Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

(SKKN 2022) đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học môn ngữ văn 7 theo hướng phát triển năng lực cho học sinh trường THCS thị trấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.14 MB, 26 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1.
Lí do chọn đề tài
1.2.
Mục đích nghiên cứu
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.
Cơ sở lí luận của sang kiến kinh nghiệm
2.2.
Thực trạng của vấn đề
2.2.1 Về phía giáo viên
.
2.2.2 Về phía học sinh
.
2.3.
Một số giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1 Phương pháp và kĩ thuật tổ chức hoạt động khởi động
2.3.2 Phương pháp, kỹ thuật dạy học nhóm
2.3.3 Phương pháp, kỹ thuật đóng vai
2.3.4 Phương pháp, kỹ thuật trị chơi/lồng ghép trò chơi trong dạy
học
2.3.5 Kỹ thuật sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ
thông tin vào bài dạy
2.4.
Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


3.1.
Kết luận
3.2.
Kiến nghị

Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 8
Trang 10
Trang 12
Trang 14
Trang 18
Trang 20
Trang 20
Trang 20


2

1. MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết chương trình Giáo dục phổ thơng mới đặc biệt đề
cao đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy
học, học sinh được đặt vào trung tâm của hoạt động học. Bài toán đặt ra cho
người dạy là cần thay đổi phương pháp dạy học. Trong đó phương pháp dạy
học tích cực là việc lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, giáo viên
là người nêu và gợi mở lên vấn đề bằng nhiều cách khác nhau nhằm mang lại sự
hào hứng, sự tự giác cho học sinh. Như vậy, học sinh sẽ tự học, tự nhiên cứu, tự
trình bày và giải quyết các vấn đề để đưa ra kết luận cụ thể. Phương pháp này
tăng cường sự kết nối, thực hành giữa các học sinh trong môn học, tiết học. Học
sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ kiến thức, thơng qua việc tự mình tư duy và tìm tịi
khám phá. Giáo viên áp dụng nhiều cách để gợi mở vấn đề, vấn đáp, tương tác,
thảo luận nhóm hay chơi các trị chơi…
Có thể thấy, đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề được đề cập, bàn
luận và thực hiện trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong những năm gần đây, với
việc chuẩn bị thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì đổi
mới phương pháp dạy học càng được các nhà trường chú trọng thúc đẩy và phát
huy một cách có hiệu quả. Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
đồng nghĩa với việc chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học
lấy người học làm trung tâm.
Xuất phát từ những lý do mang tính thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Đổi
mới phương pháp, kỹ thuật dạy học môn Ngữ Văn 7 theo hướng phát triển
năng lực cho học sinh trường THCS Thị Trấn” để nghiên cứu và chia sẻ với
đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học môn Ngữ văn theo
hướng phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn đề tài này, tơi hướng đến mục đích nghiên cứu là: chỉ ra và
phát huy hiệu quả cao hơn nữa các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào
dạy Ngữ văn lớp 7 để từ đó phát huy năng lực và phẩm chất của học sinh, tạo
hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời sáng kiến cịn có mục tiêu là nâng cao

chất lượng học môn Ngữ văn tại trường THCS Thị Trấn.
Chia sẻ với đồng nghiệm một số kinh nghiệm dạy học của bản thân đã áp
dụng tại trường THCS Thị Trấn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 7 trường THCS Thị Trấn.
- Các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong dạy học mơn Ngữ Văn
lớp 7.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, cần có sự kết hợp của nhiều phương
pháp. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi vận dụng các phương pháp cơ bản sau:


3
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu và thực hiện theo các bước sau:
- Xây dựng chi tiết kế hoạch.
- Tiến hành điều tra thực tế
- Thực nghiệm sư phạm.
- Thu kết quả.
- Viết bài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trước hết chúng ta cần hiểu rõ khái niệm phương pháp dạy học là gì?
Phương pháp dạy học chính là cách thức, sự tương tác chung giữa giáo viên và
học sinh trong điều kiện dạy học tích cực nhằm đạt được mục tiêu của việc dạy
học. Đó là những hành động, cách thức tổ chức hoạt động học của thầy và trị.
Có rất nhiều phương pháp dạy học như: phương pháp thảo luận, nghiên cứu, trị

chơi, đóng vai, học nhóm…
Trong đó phương pháp dạy học tích cực là việc lấy học sinh làm trung
tâm của quá trình dạy học, giáo viên là người nêu và gợi mở lên vấn đề bằng
nhiều cách khác nhau mang lại sự hào hứng, sự tự giác của học sinh. Học sinh sẽ
tự học, tự nhiên cứu, tự trình bày và giải quyết các vấn đề để đưa ra kết luận cụ
thể. Phương pháp này tăng cường sự kết nối, thực hành giữa các học sinh trong
môn học, tiết học. Học sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ kiến thức, thơng qua việc tự
mình tư duy và tìm tịi khám phá. Giáo viên áp dụng nhiều cách để gợi mở vấn
đề, vấn đáp, tương tác, thảo luận nhóm hay chơi các trị chơi …
Như vậy, có thể nói phương pháp dạy học tích cực chính là hoạt động
và chủ động trái với không hoạt động và thụ động. Chúng ta có thể kể ra một
số phương pháp dạy học tích cực như:
- Phương pháp dạy học nhóm
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
- Phương pháp giải quyết vấn đề
- Phương pháp đóng vai
- Phương pháp trò chơi
- Phương pháp dự án (dạy học theo dự án)
- Phương pháp bàn tay nặn bột.
Có thể khẳng định kỹ thuật dạy học tích cực chính là hạt nhân của
phương pháp dạy học tích cực, hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh, nghĩa là hướng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động của
người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy.
Giáo viên cần nắm chắc một số kỹ thuật dạy học tích cực hiệu quả, cơ bản sau:
- Kỹ thuật các mảnh ghép
- Kỹ thuật khăn trải bàn
- Kỹ thuật động não


4

- Kỹ thuật bể cá
- Kỹ thuật tia chớp…
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên
Vấn đề đổi mới trong giáo dục luôn được đặt ra đối với ngành giáo dục nói
riêng và tồn xã hội nói chung. Đảng và Nhà nước cũng đặc biệt quan tâm đến
vấn đề này nhất là trong giai đoạn phát triển và hội nhập hiện nay. Chính vì vậy
mà Nghị quyết hội nghị TW8 khoá XI về đổi mới căn bản và toàn diện. Bộ giáo
dục và đào tạo đã xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố
cơ bản của giáo dục đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực
của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp
cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí
tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự
học, khuyến khích học tập suốt đời.
Trường THCS Thị Trấn tôi đang công tác là một ngôi trường luôn chú
trọng đến chất lượng dạy và học. BGH nhà trường luôn tạo mọi điều kiện để
giáo viên phát huy, sáng tạo trong giảng dạy.
Bên cạnh đó, hệ thống tài liệu, các game show của các chương trình
truyền hình, trên mạng khá phong phú đã gợi mở, tạo ý tưởng thuận tiện cho
việc soạn giảng, biến đổi, sáng tạo thành những trò chơi có thể kết hợp trong giờ
giảng, đồng thời tạo hứng thú cho học sinh học tập. Khắc sâu kiến thức bằng
những trị chơi, tiện ích thích hợp.
Bên cạnh những thuận lợi trên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên gặp
phải một số khó khăn nhất định: Giáo viên mất nhiều thời gian và công sức để
soạn bài, thiết kế các trị chơi.
2.2.2. Về phía học sinh
Một số học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập, cịn lơ là và chủ
quan, thiếu tính tích cực trong học tập nhất là môn Văn.

Một bộ phận không nhỏ HS ngày càng có xu hướng khơng thích học văn
vì cho rằng đây là mơn học thuộc, dài, khó học. Một số em chưa thật sự mạnh
dạn, nhận thức quá kém so với các bạn cùng trang lứa nên có tâm lí tự ti, mặc
cảm, khơng dám trình bày ý kiến của mình vì sợ sai các bạn chê cười dẫn đến
kết quả học tập không cao.
Từ thực trạng trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi luôn trăn trở
nghiên cứu tìm tịi về đổi mới phương pháp dạy học để từ đó phát huy năng lực
và phẩm chất của học sinh cũng như nâng cao chất lượng bộ môn.
Kết quả khảo sát đầu năm của khối lớp 7 năm học 2021 – 2022
Nội
Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
dung
HS
SL TL(%) SL TL(% SL TL(%) SL TL(%
)
)
Khảo
125/12
5
4,0
14 11,2
65
52,0
41
32,8
sát đầu

7


5
năm
2.3. Một số giải pháp thực hiện
2.3.1. Phương pháp và kỹ thuật tổ chức hoạt động khởi động
Hoạt động khởi động được tổ chức khi bắt đầu một bài học nhằm giúp học
sinh huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã có để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và
kĩ năng mới. Tại sao cần có hoạt động này? Việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ
cũng dựa trên những kinh nghiệm đã có trước đó của người học, giúp giáo viên
tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống
có liên quan đến nội dung của bài học; tạo hứng thú và một tâm thế tích cực để
học sinh bước vào bài học mới. Có thể nói hoạt động khởi động có nhiệm vụ
khơi gợi, kích thích học trị mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những
hoạt động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Muốn như vậy, hoạt
động khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề
để thực hiện một loạt các hoạt động hình thành kiến thức, tìm tịi, giải quyết vấn
đề. Và tất nhiên giáo viên phải là người có ý tưởng, phải thật khéo léo gợi mở
vấn đề của bài học, kích thích trí tị mị và tạo hứng thú cho các em học sinh.
Ví dụ 1: Bài “Cổng trường mở ra” với mục tiêu bài học là giúp HS chỉ
ra được những chi tiết thể hiện tâm trạng của người mẹ trước ngày khai trường
đầu tiên của con; trình bày được tình cảm thiêng liêng của cha mẹ dành cho con
cái và ý nghĩa của nhà trường đối với cuộc đời của mỗi con người. Từ mục tiêu
trên, tơi có thể tiến hành hoạt động khởi động với câu hỏi mang tính chất đặt vấn
đề và gợi mở:
? Văn bản sau đây có nhan đề là “Cổng trường mở ra”. Đã trải qua
quãng thời gian được học tập dưới mái trường, theo em, cổng trường mở ra
cho em những điều kì diệu gì?
Sau khi học sinh trả lời bài tập tình huống trên thì tơi sẽ hướng dẫn học

sinh tìm hiểu nội dung tiết học. Và mục tiêu bài học sẽ dễ dàng được học sinh
tiếp thu và lĩnh hội, vận dụng.
Ví dụ 2: Bài “Bạn dến chơi nhà” nhằm giúp học sinh cảm nhận được
tình cảm gắn bó, trân thành, vượt lên trên mọi vật chất của tác giả thông qua
cách tạo dựng tình huống khó xử khi bạn đến chơi. Từ mục tiêu bài học, tôi đã
tiến hành hoạt động gắn liền với thực tế của học sinh:
? Trong cuộc sống, mỗi khi có bạn của thành viên trong gia đình, đặc
biệt là những người bạn thân ở xa đến chơi, gia đình em đã tiếp đãi như
thế nào?
Từ thực tế trong đời sống của các em, tôi sẽ dẫn dắt học sinh bắt nhịp vào
bài học, từ đó giúp học sinh thấy được tình bạn của tác giả được thể hiện trong
bài thơ.
Ví dụ 3: Khởi động bài “Những câu hát châm biếm”, giáo viên có thể
cho học sinh xem tranh. Học sinh xem tranh và trả lời các câu hỏi. Học sinh hoạt
động nhóm từ 2-3 phút.
1. Những hình ảnh sau đây gợi cho em liên tưởng đến bài ca dao nào
đã học (hoặc đã biết)?


6
2. Theo em, những bài ca dao đó thể hiện nội dung gì?

(Tranh 1: Em liên tưởng đến bài ca dao nào?)

(Tranh 2: Em liên tưởng đến bài ca dao nào?)


7

(Tranh 3: Em liên tưởng đến bài ca dao nào?)

Ví dụ 4: Khởi động bài “Những câu hát về tình cảm gia đình”, HS lắng
nghe bài hát dân ca về tình cảm gia đình và nêu cảm nhận (hoạt động cá nhân).
Ví dụ 5: Bài “Sơng núi nước Nam” có mục tiêu bài học là giúp HS: chỉ ra
được những yếu tố thể hiện tinh thần độc lập, khí phách hào hùng, khát vọng lớn
lao của dân tộc trong bài thơ. Tơi có thể tiến hành hoạt động khở động qua việc
tổ chức trò chơi “Thi tài hiểu biết lịch sử của em”. Cả lớp chia làm 4 đội thi
tương ứng với 4 tổ.
Tôi đọc các sự kiện, chiến công của một số nhân vật lịch sử. Sau đó yêu cầu
các đội nói tên nhân vật, đội nào giơ tay trước sẽ được quyền trả lời. Đội thi nào
chiến thắng sẽ nhận được một tràng vỗ tay chúc mừng của cả lớp hay phần
thưởng của cô giáo.
(1) 16 tuổi, căm thù giặc đến bóp nát quả cam trong tay ở bến Bình Than mà
khơng hề hay biết, giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo
hoàng ân”, góp cơng đánh thắng giặc Mơng - Ngun lần thứ hai.
-> Đáp án: Trần Quốc Toản
(2) Ba lần cầm quân đánh đuổi giặc Mông - Nguyên, được nhân dân tôn vinh
là Đức Thánh Trần, là người viết áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”
->Đáp án: Trần Hưng Đạo
(3) Đánh bại quân tống vào năm 1075- 1077, nổi tiếng với chiến thắng trên
phịng tuyến sơng Như Nguyệt và thường được coi là tác giả của bài thơ thần
“Nam quốc sơn hà”
-> Đáp án: Lý Thường Kiệt
(4) Ban “Chiếu đời đô” (Thiên đô chiếu) vào mùa xuân năm 1010 để chuyển
dời kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà
Nội)
-> Đáp án: Lí Cơng Uẩn


8
Áp dụng hoạt động khởi động trên không những giúp HS nhớ lại kiến

thức liên mơn Văn-Sử mà cịn giúp các em có tâm lý vui vẻ, hào hứng để bước
vào nội dung chính bài học.
Như vậy, để thực hiện hoạt động khởi động cho các bài trên, giáo viên đã
vận dụng các phương pháp dạy học tích cực như:
- Phương pháp dạy học nhóm (học sinh trao đổi thảo luận với bạn rồi đưa
ra ý kiến).
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình (học sinh nghiên cứu cụ
thể 1 bài ca dao đã biết đến).
- Phương pháp giải quyết vấn đề (động não, suy nghĩ và giải quyết các câu hỏi/
bài tập tình huống mà giáo viên đưa ra).
2.3.2. Phương pháp, kỹ thuật dạy học nhóm
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm để giúp HS
hình thành và khắc sâu kiến thức. Bản chất dạy học nhóm cịn được gọi bằng
những tên khác nhau như: dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Trong đó
học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian
giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân
công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và
đánh giá trước tồn lớp. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được
tính tích cực, tính trách nhiệm, phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực
giao tiếp, thuyết trình của học sinh.
Trong hoạt động hợp tác nhóm, học sinh phải nhận thấy được trách nhiệm
giải quyết nhiệm vụ chung của mình. Vì vậy các thành viên của nhóm phải gắn
kết với nhau theo cách nghĩ mỗi cá nhân cũng như tồn nhóm chỉ có thể thành
cơng nếu cố gắng hết sức mình. Nếu một bạn nào trong nhóm khơng hồn thành
thì chắc chắn nhiệm vụ của cả nhóm sẽ khơng hồn thành. Vì vậy, ngay từ đầu
tôi xác định rõ cho các em hiểu được trách nhiệm của mình trong nhóm học tập
là: thực hiện nhiệm vụ được giao - đảm bảo các thành viên trong nhóm mình đều
hồn thành nhiệm vụ được giao (bạn nào xong trước thì cùng hỗ trợ cho bạn
mình để nhiệm vụ của nhóm được hồn thành, nhắc các bạn cùng tham gia thảo
luận).

Nhóm học tập được tổ chức sao cho từng thành viên trong nhóm khơng
thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học,
đóng góp phần mình vào cơng việc chung và thành cơng của nhóm. Mỗi thành
viên thực hiện một vai trò nhất định. Các vai trò ấy được luân phiên thường
trong các nội dung hoạt động khác nhau (nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên…)
Mỗi thành viên đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác.
Dưới sự điều khiển của nhóm trưởng, tất cả các thành viên trong nhóm đều phải
làm việc. Có thể mỗi cá nhân có tiến độ thực hiện cơng việc khác nhau. Nếu gặp
khó khăn hay tốc độ chưa đảm bảo, tơi khuyến khích các em có năng lực tốt hơn
theo dõi giúp đỡ bạn. Khi cần thảo luận hoặc thống nhất nội dung gì, nhóm
trưởng nêu u cầu, mọi thành viên trong nhóm đều có trách nhiệm đóng góp ý
kiến. Nhóm sẽ kịp thời biểu dương những bạn có nhiều ý kiến hay hoặc những


9
thành viên vốn rụt rè nhút nhát mà có tiến bộ. Từ đó nâng cao trách nhiệm của
mỗi cá nhân trong nhóm.
Các thức tổ chức: giáo viên thực hiện theo qui trình 4 bước:
+ Bước 1: GV nêu nhiệm vụ, có thể chiếu câu hỏi lên máy chiếu.
+ Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh thảo luận. Bao quát, kiểm tra quá
trình hoạt động của học sinh.
+ Bước 3: Các nhóm báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung.
+ Bước 4: Giáo viên nhận xét, đánh giá- kết luận
Ví dụ 1: Bài “Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước, con
người”.
Hoạt động hình thành kiến thức, để giúp HS nắm được nội dung và nghệ
thuật của các bài ca dao, giáo viên có thể tổ chức hoạt động nhóm (nhóm bàn
hoặc nhóm tổ). HS có thời gian thảo luận từ 5-7 phút. Câu hỏi: Mỗi nhóm

chọn một bài trong chùm ca dao trên và trả lời các câu hỏi:

1. Bài ca dao là lời của ai nói với ai? Dựa vào đâu mà em biết được
điều đó?
2. Tình cảm, cảm xúc nổi bật được thể hiện qua bài ca dao là gì?
3. Để thể hiện những nội dung và cảm xúc vậy, tác giả dân gian đã sử
dụng những biện pháp nghệ thuật nào? Hãy chỉ ra tác dụng của chúng.
Hoạt động luyện tập: để giúp học sinh củng cố kiến thức bài học, giáo viên
yêu cầu thảo luận nhóm lớn (nhóm tổ) để thực hiện bài tập: Câu hỏi:
1. Qua những bài ca dao vừa học, em có nhận xét gì về đời sống tâm
hồn, tình cảm của người dân lao động xưa.
2. Hãy nêu nhận xét của em về thể thơ của các bài ca dao đó.
Ví dụ 2: Tổ chức hoạt động nhóm cho HS khi dạy bài “Tục ngữ về thiên
nhiên và lao động sản xuất”. Mục tiêu bài học là giúp HS trình bày được khái
niệm tục ngữ, hiểu và lý giải được nội dung, ý nghĩa và đặc sắc nghệ thuật của
những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất; bước đầu hình thành kỹ
năng đọc hiểu tục ngữ.
Để đạt được mục tiêu bài học như trên, ở hoạt động hình thành kiến thức,
sau khi giúp HS chia các câu tục ngữ trong bài thành 2 nhóm (tục ngữ về thiên
và tục ngữ về sản xuất), GV có thể tổ chức hoạt động nhóm.
Cách thức tổ chức: HS hồn thành các phiếu học tập sau đây (nhóm 1, 2
hồn thành phiếu số 1; nhóm 3, 4 hồn thành phiếu số 2 – tương ứng với 4 tổ):
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
Câu 1: Những câu tục ngữ ở nhóm 1 thể hiện nội
dung cụ thể gì?
Câu 2: Dựa vào đâu mà tác giả dân gian có thể khái
quát nên những câu tục ngữ đó?
Câu 3: Theo em, những nội dung được đúc rút nêu
trên có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của chúng ta
ngày nay?


Câu 1: Những câu tục ngữ ở nhóm 2 thể hiện nội dung
cụ thể gì?
Câu 2: Dựa vào đâu mà tác giả dân gian có thể khái
quát nên những câu tục ngữ đó?
Câu 3: Theo em, những nội dung được đúc rút nêu trên
có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của chúng ta ngày nay?

Như vậy, chúng ta có thể thấy phương pháp dạy học theo nhóm sẽ tránh
được cách dạy học thụ động trước đây, học sinh sẽ phát huy được tính chủ động,
sáng tạo. Học sinh tự khám phá, lĩnh hội kiến thức dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn
của thầy cơ, các em có cơ hội sẻ chia kiến thức, trình bày trước lớp. Do vậy, giờ


10
học sẽ rất sôi nổi, học sinh hứng thú. Các em nắm chắc kiến thức và ghi nhớ sâu,
tránh được cách học vẹt, học hình thức trước đây. Và quan trọng hơn học sinh
được rèn luyện thêm nhiều kĩ năng mềm, đặc biệt là kỹ năng thuyết trình, kỹ
năng phản biện, kỹ năng hợp tác… Từ đó giúp các em phát triển toàn toàn diện
cả năng lực và phẩm chất.
2.3.3. Phương pháp, kỹ thuật đóng vai
Đóng vai là một phương pháp dạy học - một hoạt động trải nghiệm sáng
tạo trong đó người học thực hiện những tình huống hành động được mô phỏng
(theo các vai) về một chủ đề gắn với thực tiễn. Học sinh sẽ hóa thân vào một vai
"giả định" trong một tình huống hành động cụ thể để hành động, trình bày suy
nghĩ, cảm nhận từ chỗ đứng, góc nhìn của vai mà học sinh đảm nhận.
Trong mơn Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện theo một số
hình thức hoạt động sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học; chuyển
thể một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu; vào vai để xử lí một tình
huống giao tiếp giả định; trình bày một vấn đề, một ý kiến (ở cả dạng viết và
nói) từ các góc nhìn khác nhau

Một số hình thức đóng vai trong dạy học mơn Ngữ văn
Vào vai nhân vật để kể, tóm tắt truyện:
Trong sách giáo khoa Ngữ văn mỗi lớp đều có khá nhiều truyện ngắn và
đoạn trích... Trong tiến trình dạy học ln có phần đọc và tóm tắt. Thay vì cho
học sinh trình bày “sng” như lâu nay vẫn thực hiện thì giáo viên có thể cho
học sinh hóa thân vào các nhân vật để các em kể lại. Nếu văn bản có hơn hai
nhân vật thì cho hai học sinh vào vai để đọc. Hình thức đóng vai này phù hợp
với hầu hết các đối tượng học sinh.
Hóa thân vào nhân vật ở đây sẽ có 2 mức độ đó là:
Mức độ 1: Đọc nguyên văn lại lời của nhân vật theo văn bản trong sách
giáo khoa. Ví dụ văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” có nhân vật:
Thành, Thủy, Mẹ, cô giáo... Giáo viên cho 3 học sinh đọc văn bản theo từng vai
nhân vật và có thêm nhân vật người dẫn truyện.
Mức độ thứ 2: hóa thân vào nhân vật, xưng là “tôi” để kể chuyện thì
ngơn ngữ có thể thể thay đổi nhưng trọng tâm vẫn đảm bảo cốt truyện. Ví dụ vào
vai Thành hoặc Thủy để kể lại câu chuyện. Ở đây học sinh sẽ xưng bản thân là
“tôi”, học sinh tự dẫn truyện và kể hết. Mức độ này yêu cầu cao hơn là học sinh
phải đọc kĩ truyện, thuộc cơ bản lời thoại thì mới trình bày được. Và cộng thêm
yếu tố tự tin, khả năng nói lưu lốt…
Như vậy, phương pháp đóng vai nhân vật đã giúp học sinh nắm chắc được
nội dung của văn bản, rèn luyện được kĩ năng giao tiếp, tự tin, ứng xử linh hoạt
và hợp tác nhuyền nhuyễn.
Vào vai nhà văn:
Phương pháp vào vai nhà văn được sử dụng khi tìm hiểu cuộc đời tác giả
và tác phẩm.Thay vì hỏi theo lối truyền thống “Hãy cho cơ biết vài nét về tác
giả, tác phẩm” thì nay chúng ta có thể cho học sinh được vào vai. Nói cho chính
xác thì đó chính là bình mới rượu cũ nhưng học sinh lại rất thích thú. Để cuộc


11

phỏng vấn diễn ra sn sẻ thì học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà, ít nhất cũng nắm
chắc chắn tác giả, tác phẩm.
Cách thực hiện: giáo viên cho một học sinh đóng vai là nhà văn và cho
một học sinh khác để hỏi trực tiếp nhà văn những thông tin có ở trong mục chú
thích (*) sách giáo khoa mỗi khi học bài học là văn bản.
Thời gian diễn ra cuộc hỏi đáp (phỏng vấn) này diễn ra tầm 2-3 phút giữa
nhà văn và học sinh theo kịch bản đơn giản.
Trải nghiệm sân khấu hóa tác phẩm văn học:
Sân khấu hóa các tác phẩm văn học là một hình thức trải nghiệm bổ ích,
hấp dẫn, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh thông qua việc các em được tự
chọn lựa tác phẩm, được tham gia vào quá trình sáng tác kịch bản, được cùng
đưa ra ý kiến thiết kế sân khấu... Sân khấu hóa tác phẩm chính là một hình thức
đưa các tác phẩm văn học vào đời sống, giúp tác phẩm văn học gần gũi hơn các
các em học sinh, giúp các em một lần nữa khắc sâu được kiến thức bài học. Sân
khấu hóa văn học cũng giúp học sinh và giáo viên được đặt mình vào “trường
sáng tạo” và “trường thưởng thức” các tác phẩm, từ đó có cách cảm nhận, đánh
giá tốt hơn về những giá trị của văn học.
Tôi đã xây dựng các bước tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo như
sau:
Các bước
Nội dung công việc
Bước 1

Xác định nhu cầu tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo (cần phù hợp với đối tượng học
sinh và điều kiện nhà trường).

Bước 2

Đặt tên cho hoạt động: múa, hát, kể chuyện, đóng kịch, vẽ
tranh, tham quan trải nghiệm…


Bước 3

Xác định mục tiêu của hoạt động.

Bước 4

Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của
hoạt động.

Bước 5

Lập kế hoạch.

Bước 6

Thiết kế chi tiết hoạt động trên bản giấy.

Bước 7

Kiểm tra, điều chỉnh và hồn thiện chương trình hoạt động.

Bước 8

Lưu trữ kết quả hoạt động vào hồ sơ của học sinh.

Có thể nói, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một hoạt động học tập bổ ích, có
hiệu quả đối với học sinh ở nhà trường phổ thông. Thông qua hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, học sinh được phát huy vai trị chủ động, tích cực và sáng tạo
trong hoạt động học tập của mình. Bồi dưỡng và phát triển năng lực đặc thù của

môn học như năng lực đọc hiểu, năng lực thưởng thức, cảm thụ văn chương,
năng lực đánh giá cái hay, cái đẹp của văn chương, năng lực vận dụng ... Từ đó
có thể tham gia vào quá trình giao tiếp văn học, giao tiếp đời sống một cách có
hiệu quả.


12
Với đối tượng học sinh trường THCS Thị Trấn, tôi đã tổ chức các hoạt động
sân khấu hóa tác phẩm văn học dưới các hình thức như:
- Thi tiếng hát dân ca: học sinh hát các làn điệu dân ca theo chủ đề tự chọn
(dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nam Bộ, dân ca Bắc Bộ...)
- Thi sáng tác ca dao, dân ca: học sinh tự sáng tác bài ca dao hoặc sáng tác
các làn diệu dân ca.
- Đóng kịch: kịch chuyển thể từ một số truyện như: “Cuộc chia tay của
những con búp bê”; “Sống chết mặc bay”…
2.3.4. Phương pháp, kỹ thuật trò chơi/ Lồng ghép trò chơi trong dạy học
Để nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng
thành thạo các phương tiện dạy học. Các phương tiện dạy học vừa là nguồn cung
cấp kiến thức, vừa là phương tiện minh họa cho bài học, đồng thời là phương
tiện thực hiện thao tác quátrình dạy học của giáo viên. Giáo viên nên đầu tư thời
gian, công sức để nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo ra các hìnhthức trị chơi lồng
ghép trong giờ học tạo hứng thú say mê cho học sinh, giảm bớt căngcthẳng,
nhàm chán cho những tiết học bởi trị chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là
một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được
nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng.
Giáo viên cần nắm chắc phương pháp, kỹ thuật lồng ghép trò chơi trong
dạy học mơn Ngữ văn. Học sinh tham gia các trị chơi vừa là một hoạt động giải
trí vừa là một phương pháp giáo dục. Dạy học thơng qua trị chơi - một phương
pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò
chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học

khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải pháp này sẽ
làm thay đổi khơng khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho
người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn
trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo và đặc biệt giúp các em
nhớ bài học rất sâu.
Ngồi ra, giáo viên có thể sử dụng các ứng dụng phần mềm trò chơi.
Nhiều phần mềm trị chơi có kết hợp âm thanh và hình ảnh sinh động sẽ góp
phần thu hút và tạo hứng thú cho HS. Rất nhiều trị chơi ngồi mục đích giải trí
cịn có thể giúp HS ơn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm
kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp
các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm
lý do tiết học trước gây ra.
Trước khi chơi, GV cần chuẩn bị đồ dùng, phương tiện cần thiết, tạo hiệu
ứng, hệ thống câu hỏi liên quan đến bài mới, dự kiến tình huống xảy ra và cách
xử lí tình huống, kết quả đạt được qua trị chơi. Để có những trị chơi hấp
dẫn, giáo viên phải sáng tạo khơng ngừng đồng thời khuyến khích các em tham
gia nhiệt tình, chơi hết mình; động viên, khuyến khích các em đạt hiệu quả cao
trong q trình tham gia trị chơi bằng những điểm số nhất định.Giáo viên có thể
sử dụng linh hoạt, hiệu quả các bộ game (bộ trò chơi) đã được thiết kế sẵn. Điều
thú vị là những phần mềm game này được thiết kế hình ảnh và âm thanh rất sinh
động do vậy hấp dẫn hầu hết HS trong lớp tham gia. Nội dung câu hỏi được giáo


13
viên biên soạn và chọn lựa sao cho phù hợp với mục tiêu bài học và đối tượng
học sinh.
Khi lựa chọn và thiết kế lồng ghép trò chơi trong dạy học, giáo viên cần
thực hiện theo các bước sau:
Các bước


Vận dụng phương pháp trò chơi

Bước 1

Lựa chọn đơn vị kiến thức phù hợp.

Bước 2

Xác định các phương pháp và kỹ thuật phối kết hợp.

Bước 3

Thiết kế xây dựng câu hỏi, hình thức tổ chức.

Bước 4

Vận dụng vào quá trình dạy học.

Bước 5

Đánh giá hiệu quả (kiến thức, kỹ năng, thái độ)

Bước 6

Rút kinh nghiệm, vận dụng với những đơn vị kiến thức khác

Để giúp học sinh nắm nhanh và nắm chắc kiến thức bài học đồng thời tạo
khơng khí lớp học vui vẻ, giáo viên có thể sử dụng đa dạng một số trị chơi sau
trong hoạt động hình thành kiến thức, hoạt động luyện tập hoặc vận dụng.
Ví dụ 1: Tiết “Thêm trạng ngữ cho câu”, GV có thể tổ chức trị chơi thi tài

giữa các nhóm.
Cách thức tổ chức: Cả lớp cùng chọn 1 đề tài bằng việc thực hiện yêu cầu
sau:
- Đặt câu theo nội dung đề tài bằng cấu trúc câu chỉ bao gồm chủ ngữ và vị
ngữ.
- Thêm trạng ngữ cho các câu đã đặt.
- Đại điện mỗi nhóm sẽ đọc to các câu đã được thêm trạng ngữ, chỉ rõ cho cả
lớp thấy cụm chủ - vị được sử dụng để mở rộng thành phần nào.
Sản phẩm GV thu được là các câu đầy đủ cấu trúc trạng ngữ - chủ ngữ - vị
ngữ.
Ví dụ 2: Khi dạy tiết: Ôn tập phần Tiếng Việt, giáo viên có chia lớp ra làm
4 nhóm, yêu cầu các nhóm tham gia trị chơi: Nhóm nhanh hơn với yêu cầu:
Vẽ sơ đồ tư duy để kể tên các Đơn vị kiến thức Tiếng Việt - Ngữ văn lớp 7 tập I
đã được học. Việc vẽ sơ đồ tư duy giúp cho học sinh khả năng khái quát hóa các
kiến thức đã được học ở từng bài. Từ đó giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào nội
dung của bài ơn tập.
Ví dụ 3: Trị chơi tập thể (hoạt động nhóm): Trị chơi này dùng trong
những giờ ơn tập, đặc biệt là ôn tập Tiếng Việt. Thay bằng việc cho học sinh lập
bảng thống kê kiến thức bình thường, GV có thể làm thành những bảng nhóm
(tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng
bảng này để điền vào ơ trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học
sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham
gia của cả lớp.


14
- Chuẩn bị: Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và
các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các
bảng (có thể in trên giấy A0), các bảng này phát cho các nhóm.
Ví dụ cụ thể: Trong phần lập bảng sơ đồ tư duy về từ loại, GV viết từ khóa là:

“Từ phức”. Các ơ nội dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức.
- Các nhóm học sinh nhận bảng kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận
để tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng
kết. Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.
2.3.5. Kỹ thuật sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông tin
vào bài dạy
Trong xu thế hiện nay, sử dụng đồ dùng trực quan cũng như ứng dụng
công nghệ vào dạy học Ngữ văn đã tạo nhiều hứng thú, những chuyển biến tích
cực ở các tiết học. Trong nhiều tiết học, nhiều đồ dùng trực quan, tranh ảnh
video, phim tư liệu… được thầy cô chú ý sử dụng. Tiết học sinh động hơn bởi
học sinh được quan sát trực tiếp đồ vật liên quan đến bài học, hiệu ứng cho các
con chữ, xuất hiện các hình ảnh, trình chiếu các đoạn phim… Quả thật, cũng
trong dung lượng thời gian như thế, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh chiếm
lĩnh nhiều kiến thức hơn so với cách học truyền thống, với bảng và phấn hay chỉ
hình ảnh minh họa trong sách giáo khoa sẵn có. Thật vậy, khi sử dụng đồ dùng
trực quan, tranh ảnh, video có thể mở rộng kiến thức, sự hiểu biết mà phải phát
huy năng lực cảm thụ, cảm hứng thẩm mĩ mà không đánh mất sự rung cảm vốn
có ở học sinh, nhất là các tiết đọc văn.
Bên cạnh kênh chữ, kênh hình cũng có nhiều thay đổi phù hợp với sự đa
dạng của các tranh ảnh minh họa phù hợp với nội dung bài học, có giá trị nghệ
thuật ... góp phần tạo sự lơi cuốn, hấp dẫn đối với học sinh. Thơng qua bức hình
minh hoạ, học sinh có thể nhận biết nội dung và vẻ đẹp của tác phẩm văn học
hay hiểu hơn về phương pháp, cách viết 1 bài văn... Do đó, việc sử dụng đồ
dùng trực quan, tranh ảnh, tư liệu là việc làm cần thiết trong dạy học nhất là
trong bối cảnh hiện nay khi tất cả chúng ta đang đứng trước sự bùng nổ về công
nghệ, mạng internet.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, kênh hình giáo viên cần đảm bảo tính thẩm
mỹ, tính giáo dục; kết hợp chặt chẽ và tiến hành song song nhiều hoạt động,
nhiều phương pháp một lúc để khai thác nội dung bài học bằng cách đưa ra hệ

thống câu hỏi gợi mở, những lời bình, đan xen phân tích... nhằm phát huy tối đa
khả năng khám phá, tìm tịi phát hiện của học sinh. Có như vậy giờ học đọc hiểu
Ngữ văn mới trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả giáo
dục.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, kênh hình cần có sự lựa chọn và thực hiện
theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên nêu câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh
tìm hiểu thông điệp mà video, tư liệu hướng đến.
Bước 2: Cho học sinh xem video để học sinh xác định một cách khái quát
nội dung video, tư liệu cần khai thác.


15
Bước 3: Học sinh trình bày những kết quả mình nhận ra được từ video, tư
liệu.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung và hoàn thiện nội dung khai thác
video, giáo viên vận dụng để giới thiệu vào bài hoặc dẫn dắt vào vấn đề.
Để đạt hiệu quả cao của tiết học, giáo viên cần sử dụng linh hoạt và hiệu
quả đồ dùng trực quan, kênh hình trong các hoạt động của bài học.
Cách thức thực hiện- ví dụ cụ thể trong dạy bài “Một thứ quà của lúa
non: Cốm”- Thạch Lam.
a. Hoạt động khởi động: mục tiêu là HS thực hiện nhiệm vụ học tập gắn với
kiến thức bài mới.
- GV chia lớp làm 2 đội thi. (Đội 1 tổ 1 và 2; Đội 2 tổ 3 và 4). Các đội quan sát
hình ảnh trên máy chiếu (nếu khơng có máy chiếu, GV có thể dùng tranh in) và
trả lời câu hỏi:
1) Các bức ảnh khiến em nghĩ đến món ăn nào của Hà Nội?
2) Chia sẻ vài hiểu biết của em về món q đó (ảnh cốm)
Các hình ảnh được sử dụng:


(Bánh cuốn Thanh Trì)


16

(Phở Hà Nội)

( Xôi Xéo)


17

Chia sẻ vài hiểu biết của em về món quà sau

b. Hoạt động hình thành kiến thức
- Mục tiêu: tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống/vấn đề học
tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu tìm
hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập
- Phương pháp, kĩ thuật: xem tranh ảnh minh họa, tư liệu khơi gợi cảm
xúc, tạo tình huống có vấn đề
- Phần áp dụng: tìm hiểu về nguồn gốc và giá trị của cốm.
Giáo viên: Trình chiếu ảnh minh họa về sen, cánh đồng lúa đang bắt
đầu vào vụ. Học sinh: Xem video và cảm nhận.


18

- GV chiếu hình ảnh minh họa các bà, các cơ gái làng Vịng làm cốm:
- HS quan sát hình ảnh và trả lời câu hỏi:
Thảo luận nhóm bàn:

1) Theo em, cốm được cốm được hình thành do những yếu tố nào?
2) Qua đó em có cảm nhận về tấm lịng của tác giả khi giới thiệu về sự
hình thành của cốm ra sao?

2.4. Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp
- Rèn tính tự giác, tự lập, tích cực, tạo mối quan hệ hài hịa trong q trình
trao đổi, làm việc nhóm. Phát huy được sự thơng minh, phát hiện tri thức, đánh
thức tiềm năng sang tạo của học sinh. Đồng thời sáng kiến góp phần rèn kỹ năng
sống cho học sinh.


19
- Đưa ra những giải pháp về cách thức vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học
tích cực, có hiệu quả vào trong quá trình dạy học.
- Mỗi giải pháp lại đưa ra được những ví dụ cụ thể, chi tiết.
- Xây dựng và sáng tạo nhiều kỹ thuật dạy học với cách thức vận dụng linh hoạt
vào các hoạt động dạy và học.
Có thể nói, những biện pháp mà tơi trình bày trên đây đã được đúc kết từ
q trình tơi trực tiếp đứng lớp giảng dạy, được cơng tác trong một môi trường
làm việc nghiêm túc chuyên nghiệp, và cụ thể là trên thực tế kết quả giảng dạy
học sinh của lớp mình. Với việc vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học
tích cực mà tơi vừa trình bày ở trên, học sinh được chủ động học tập, chiếm lĩnh
và làm chủ kiến thức. Bằng cách này, các em được lôi cuốn vào hoạt động học
tập, được say mê tìm tịi và hứng thú trong mỗi tiết học hơn được khám phá.
Mơn Văn học khơng cịn là mơn học thuộc khó học, khó nhớ…
Sau khi áp dụng các phương pháp trên vào dạy môn Ngữ văn lớp 7, tôi
tiến hành khảo sát tại lớp 7A1, 7A2, 7A3 và thu được kết quả rất đáng mừng. Cụ
thể:

Tổn

g HS

127

KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Mức độ u thích mơn Sự tự giác học bộ mơn
Rất
thích

Bình
thườn
g

63

51

Khơng Thường Thỉnh Khơng
thích
xun thoảng bao giờ
13

68

41

8

Đánh giá bộ mơn
Rất

khó

Bình
thườn
g

Rất
dễ

71

56

0

Bảng so sánh kết quả khảo sát chất lượng đầu năm và cuối năm môn văn
của học sinh khối 7 năm học 2021 - 2022.
Nội
Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
dung
HS
SL TL(%) SL TL(% SL TL(%) SL TL(%
)
)
Khảo sát 125/12
5

4,0
14 11,2
65
52,0
41
32,8
đầu năm
7
Kết quả
127
18
14,1 48 37,8
61
48,1
0
0
cuối năm
So với các phương pháp dạy học truyền thống trước đây thì với việc vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực mà tơi vừa trình bày ở trên, học sinh
được chủ động học tập, chiếm lĩnh và làm chủ kiến thức. Bằng các phương pháp
dạy học tích cực này, các em được lôi cuốn vào hoạt động học tập, được say mê
tìm tịi và hứng thú trong mỗi tiết học hơn. Học sinh được thể hiện các năng lực,
phẩm chất bản thân: năng lực tư duy, năng lực làm việc nhóm, năng lực đọc ca
dao, năng lực hát dân ca, năng lực cảm thụ âm nhạc…


20
Qua quá trình thực hiện, áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích
cực vào dạy mơn Ngữ văn tại trường THCS Thị Trấn, tôi thấy rất hiệu quả. Đa
số học sinh u thích các giờ dạy của tơi. Các em rất tự tin, tích cực trong việc

soạn bài và trả bài cũ, hăng say phát biểu đóng góp ý kiến. Điều đặc biệt mà tôi
nhận thấy rõ rệt là các em đã có ý thức tự giác, tự tin, chủ động sáng tạo và thật
sự yêu thích bộ mơn Ngữ văn. Và chính các em lại truyền ngọn lửa đam mê văn
học cho tơi, khiến tơi tích cực hơn, thích tìm tịi và sáng tạo hơn trong mỗi giờ
dạy. Chính tơi cũng học tập được nhiều điều bổ ích từ các em.
Khả năng áp dụng và nhân rộng của sáng kiến:
- Giải pháp hồn tồn có thể sử dụng với tất cả các lớp học, các đối tượng
học sinh khác nhau, phù hợp với mọi điều kiện hoàn cảnh cơ sở vật chất.
- Giải pháp có thể vận dụng vào tất cả các hoạt động học của học sinh từ
khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng, tìm tịi, mở rộng.
- Giải pháp có thể vận dụng vào các môn học khác.
- Giải pháp đề cập đến một trong những yêu cầu bức thiết của nền giáo dục
nước nhà. Và nó cũng đang là những giải pháp chủ đạo góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục.Vì vậy, việc áp dụng và mở rộng biện phá là hồn tồn có thể
thực hiện ở tất cả các trường trong cả nước, với tất cả các đối tượng học sinh.
Điều kiện để áp dụng sáng kiến
- Nhà trường cần đầu tư về trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Giáo viên chuẩn bị bài chu đáo, tích cực nghiên cứu tìm tịi và đổi mới
phương pháp, rút kinh nghiệm kịp thời qua mỗi bài dạy.
- Học sinh chuẩn bị bài chu đáo, tích cực, chủ động và sáng tạo trong các
hoạt động học tập và trải nghiệm sáng tạo.
Có thể kết luận: sáng kiến hồn tồn có thể sử dụng với tất cả các lớp học,
các đối tượng học sinh khác nhau, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy mơn Ngữ văn chính
là một hướng đi đúng đắn để nâng cao chất lượng dạy học. Với đối tượng học
sinh lớp 7, giáo viên vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực vừa nêu
trên vào dạy học sẽ lôi cuốn được các em vào hoạt động học tập, vui chơi, khám

phá bổ ích. Từ đó giúp các em say mê, u thích mơn học. Và quan trọng hơn,
mơn Ngữ văn góp phần khơng nhỏ vào việc ni dưỡng và bồi đắp thế giới tâm
hồn các em!
3.2. Kiến nghị
Đổi mới PPDH hiện đang là vấn đề chính yếu để nâng cao chất lượng dạy
học, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cụ thể nhưa sau:
Đối với Tổ/ nhóm chun mơn
Tăng cường dự giờ thăm lớp, tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học…
Đối với Lãnh đạo nhà trường


21
Quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng giáo dục 2 mặt của học sinh: tăng
cường các hoạt động trải nghiệm và sáng tạo cho học sinh; chuẩn bị tốt hơn nữa
cơ sở vật chất, thiết bị dạy dạy học để giáo viên có điều kiện tốt nhất lên lớp.
Đối với Sở giáo dục và đào tạo
Tổ chức nhiều lớp tập huấn để thầy cô được trao đổi, bồi dưỡng về
chuyên môn, phương pháp nghiệp vụ sư phạm…
Trong khi thực hiện và trình bày sáng kiến, khó tránh khỏi sai sót và chưa
thật sự khoa học, tơi kính mong các đồng chí góp ý để bản thân tơi làm tốt hơn
nữa cơng tác giáo dục, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ “trồng người”.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2022
Tôi cam đoan SKKN này là của cá
nhân, không coppy của tác giả khác.
Người thực hiện


Lê Vũ Sơn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
T
T
1

2

3

4

5

Tên tài liệu

Tác giả

Dạy học phát triển năng
lực môn Ngữ văn THCS

Đỗ Ngọc Thống
(chủ biên)

Nhà xuất
bản
Nhà xuất bản
Đại học Sư
phạm,


Nội, 2018

- Sách giáo khoa và Sách Đỗ Kim Anh, Phạm Kim
Nhà xuất bản
giáo viên Ngữ văn – 7
Chung, Nguyễn Hiền
giáo dục
tập 1, tập 2
Trang, Nguyễn Thị Lan.
Nhà xuất bản
Dạy học môn Ngữ văn cấp
Đại học Quốc
Nguyễn Thị Hồng Vân
THCS theo hướng phát
(chủ biên)
Gia Hà Nội,
triển năng lực học sinh
2018
Nhà xuất bản
Đại học Sư
Đánh giá và đo lường kết
Trần Thị Tuyết Oanh
quả học tập
phạm,

Nội, 2009
Nhà xuất bản
Đổi mới đánh giá kết quả
học tập môn Ngữ văn của

Nguyễn Thúy Hồng
Giáo dục, Hà
học sinh THCS, THPT
Nội, 2007


22

6

Môn Ngữ văn và dạy học
Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông.

7

Nguồn từ mạng:
Một số trang WEB như:
-
-
-
-

Nhà xuất bản
Đại học Sư
phạm, Hà
Nội, 2018.

Trần Đình Sử


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Vũ Sơn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Thị Trấn.
T
T
1

2

3

Cấp đánh
giá xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Ngành GD
cấp huyện

B


20102011

Ngành GD
cấp huyện

A

20132014

Một số kinh nghiệm phụ đạo
cho học sinh yếu kém môn Ngữ Ngành GD
cấp huyện
Văn 6

C

20132014

Tên đề tài SKKN
Tích hợp giáo dục tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong dạy
học mơn Ngữ Văn 9.
Tích hợp giáo dục bảo vệ mơi
trường trong giảng dạy môn
Ngữ Văn 8


23

PHỤ LỤC

Một số hình ảnh dạy học trên lớp của giáo viên và học sinh.


24


25

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC LẶC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP, KỸ THUẬT DẠY HỌC
NGỮ VĂN 7 THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO
HỌC SINH TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN.


×