chia sẻ sản phẩm của bạn về cả nội dung
và cách thức trình bày.
+ Mỗi học sinh chỉ trình bày trong thời gian một phút. Mỗi một nội dung
chỉ cho 1 học sinh trình bày để tránh mất thời gian cho những hoạt động khác.
- Kĩ thuật “Khăn trải bàn”
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động
cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, phát
triển mơ hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh. Tôi thường tổ chức cho
các em trong một nhóm làm một đoạn (bài) văn theo chủ đề để trình bày.
+ Chia học sinh thành các nhóm nhỏ (tầm 4 em) và phát cho mỗi nhóm 1
tờ giấy Ao.
12


+ Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần
xung quanh. Phần xung quanh được chia theo sớ thành viên của nhóm (ví dụ
nhóm 4 người thì chia thành 4 phần).
+ Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ
và trả lời câu hỏi, nhiệm vụ theo cách nghĩ, cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và
viết vào phần giấy của mình trên tờ giấy A0.
+ Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo ḷn nhóm,
thớng nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0.
Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn tả mùa hè, 3 nhóm học sinh đã thực hiện theo
Kĩ thuật “Khăn trải bàn” và cho ra kết quả sau khi thống nhất viết vào phần

chính giữa tờ giấy như sau:
Nhóm 1: Những chùm phượng đỏ rực đã nở trên những chùm cây. Thế là
mùa hè đã đến! Những tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như một dàn hợp
xướng. Ánh nắng mặt trời nhảy nhót như những chú bé tinh nghịch. Những bạn
chim thi nhau bay lượn tỏ vẻ thích thú khi một mùa mới đến. Những chiếc lá
bàng rơi xuống sân, học trị chũng tơi lại viết lên những dịng tâm sự ….
Nhóm 2: Bầu trời cao vút, xanh nhẹ hoà lẫn với màu trắng như bơng của
những đám mây. Ánh nắng có phần vàng rực, nóng rát hơn. Trong vườn, cây mít
ra quả trịn trịa, chi chít tồn gai như con nhím treo trên cành. Mùi hương của
nó lan toả trong khơng gian thật quyến rũ. Hoa táo trắng muốt, một mùi mát rượi
l/àm sảng khối đầu óc. Mùa hè là mùa chia tay của các thế hệ học trị.
Nhóm 3: Thật vui biết bao khi mùa hè đến phải không các bạn? Trên bầu
trời trong xanh, những tia nắng tinh nghịch nô đùa một cách vui vẻ. Chị gió cùng
hịa mình với mặt trời le lói len lỏi vào những khe lá. Những chú ve sầu thi nhau
ca lên những khúc nhạc lí thú. Mùa hè đến,những hàng phượng vĩ nở hoa đỏ rực
cho học sinh chúng tơi một kì nghỉ lí thú.
Với biện pháp này, tôi thấy các em rất hứng thú, tích cực thực hiện và cho
ra những sản phẩm tốt mang trí tuệ và sức mạnh của tập thể.
* Giải pháp 8. Cá thể hóa hoạt động dạy học.
Cá thể hóa hoạt động dạy học là việc làm rất quan trọng, bởi bên cạnh việc
quan tâm đến đối tượng học sinh chậm tiến (Chưa hồn thành, Hồn thành) thì
đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đới với học sinh
Hồn thành tớt đó là u cầu vô cùng rất cần thiết đối với người giáo viên. Vì vậy
trong tất cả các tiết dạy tơi đều dạy tới từng cá nhân học sinh.
Ví dụ: Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài văn về “tả ngôi trường của
em”, học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, đối với học sinh
chậm tiến tôi hướng dẫn cụ thể bằng những gợi ý sau: Em hãy nói tình cảm của
mình với ngơi trường như: Em có u ngơi trường khơng ? (Em rất u ngơi
trường). Em thể hiện tình u ngơi trường bằng những việc làm như thế nào? Em
trồng cây, chăm sóc bồn hoa để trường ngày càng đẹp hơn.

Khi viết văn,
trước hết mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp, đây là yêu cầu cơ
bản vì câu là đơn vị của lời nói. Đới với học sinh Hồn thành tớt, giáo viên yêu
cầu đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, lột tả được sắc thái riêng của đối
tượng miêu tả. Cịn đới với học sinh Chưa hồn thành, Hồn thành giáo viên yêu
cầu đặt được câu đúng thể hiện được ý cần nói.
Ví dụ: Khi tả mái tóc người bạn cùng lớp
13


Với học sinh Chưa hồn thành: Tóc bạn Mi hơi vàng.
Với học sinh Hồn thành: Tóc Mai dài, đen, mượt, phủ kín vai.
Với học sinh Hồn thành tớt: Bạn An có mái tóc xoăn tự nhiên của người
miền núi khơng lẫn với bất cứ bạn nào trong lớp được. Bạn hay để đầu trần đi
học, đi chăn bò nên mái tóc của bạn khơng đen như tóc em mà hoe vàng và khen
khét mùi nắng.
Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em
có những câu văn chung chung, vơ cảm như: “Trường em có một dãy nhà hai
tầng, một dãy nhà cho các thầy cô giáo, một dãy nhà cho các em đọc sách….”
Người đọc chẳng biết học sinh đang tả ngôi trường nào.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục với bản thân.
Sau một thời gian thử nghiệm những biện pháp đã nêu trên, tôi nhận thấy
học sinh lớp 5B do mình phụ trách đã có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Các
em không chỉ khắc phục được những nhược điểm của bản thân khi học Tập làm
văn mà còn biết viết câu văn hay, đoạn văn đủ ý, bài văn mạch lạc, giàu cảm xúc.
So với các bài văn ở đầu năm học thì ở kì thi ći học kì I, giữa kì II vừa qua,
nhiều bài văn của các em đã biết lồng cảm xúc, hình ảnh sinh động, phong phú;
nhiều bài văn để lại ấn tượng khá sâu sắc. Các em đã biết diễn đạt rõ ràng mạch

lạc những suy nghĩ, cảm xúc của mình; biết chọn những chi tiết độc đáo, nổi bật,
viết câu giàu hình ảnh, biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả.
Để kiểm nghiệm việc vận dụng cách rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 5, tôi yêu cầu học sinh làm bài trong tiết Ôn tập về tả cảnh ở tuần 31:
Đề bài: Em hãy tả ngôi trường của em trước giờ vào học.
Bài làm văn miêu tả của 1 học sinh trong tiết ôn tập về tả cảnh (Tuần 31)
Kết quả đạt được như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hồn thành
Tổng
SL
TL
SL
TL
SL
TL
32
12
37,5%
20
62,5%
0
0
Bảng kết quả trên cho thấy: Sớ học sinh hồn thành tớt tăng lên, học sinh
chưa hồn thành giảm hẳn. Học sinh đã nắm được cách viết bài văn miêu tả và có
sử dụng hình ảnh nhân hóa, có cảm xúc, có đam mê viết văn tiến bộ rõ rệt.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả ở lớp, tôi mạnh dạn
trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong tổ, nhóm trong các buổi sinh hoạt

chun mơn và đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường tăng cường chỉ đạo và dự
giờ các tiết học tập làm văn. Vì vậy các tiết dạy của đồng nghiệp tơi cũng đạt kết
quả cao và hiệu quả.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Từ thực tế giảng dạy, áp dụng những biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học phân môn Tập làm văn nói chung, thể loại tập làm văn tả cảnh nói riêng ở lớp
5B trường Tiểu học Đơng Hải 2, thành phớ Thanh Hóa, tơi nhận thấy:
Phương pháp giảng dạy của giáo viên có vai trị rất lớn đến chất lượng bài
văn nói chung và văn miêu tả nói riêng của học sinh. Bởi vậy, để có những giờ
14


học Tập làm văn sơi nổi và có những bài văn đạt hiệu quả thì giáo viên phải khéo
léo sử dụng phối kết hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học linh hoạt và phù hợp,
khơi gợi cho các em niềm đam mê học tập cũng như truyền cảm hứng để giúp các
em cảm nhận những nét đẹp trong cuộc sống hàng ngày.
Giáo viên phải nắm vững về đối tượng học sinh trong lớp và dạy học phù
hợp với tâm sinh lý của học sinh Tiểu học. Khi dạy Tập làm văn, giáo viên cần
chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng viết câu văn sinh động, giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc và chân thật. Giáo viên cần tổ chức các hoạt động học tập tích cực, lấy
học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn của thầy, học sinh hoàn toàn chủ
động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri trức.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với tổ khối: Để việc tổ chức các hoạt động dạy học giúp học sinh lớp
5 biết làm văn miêu tả, tổ chuyên môn nên lồng ghép nội dung này vào các buổi
sinh hoạt chuyên môn để không chỉ giáo viên khối 5 được thảo luận, trao đổi
cách triển khai thực hiện mà các giáo viên dạy các lớp khác cũng cùng tham gia.
* Đối với nhà trường: Cần lập một câu lạc bộ “Em thích làm văn” để các em
được trải nghiệm, tự mình có thể miêu tả được bài văn.

* Đới với Phịng Giáo dục: Tiếp tục tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm
về phương pháp dạy Tập làm văn để giáo viên có điều kiện trao đổi học hỏi lẫn
nhau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Trên đây là một số kinh nghiệm bản thân tôi đã đúc rút được qua việc Rèn kĩ
năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5B, trường Tiểu học Đơng Hải 2, TP.
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Do thời gian và năng lực cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi thiếu sót, tơi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp, Hội đồng khoa
học nhà trường và cấp trên để sáng kiến kinh nghiệm được hồn thiện và có tính
khả thi góp phần giáo dục và vận dụng có hiệu quả hơn trong dạy học.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
Đông Hải, ngày 6 tháng 4 năm 2022
TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
...................................................... kinh nghiệm của tôi viết, không sao chép
....................................................... nội dung của người khác.
........................................................
Người viết
.........................................................

Hà Thị Trà

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

6


Tên tài liệu tham khảo
Phương pháp dạy học Tiếng Việt
ở Tiểu học
30 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối
cấp Tiểu học
Luyện viết văn miêu tả
Sách giáo viên Tiếng Việt 5 Tập 1
Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 Tập 1
Những bài làm văn mẫu lớp 5

7

Một số tài tiệu khác

1
2
3
4
5

Nhà xuất bản
NXB Đại học
Sư phạm
NXB Giáo dục

Năm xuất bản

NXB Giáo dục
NXB Giáo dục


2008

NXB Giáo dục

2008
2012
2006
2008

NXB Tổng hợp TP.
2021
Hồ Chí Minh


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Hà Thị Trà
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Đông Hải 2, TP Thanh
Hóa.
Kết quả
Cấp đánh giá đánh giá Năm học
TT Tên đề tài SKKN
xếp loại (Phòng, xếp loại đánh giá
Sở, Tỉnh...)
(A, B,
xếp loại
hoặc C)

Hướng dẫn học sinh lớp Phòng GD&ĐT
1.
3 viết câu văn, đoạn văn Thành phớ Thanh
B
2018-2019
có hình ảnh so sánh
Hoá
Một sớ giải pháp giúp Phịng GD&ĐT
2.
học sinh lớp 4 làm văn Thành phố Thanh
C
2019-2020
miêu tả đồ vật
Hoá
Một sớ giải pháp giúp Phịng GD&ĐT
3.
học sinh giải toán có lời Thành phố Thanh
B
2020-2021
văn lớp 5
Hoá



×