Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Lễ hội cầu ngư tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.75 KB, 9 trang )

Chủ đề : Lễ hội cầu ngư của cư dân biển cụ thể ở tỉnh Khánh Hòa
1. Giới thiệu tỉnh Khánh Hịa (Khơng gian văn hóa + chủ thể văn hóa)
a. Vị trí địa lý
Khánh Hịa là một tỉnh ven biển, có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
phong phú đa dạng. Hội lưu được cả ba yếu tố địa – văn hóa: văn hóa núi rừng,
văn hóa đồng bằng – sơng nước và văn hóa biển đảo. Tuy nhiên sự tồn tại của cả
ba yếu tố này lại khơng có sự đồng đều với nhau.
Đồng bằng ở Khánh Hòa nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đâm ra
biển. Chẳng những thế, địa hình rừng núi của tỉnh khơng thuận lợi cho q trình
lắng đọng phù sa, nên nhìn chung Khánh Hịa khơng phải là nơi thuận lợi để
phát triển nông nghiệp. Mặt khác nơi đây lại được thiên nhiên ưu ái khi có vùng
biển, biển ven bờ và thềm lục địa được đánh giá là rất đẹp. Cùng với giá trị địa
lý tự nhiên hấp dẫn, nguồn tài ngun biển của Khánh Hịa cũng vơ cùng phong
phú với nhiều loại hải sản và đặc sản q, có trữ lượng lớn.

b. Khơng gian văn hóa
Tỉnh Khánh Hòa trải qua những thăng trầm của lịch sử, nằm trong vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ là vùng đất có bề dầy lịch sử - văn hóa trải dài từ thời kì
sơ sử với văn hóa Sa Huỳnh, sau đó là văn hóa Chămpa, văn hóa Việt Nam sau
này. Đây là cái nơi hình thành và phát triển của nhiều nền văn hóa lâu đời điển
hình và nổi bật nhất - Chăm Pa cổ. Với sự pha trộn văn hóa người Chăm bản địa
với lưu dân từ ngoài Bắc vào cùng với các dân tộc thiểu số khác như Raglai, Ê đê,
Gié Trieng, người Hoa… đã để lại cho vùng đất này bản sắc văn hóa rất đặc thù,
thể hiện sự tiếp biến văn hóa Việt – Chăm qua tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na,
tục thờ Lỗ Lường, tục thờ Thành Hồng,…trong đó có tục thờ Ơng Nam Hải (cá
voi), lễ hội cầu ngư.

2. Lễ hội cầu ngư của cư dân tỉnh Khánh Hòa
a. Nguồn gốc
Lễ hội Cầu Ngư bắt nguồn từ tục thờ Ông Nam Hải – là tập tục lâu đời
của cư dân vùng biển từ Quảng Bình trở vào. Ơng Nam Hải, thực ra là lồi cá


Voi – lồi cá có thân hình to lớn, nhưng bản tính lại hiền hồ, thường cứu giúp
1


những ngư dân mỗi khi gặp nạn trên biển được ngư dân các tỉnh phía Nam gọi
cá ‘Đức Ơng’,‘Cá Ơng’ hay ‘Ơng Nam Hải’. Khi Cá Ơng chết, trơi dạt vào bờ
thuộc địa phận của làng biển nào, thì làng biển ấy phải tổ chức lễ tang long trọng
và lập Lăng thờ phụng và cúng tế rất nghiêm cẩn. Lễ tế Ông Nam Hải ngày nay
thường được gọi là Lễ hội Cầu Ngư.
Tục thờ cúng Cá Ông là sự giao thoa văn hóa tín ngưỡng giữa Đàng
Ngồi và Đàng Trong, giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt với tín ngưỡng
thờ thần của người Chăm và ảnh hưởng của Phật giáo. “Theo truyền thuyết của
Phật giáo, cá Ơng chính là những mảnh áo cà sa của Đức Phật Bà Quan Âm ném
xuống cứu những ngư dân đi biển gặp bão. Cịn trong truyền thuyết của người
Chăm, cá Ơng chính là hóa thân của vị thần Pơ Riyak (cịn gọi là thần Sóng), vị
thần bảo hộ cho con người trên biển”.
Trong sự chuyển hóa từ một lồi vật nơi biển cả thành một vị thần của cư
dân sống bằng nghề biển, khơng thể khơng kể tới vai trị quan trọng và những
đóng góp của Triều đình nhà Nguyễn. Thời nhà Nguyễn sau khi lên ngôi, vua
Gia Long đã phong sắc cho cá Ông là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng
Đẳng Thần”, tức là vị thần tối cao của vùng biển Phía Nam.
Lễ hội Cầu Ngư là lễ hội dân gian với nhiều nét đặc thù, hội đủ những
giá trị văn hóa và có tác động mãnh liệt đến đời sống tinh thần cũng như tín
ngưỡng của cư dân vùng biển trong đó đặc biệt là tỉnh Khánh Hịa. Cá Ơng,
được các ngư dân, nhất là các ngư dân vùng biển Khánh Hồ đặc biệt tơn sùng
và coi trọng. Vì thế, lễ hội Cầu ngư gắn với tục thờ Cá Ông là lễ hội phổ biến,
lớn nhất và quan trọng nhất đối với cộng đồng ngư dân các làng, xã ven biển ở
đây. Hằng năm, cứ mỗi độ tháng 2 âm lịch bà con các tỉnh ven biển lại hướng ra
biển để cầu mong cho một năm mưa thuận gió hịa, trời yên biển lặng, tôm cá
đầy thuyền, cuộc sống của ngư dân ấm no hơn.

b. Đặc điểm của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa
Đối tượng thờ phụng: lễ hội cầu ngư ở Khánh Hịa thờ Cá Ơng
hay cịn gọi với cái tên Ông Nam Hải.
Thời gian: thường được tổ chức vào Xuân tế tuy nhiên cũng tùy
thuộc vào ngày cá ông đầu tiên lụy hoặc ngày nhận sắc vua phong để tổ
chức. Trí Nguyên (12/5 âm lịch), Khánh Cam (6/4 âm lịch), Cam Linh (16/7
âm lịch), Bá Hà (16/2 âm lịch), Xương Huân (23/6 âm lịch), Cù Lao (16/6
âm lịch), Trường Tây (16-17/7 âm lịch), Vĩnh Trường (11/2 âm lịch).
Không gian: không gian Lễ hội Cầu Ngư lại được mở rộng ra
toàn làng và ngoài biển khơi mà Lăng Ơng là tâm điểm.
-

Các lăng ơng ở tỉnh Khánh Hịa trên chánh điện có bài vị thường ghi “Nam
Hải cự tộc ngọc lân đại tướng quân”. Đặc biệt do đây là vùng đất chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm nên hầu hết các lăng
ơng đều có ban thờ Thiên Y A Na với niềm kính tín sâu sắc của cộng đồng
ngư dân.
2


3. Tiến trình của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hịa
Hàng năm cứ vào ngày Ơng “lụy” (tức là ngày cá Voi chết), bà con ngư
dân long trọng tổ chức Lễ Tế Ơng Nam Hải – cịn gọi là Lễ hội Cầu Ngư với đầy
đủ các nghi thức.
* Về phần lễ :
- Lễ Rước sắc được xem như nghi thức mở đầu của Lễ hội Cầu Ngư ở
Khánh Hòa. Lễ Rước sắc được bắt đầu vào sáng ngày đầu tiên của Lễ hội.
Đúng giờ quy định, Ban Tế lễ, các vị hào lão, những người phụng sự lễ hội và
dân làng lễ phục trang nghiêm, tề tựu đầy đủ tại Nhà Tiền hiền để chuẩn bị vào
cuộc lễ. Lễ gồm ba nghi thức: Thỉnh sắc , rước sắc và khai sắc

- Lễ Nghinh Ơng, đây là nghi thức vơ cùng quan trọng trong cả lễ hội.
Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa thường được tổ chức vào sáng sớm - là thời điểm
mặt trời lên cũng như thủy triều lên nên còn gọi là ‘Lễ nghinh thủy triều’. Lễ
được thực hiện nhằm mục đích rước hồn Ơng Nam Hải từ biển khơi về Lăng
trước khi Tế chánh. Lễ Nghinh Ông thường kéo dài trong khoảng hai giờ.
Người ta sẽ chọn lựa những người khỏe mạnh nhất, rước kiệu Ông Nam Hải đi
ra phía biển để lên thuyền rồng ra khơi. Bởi họ tâm niệm, vào ngày này, linh
hồn Ông Nam Hải mới hiện lên giữa biển. Dọc đường, người dân chuẩn bị lễ
vật nghênh đón, nhang khói rợp trời. Hai bên kiệu võng là các ghe nhỏ hơn chở
bà con và khách khứa đi theo kiệu, ghe nào cũng trang hoàng cờ hoa rực rỡ,
tháp tùng Ông trên biển. Tầm 15 chiếc ghe được lựa chọn cẩn thận, xếp thành
hình chữ V như đàn chim trên bầu trời, dong trống mở cờ rộn rã cả một vùng
biển. Đây được coi là dấu hiệu gọi Ông về. Đầu mỗi ghe là mâm lễ vật được
chuẩn bị tươm tất. Đoàn rước quay về bến Lăng Ông, dẫn hồn Ông Nam Hải về
ngự. Trước cửa lăng đã chuẩn bị hết đoàn múa lân, sư tử để chào đón Ơng về
rồi.
- Lễ tế sanh: bắt đầu vào 10 giờ đêm ngày đầu của lễ hội; vật phẩm
hiến lễ tế sanh trong lễ hội cầu ngư ngồi hương đăng, trà quả cịn phải có đủ 3
con heo và những con heo đó phải là loại heo tồn sắc, tồn sinh ( tức là loại
heo chỉ có 1 màu và tế nguyên con). Trước khi hiến tế heo phải làm “lễ tĩnh
sanh”; người ta cho heo tắm thật sạch sẽ, sau đó mời vị chủ tế ra chủ trì và tiến
hành các bước tiếp theo của lễ tế sanh.
- Lễ tế chánh: Bao giờ cũng là giờ phút thiêng liêng, quan trọng nhất.
Là thời khắc giao cảm giữa thần linh và người thường; giữa thế giới siêu nhiên
và con người trần thế mà cầu nối của sự giao cảm ấy chính là ban tế lễ và các
nghi thức tế lễ. Thơng thường Lễ Tế chánh Ơng Nam Hải được diễn ra vào tầm
3


10 giờ sáng và kéo dài sang 11 giờ – tức đầu giờ Ngọ.Vì vậy, trong lễ tế chánh

khơng được có bất cứ sự sai sót nào dù là nhỏ nhất. Người ta tin rằng cuộc tế
chánh càng trang nghiêm, long trọng bao nhiêu thì sẽ có bấy nhiêu sự độ trì của
các đấng siêu nhiên.
- Hát thứ lễ và tôn vương:
Thứ lễ là nghi thức tiếp theo sau Tế chánh được tiến hành bằng hình
thức hát cúng thần. Thứ lễ là nghi thức khơng phải lúc nào cũng có trong Lễ hội
Cầu Ngư. Thông thường cứ 3 năm một lần, vào ngày Lễ hội Cầu Ngư các làng
biển lại mời đoàn hát bội biểu diễn trước là để cúng Ông, sau là để giúp vui cho
dân làng sau một năm dài làm ăn vất vả. Và chỉ năm nào làng mời đồn hát bộ
về hát cúng Ơng thì lúc đó mới tổ chức Thứ lễ và Tơn vương.
Sân khấu để tổ chức hát bộ trong Lễ hội Cầu Ngư được đặt tại Võ ca
(hoặc sân Lăng) và hướng vào án thờ Ông mà diễn. Khán giả đứng và ngồi
xem cả ba mặt. Với hình thức tổ chức sân khấu như trên thì khán giả chủ yếu
của buổi diễn Thứ lễ chính là các vị thần linh, cịn nhân dân chỉ là khán giả
xem nhờ. Cũng bởi vì cách diễn hướng mặt vào án thờ ấy mà nhân dân Khánh
Hòa còn gọi hát bộ ở Lễ hội Cầu Ngư là ‘‘hát án’’.
Hát ở Thứ lễ là hát cúng thần, hát dâng lễ cho Ơng, vì vậy nên được
dân làng coi trọng và có quy định riêng chứ khơng phải như một buổi hát thông
thường. Theo cổ lệ, người thủ vai Ông Đỏ (Quan Công) phải là diễn viên vừa
giỏi nghề vừa phải có đạo đức. Nhiều nơi khi Ơng Đỏ xuất hiện thì tất cả mọi
người phải đứng lên để tỏ lịng tơn kính. Trong tâm thức của người dân biển
Khánh Hịa, Ơng Nam Hải và Ơng Quan Cơng đã được nhất thể hóa. Đây cũng
là một trong những sắc thái riêng của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hịa.
Tơn vương là nghi thức do đoàn hát bộ thực hiện. Theo truyền thống,
sau phần hát Thứ lễ, Ban tổ chức sẽ cho dừng lại trong giây lát để cho dân làng
và khách hành bưu (khách nơi khác đến dự lễ) vào lăng dâng hương; sau đó
thơng báo cho những người đang có tang chế, những người bị khuyết tật, những
người phụ nữ đang mang thai, tạm thời rời khỏi nơi đang diễn lễ rồi đóng cổng
Lăng để tiến hành Tơn vương. Bạn hát bội ở Khánh Hịa có câu: ‘‘Nhất Thứ lễ,
nhị Tôn vương’’ để nhắc nhở nhau phải cẩn trọng vì Tơn vương cũng là nghi

thức quan trong trong Lễ hội Cầu Ngư nên khơng được khinh suất.
Nếu nói Thứ lễ là lát cắt nối liền hai phần Lễ và Hội của Lễ hội Cầu
Ngư thì Tơn vương chính là khúc tụng ca, lời chúc phúc về cuộc sống tươi đẹp
mà nhân dân hằng mong ước và là khúc vĩ thanh của Thứ lễ giúp cho người dự
lễ thêm phấn chấn để bước vào phần hội của Lễ hội Cầu Ngư một cách phấn
khích nhất. Thơng thường trong Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa hát bội được tổ
chức liên tục suốt cả ngày lẫn đêm, có nơi cịn kéo dài đến vài ba mươi giờ liền,
tạo nên không khí hội hè thâu đêm suốt sáng.
4


- Lễ Tống Na: là lễ cúng cô hồn biển. Địa điểm hành lễ được thiết lập ở
một góc sân Lăng, quay về hướng đông. Cũng như các buổi cúng cô hồn khác,
người ta không lập bàn hương án trịnh trọng, mà chỉ kê một chiếc bàn nhỏ. Phía
trước bàn thờ đặt một chiếc ghe mơ hình làm bằng nan, mô phỏng giống như
chiếc thuyền đánh cá cỡ lớn.
Sau khi lễ tất, những vật tế được chọn mỗi thứ một ít đưa lên chiếc
thuyền nan để đưa ra thả trên biển. Đoàn đi Tống na gồm hai người cầm cờ hội,
bốn người khiêng thuyền, đi hai bên là hai người cầm siêu, theo sau là hai
người cầm nhang vừa đi vừa cắm dọc đường từ Lăng Ông cho đến tận bãi biển.
Đến bãi biển, người ta chuyển chiếc thuyền nan lên một chiếc ghe để đưa ra
khơi hạ thủy như tiễn các vong hồn về với biển thẳm và gửi chút lịng của người
dân biển đến những vong hồn khơng đến được với Lễ hội Cầu Ngư. Sau đó tất
cả quay lại Lăng để làm lễ hoàn mãn.
* Về phần hội :
Trong Lễ hội cầu Ngư, nếu phần Lễ diễn ra long trọng, trang nghiêm,
thành kính thì phần Hội lại diễn ra vui vẻ, náo nhiệt và lôi cuốn rất nhiều người
tham gia. Trong phần Hội cuốn hút nhất là màn diễn xướng dân gian hát múa bả
trạo hết sức độc đáo . Hát bả trạo ở Khánh Hoà là một hình thức diễn xướng tập
thể trên cạn. Bả Trạo - nét độc đáo nhất của lễ hội Cầu Ngư

Bả Trạo là một dạng biểu diễn dân gian, mang tính tổng hợp múa,
hát, nói,... Đây cũng là đặc trưng chỉ có ở lễ hội Cầu Ngư của các tỉnh Nam
Trung Bộ và Khánh Hòa. Mỗi làng trước nghi lễ sẽ lập đội hò gồm 15 đến 19
nam thanh niên, họ phải ăn chay nằm đất, không quen hệ với phụ nữ để thân
tâm thanh tịnh, trong sáng nhất.
Các hình ảnh phổ biến nhất được tái hiện trong các bài hò bả trạo là
những nhân vật trên trên con thuyền đang lèo lái ngồi biển. Hị Bả trạo ở
Khánh Hịa thì thường gồm 4 lớp, lần lượt là các cảnh tế lễ, mùa màng bội thụ,
cảnh con thuyền vượt sóng ra khơi, cảnh về bến... Các bài hị có thể dài đến cả
trăm câu, là cả một câu chuyện đậm chất tín ngưỡng cũng như tơn vinh sức lao
động, sự đồn kết của con người.
Hò Bả Trạo là trò diễn dân gian có từ lâu đời và liên tục được các thế hệ
ngư dân, nghệ nhân vùng Nam Trung bộ, Khánh Hịa góp cơng gìn giữ, đắp bồi
và đến nay đã đạt đến độ hoàn chỉnh về nội dung, cấu trúc. Chính vì vậy, có thể
nói nếu Lễ hội Cầu Ngư là di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của cư dân vùng
biển Khánh Hịa, thì trị diễn Hị Bả trạo là tác phẩm nghệ thuật dân gian đặc
sắc riêng có trong Lễ hội Cầu Ngư, nó xứng đáng được xem là di sản văn hóa
phi vật thể độc lập trong di sản chung.

5


Ngoài ra, phần hội thường diễn ra vài ngày và gắn liền với các trò
chơi dân gian như: Lắc thúng, đan lưới, kéo co dưới nước hay gánh cá trên bờ
cát.
Đến tối, cịn có lễ phóng đăng trên biển, lễ thả thuyền cúng các linh
hồn đã khuất trên biển,… đã diễn ra thu hút đông đảo người dân về tham dự.
4. Những kiêng kỵ trong lễ hội cầu ngư của cư dân biển Khánh Hòa.
Cuộc sống mưu sinh lênh đênh trên biển, luôn đối mặt với thảm họa
thiên nhiên đã khiến quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” trở nên vô

cùng ý nghĩa đối với cư dân biển Khánh Hịa
Đối với người dân Nam Trung Bộ nói chung, Khánh Hịa nói riêng,
trong q trình hành lễ Cầu Ngư, ngư dân khơng được ăn nói bất kính, cãi lộn,
chửi mắng, không say xỉn, quậy phá. Những người được cử vào ban lễ tế được
chọn lọc kỹ: khơng có tang, đủ vợ chồng, gia đình êm ấm, ăn lên làm ra, vợ
không mang bầu, bản thân không khuyết tật,…
Để thể hiện sự tôn trọng với cá Voi, việc sử dụng tên cá Voi bị cấm. Nếu
cá Voi bị chết người dân vùng biển cũng sẽ không sử dụng từ “chết” mà thay
vào đó dùng từ “lụy” để thay thế. Lăng cá ơng được gọi là Lăng Ơng.
5. So sánh lễ hội cầu ngư khánh hòa với miền trung và nam
* Giống:
Cũng như ngư dân ở các tỉnh miền Trung và Tây Nam Bộ, ngư dân các
làng ven biển Khành hịa có niềm tin mãnh liệt vào sự linh thiêng của cá Ông và
được các ngư dân xem như phúc thần trong đời sống tâm linh. Trong lễ hội cầu
ngư có nhiều lễ thức khác nhau, tùy thời điểm và nội dung mà có lễ thức phù
hợp. Tuy nhiên, những lễ thức cơ bản được thực hiện trong lễ hội cầu ngư và
hầu hết ở các vùng biển trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ thường tổ chức
phổ biến đều có điểm chung là:
Lễ cầu ngư khơng thể thiếu hát tuồng, hò bả trạo. Đồng thời phần hội
diễn ra với nội dung vui chơi, giải trí hấp dẫn, mang tính dân gian và tính cộng
đồng cao.
Tính xã hội hóa cao được thể hiện trong lễ hội cầu ngư, vì họ cho đây là
việc chung của làng, họ tự giác tham gia thực hiện; đóng góp cơng sức lẫn tiền
của cùng làng tổ chức lễ hội. Họ họp và phân công nhau để thực hiện từ công
tác chuẩn bị, khi diễn ra lễ hội và giải quyết tồn tại sau lễ hội. Mỗi làng đều có
ơng Lạch trưởng do ngư dân trong làng bầu ra để thay mặt dân làng lãnh đạo, tổ
chức và điều hành toàn bộ các hoạt động lễ hội.
Tín ngưỡng tục thờ cúng cá Ơng ở khu vực này đều có chung truyền
thuyết về quãng đời bôn tẩu của Nguyễn Ánh. Khi Nguyễn Ánh bị quân Tây
6



Sơn đánh bại chạy ra đảo Côn Lôn, trên đường đi bị sóng to đánh sắp lật
thuyền, Nguyễn Ánh van vái cầu xin. Ngay lúc đó, một con cá Ơng đến cặp
mình vào mạn thuyền đưa vào bờ, nhờ vậy ơng thốt chết.
Các tỉnh Nam Trung Bộ có điểm chung giống nhau từ tập tục thờ cúng
cá Ơng, đó chính là kết quả giao lưu văn hóa Chăm – Việt diễn ra mạnh mẽ trên
khơng gian Trung Bộ, nơi có quá trình cộng cư lâu dài của hai dân tộc Việt –
Chăm.
*Khác:
- Về thời gian: Hằng năm, lễ hội Cầu ngư của ngư dân ven biển Khánh Hòa tổ
chức bắt đầu từ ngày 11- 2 đến 12-3 âm lịch, trong khi hầu hết các lễ Nghinh
Ông ở miền Trung và các tỉnh giáp biển của Nam Bộ đều tổ chức từ tháng 6 âm
lịch trở đi. Chẳng hạn, ở xã Bình Thắng (huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) lễ hội
cũng được tổ chức vào ba ngày 15 - 17/6 âm lịch, lễ hội Nghinh Ông ở xã Cần
Thạnh, huyện Cần Giờ, TP. HCM từ 14 - 17/8 âm lịch;
Nguyên nhân tạo điểm khác biệt về thời điểm trên là do từ sự thuận
lợi về điều kiện không gian, thời gian, tự nhiên, xã hội khác nhau.
- Về địa điểm và hình thức thờ cúng: Thường lễ hội Nghinh Ơng ở Khánh Hịa tổ
chức ở Lăng Ơng, miếu thờ cá Ơng. Lăng ông thường phải ở cửa biển, bờ biển,
vàm sông. Ngư dân có tâm lý trước khi ra khơi phải cúng tế xin phép và cầu
Ông phù hộ may mắn nên lăng, miếu luôn ở gần con đường lưu thông của tàu
bè. Một số nơi khác như ngư dân ven biển Trà Vinh tổ chức lễ Cúng Biển ở
miếu Bà Chúa Xứ, nghi thức lễ cúng là sự tổng hợp giữa tín ngưỡng thờ cúng
cá Ơng, tín ngưỡng thờ mẫu và thờ thần nông nghiệp.
- Vật hiến sinh: Lễ hội Nghinh Ông ở nơi khác thường gồm heo quay , giết thịt,
để cả con, cùng hương hoa, trà, rượu. Có nơi cúng gà vịt và những vật phẩm
mà người dân tự sản xuất Trà Vinh, vật phẩm dâng cúng bao gồm heo sống 100
kg giết lấy thịt, gạo, muối, hương hoa, trái cây, củi và chuối,...
Ở Khánh Hòa khi tế các nhiên thần hoặc thiên thần thì trong lễ vật

phải đủ tam sanh, trong đó nhất định phải có heo sống nguyên con. Lễ Tỉnh
sanh thực chất là nghi thức lễ xin với Thần linh được giết vật hiến tế. Con heo
được chọn làm vật hiến tế phải là heo tồn sinh, tồn sắc (nghĩa là loại heo chỉ
có một màu và để nguyên con).
Như vậy, do phong tục tập qn, tơn giáo, tín ngưỡng của ngư dân,
lịch sử ở mỗi vùng và địa phương khác nhau đã tạo ra những sắc thái riêng, hịa
lẫn với những nét chung góp phần thêm sự đa dạng, phong phú trong tiến trình
tổ chức lễ hội cầu ngư ở tỉnh Khánh Hoà.
6. Lễ hội Cầu Ngư trong tâm thức cư dân biển Khánh Hòa
Lễ hội Cầu Ngư là lễ hội dân gian với nhiều nét đặc thù, hội đủ những
giá trị văn hóa và có tác động mãnh liệt đến đời sống tinh thần cũng như tín
ngưỡng của cư dân vùng biển các tỉnh phía Nam và Khánh Hịa. Vì vậy, trong

7


tâm thức của những người con xứ trầm hương Lễ hội cầu ngư mang những giá
trị văn hóa tốt đẹp.
Lễ hội Cầu Ngư là - ngày hội của làng biển Khánh Hòa, là ngày sum
họp của mọi người. Lễ hội Cầu Ngư không những gắn liền với tập tục lâu đời
của ngư dân mà còn là ngày để mọi người được dịp vui chơi, giải trí, thăm
viếng lẫn nhau. Lễ hội Cầu Ngư là lời mời gọi quê hương đối với những người
xa xứ; là mạch ngầm nối ngàn xưa với ngàn sau để người dân biển muôn đời
không rời xa biển.
Lễ hội Cầu Ngư – niềm tin và ý chí của người dân biển. Nghề đánh
bắt thủy sản của dân tộc ta vốn có từ lâu đời. Câu chuyện về cá voi cứu sống
được nhiều người gặp nạn trên biển và sự xuất hiện của cá voi còn là điềm báo
cho ngư dân biết ở vùng biển ấy đang có nhiều đàn cá nổi, giúp cho ngư dân có
được mùa cá bội thu. Vì thế, nên ngư dân các tỉnh phía Nam tơn cá voi là Đức
Ngư, là Thần và luôn tri ân, sùng bái. Lễ hội Cầu Ngư vì vậy ln gắn liền với

lao động sản xuất của ngư dân, nó hàm chứa niềm tin sâu xa và tạo thành ý chí
vượt lên gian khó để đạt đến hạnh phúc .
Lễ hội Cầu Ngư – nơi bảo tồn các vốn nghệ thuật truyền thống và dân
gian Nam Trung Bộ. Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa đã tổng hợp các hình thức
nghệ thuật truyền thống, diễn xướng dân gian như: Hát bộ, Hò Bả trạo, Múa
Siêu và các trò chơi dân gian tạo thành một bức tranh sinh động, đa sắc của
ngày hội làng biển. Hơn 2/3 thời gian của lễ hội được dành cho các hoạt động
nghệ thuật. Hơn thế nữa, các tuồng tích, trị diễn được trình diễn trong lễ hội
này đều là những vốn quý được nhân dân NamTrung bộ sáng tạo, trao truyền và
gìn giữ bao đời nay.
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa là ngày hội làng biển ở Khánh Hịa, nó
giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, hướng về cội nguồn và tạo nên sự cố
kết cộng đồng bao đời nay của cư dân vùng biển. Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh
Hịa thể hiện niềm tin và ý chí vượt thắng gian lao để xây dựng cuộc sống tươi
đẹp. Lễ hội Cầu Ngư còn là bài ca lao động của cộng đồng cư dân vùng biển
Khánh Hòa, được tái hiện dưới hình thức tế lễ, trị diễn dân gian, các loại hình
nghệ thuật truyền thống và cũng từ đó nó trở thành chiếc nơi, nguồn sữa ni
dưỡng vốn văn hóa dân gian, truyền thống của miền đất Nam Trung bộ, góp
phần tạo nên nền tảng để xây dựng bản sắc văn hóa miền đất Khánh Hịa.
7. Thực trạng lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa hiện nay
Hiện nay ở Khánh Hòa cịn khoảng 50 nơi thờ Ơng Nam Hải. Lễ hội
cầu ngư ngày nay tuy có nhiều biến đổi để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
mới, nhưng về cơ bản vấn giữ được các yếu tố truyền thống dưới thời phong
kiến từ thời gian, địa điểm tổ chức, nghi thức tế lễ, các trò chơi, trò diễn, diễn
xướng vẫn được tích hợp trong lễ hội cầu ngư.
8


Tuy nhiên hiện nay, do điều kiện khách quán, các khâu chuẩn bị của lễ
hội thường được đơn giản hóa hơn so với trước đây.Trong các kỳ giỗ Ông, hay

lễ hội Cầu ngư, nhiều nghi lễ, phẩm vật cũng dần được giảm bớt như việc cúng
tiền hương cho Ông thay vì những phẩm vật truyền thống. Ở các làng chài trên
địa bàn tỉnh Khánh Hòa, niềm tin vào sự linh hiển của Ơng Nam Hải vẫn ln
ngự trị trong tâm trí của ngư dân. Tuy nhiên, ở những nơi có lăng Ơng quy mơ
nhỏ, vì nhiều điều kiện khách quan, cộng đồng ngư dân đã giản lược bớt những
lễ nghi cúng tế như trước đây.
8. Các giải pháp bảo vệ và phát huy lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hịa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012. Tuy nhiên, trong thời
gian qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của lễ hội cịn nhiều
khó khăn, một số di sản văn hóa vật thể, phi vật thể liên quan đến tín ngưỡng
Cầu Ngư chưa được quan tâm đầu tư tương xứng. Vì vậy, ngành Văn hóa đã đề
nghị và được UBND tỉnh cho phép thực hiện Dự án “Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể lễ hội Cầu Ngư giai đoạn 2016 - 2017” nhằm góp
phần gìn giữ bản sắc văn hóa cư dân vùng biển, đảo ở Khánh Hịa. Bảo tồn giá
trị văn hóa đặc sắc của lễ hội Cầu Ngư trên cả hai phương diện văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
Sở VHTT sẽ chỉ đạo Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh hỗ trợ kinh phí
cho việc tu bổ các di tích đã được xếp hạng nhưng chưa được trùng tu; đồng
thời, dự án cũng sẽ thực hiện việc tư liệu hóa, số hóa di sản văn hóa lễ hội Cầu
Ngư thơng qua việc quay phim, chụp hình tư liệu, ghi chép, phỏng vấn ghi
âm…
Những cuốn sách , DVD, phóng sự về lễ hội Cầu Ngư được xuất bản
và phát hành; xây dựng, duy trì chuyên mục lễ hội Cầu Ngư trên website của Sở
VHTT; từng bước đưa du khách tham quan trực tiếp các lễ hội Cầu Ngư được
tổ chức ở các địa phương…

9




×