Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.21 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
(SAU ĐẠI HỌC)

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở VIỆT NAM

HỌC VIÊN THỰC HIỆN:

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:

Trần Thị Ánh Hồng

TS. Đinh Ngọc Quyên

Năm 2014

CầnThơ, tháng 11 năm 2013


A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa. Mỗi dân tộc ở
nước ta đều có những hình thức tín ngưỡng và tơn giáo với những sắc thái riêng, góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho từng tộc người.
Nền văn hóa của nước ta chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn đó là nền văn


hóa Ấn Độ cổ đại và nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Trong đó, Phật giáo là một trường
phái triết học, đồng thời là một tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Phật giáo
được coi là triết lý thâm trầm về vũ trụ và con người, nhằm giải phóng con người khỏi
mọi đau khổ bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng đã
chiếm được cảm tình và niềm tin của đơng đảo quần chúng lao động. Nó ảnh hưởng
rộng rãi và sâu sắc đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế giới, nó đã trở
thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc
Châu Á, bao gồm dân tộc Việt Nam. Hiện nay, nhiều quốc gia ở Châu Á chọn Phật
giáo làm quốc đạo như: Thái Lan, Campuchia, Myanma. Ở Trung Quốc thì Phật giáo
là một tôn giáo lớn.
Ở Việt Nam, Phật giáo được truyền vào nước ta từ những năm đầu của Công
nguyên với bản chất từ bi, bác ái Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần
bám rễ vững chắc. Đây là tơn giáo đồng hành cùng dân tộc, nó tồn tại và phát triển phù
hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam. Trong một số triều đại phong kiến thì Phật
giáo được xem như là quốc đạo như: triều Đinh, triều Lý, triều Lê, triều Trần góp phần
bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam giữ vững nền độc lập dân tộc.
Như vậy, Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất lâu đời và nó cũng đã chi
phối, ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Để nghiên
cứu rõ hơn về những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của dân tộc Việt
Nam, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần ở Việt
Nam” làm tiểu luận triết học.


2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật
giáo đến đời sống tinh thần ở Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo những phương pháp sau: Phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp như: lơgíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện

nhiệm vụ đề tài đặt ra.


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO

1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Phật giáo
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Phật giáo
Ấn Độ là một lục địa lớn nằm ở miền Nam châu Á, là nước có lịch sử lâu đời,
là một trong những nơi có nền văn minh sớm nhất và rực rỡ nhất trên thế giới. Vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên ở Ấn Độ lực lượng sản xuất phát triển nhanh, sự
phân hóa giai cấp và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội ngày càng gay gắt. Đạo Bàlamôn
sau một thời gian củng cố đã đi vào giai đoạn phát triển cực thịnh cả về mặt Tơn giáo
lẫn vị trí chính trị trong xã hội. Đạo Bàlamôn đã phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp
với quyền lợi, địa vị và nghĩa vụ khác nhau.
+ Bàlamôn (Brahmanas), bao gồm tăng lữ, những người hoạt động tôn giáo
chuyên nghiệp.
+ Sátđếlợi (Ksastryas), gồm vua, quan cai trị thế quyền và tầng lớp võ sĩ.
+ Vệxá (Vaisyas), gồm dân tự do: làm nông nghiệp, buôn bán, thợ thủ công.
+ Thủđàla (Soudras), chiếm đa số, là con cháu của những bộ lạc bại
trận, những người bị phá sản, khơng có tư liệu sản xuất- những người nơ lệ.
Sự phân biệt giũa các đẳng cấp được thể hiện nhiều mặt, không những chỉ về
quyền lợi kinh tế, địa vị xã hội, mà cả trong quan hệ giao tiếp, đi lại, ăn mặc, sinh hoạt
tôn giáo. Hai đẳng cấp trên trở thành giai cấp bóc lột và thống trị trong xã hội, trong đó
nổi bật là những đặc quyền, đặc lợi của đẳng cấp Bàlamôn, đẳng cấp được coi là đẳng
cấp cao quý, trong sạch nhất, sánh vai với thánh thần. Đẳng cấp Thủđàla ở địa vị thấp
nhất của xã hội, làm nô lệ cho đẳng cấp trên. Mâu thuẫn giữa các đẳng cấp ở Ấn Độ
ngày càng trở nên gay gắt làm xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng khác nhau. Các trào

lưu tư tưởng đó đều gặp nhau ở chỗ, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại chế độ
phân biệt đẳng cấp và đạo Bàlamôn. Ở một phương diện khác, xã hội đã xuất hiện tư
tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả những giá trị tôn giáo, nhân quả, đạo đức. Những tư


tưởng đó hoặc dung hịa hoặc xung đột lẫn nhau làm cho nền triết học Ấn Độ lâm vào
tình trạng bế tắc, cùng với một xã hội đầy rẫy những bất cơng, con người khơng biết
tin tưởng bám víu vào đâu. Chính sự đa dạng đầy mâu thuẫn của xã hội cổ trung đại
Ấn Độ là cơ sở hình thành những tư tưởng tơn giáo triết học, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng
cấp. Phật giáo lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi
nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
1.1.2. Cuộc đời Đức Phật
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI
trước Công nguyên ở miền Bắc Ấn Độ. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật
giáo là Thái tử Cồ Đàm – Tất Đạt Đa (GautamaSiddhattha) sinh ngày 8 tháng 4 năm
563 trước Công nguyên, con vua Tịnh Phạn (Shuddhodana) thuộc bộ tộc Thích Ca
(Sakya), cai trị một vương quốc nhỏ là Catỳlavệ (Kapilavaxtu) ở trung lưu sông Hằng,
bao gồm một phần phía Nam NêPan và một phần các bang Uttarơ, Prađezơ, Bihe của
Ấn Độ ngày nay. Tương truyền giữa đường gần làng Lumbini thuộc Kapilavatthu,
trong khi hoàng hậu Mâyâ đang trên đường về quê song thân ở Devadaha để sinh con
va nhờ mẫu thân bảo dưỡng, vì được sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt nên vua và
hoàng hậu rất yêu quý Tất Đạt Đa. Khi hoàng tử chào đời, có một vị hiền triết được
triệu vào cung để tiên đốn vận mệnh của hồng tử, đó là đạo sĩ Asita. Khi xem xét
thân tướng của hoàng tử, Asita tiên đoán rằng đây quả là một vương tử phi thường và
sẽ trở thành một vĩ nhân. Sau khi hoàng tử sinh ra được 5 ngày, vua Tịnh Phạn đặt tên
là Siddhatha (Tất Đạt Đa), có nghĩa là “người được toại nguyện”. Theo phong tục, vua
cha cho mời nhiều đạo sĩ Bàlamôn học rộng tài cao vào triều để dự lễ đặt tên cho
hồng tử. Trong các vị đạo sĩ có 8 vị đặc biệt lỗi lạc. Sau khi xem tướng của hoàng tử,
trái với 7 vị đạo sĩ kia, vị đạo sĩ trẻ tuổi và thông minh nhất trong 8 vị tên Kondanna

chỉ đưa một ngón tay lên quả quyết một điều rằng sau này hoàng tử sẽ hoàn toàn thốt
tục và đắc đạo. Về phần hồng hậu Mâ, sau khi sinh hồng tử được 7 ngày thì qua
đời, hồng tử được kế mẫu là Pajàpati trông nom nuôi nấng.
Năm bảy tuổi theo học các đạo sĩ Bàlamôn, Tất Đạt Đa tỏ ra là người có một trí thơng
minh lạ thường. Một lần theo phụ vương ra ngoài thành, thấy cảnh người nông dân tay
lấm chân bùn cực nhọc, trâu bò phải kéo cày khổ sở, trên luống cày chim chóc tranh
nhau mổ sâu bọ, hồng tử lặng lẽ ngồi trầm ngâm thiền định dưới gốc cây, suy tư về


nỗi khổ của chúng sinh. Để tránh việc Tất Đạt Đa xuất gia đi tu như đã được các vị
đạo sĩ tiên đoán, vua cha đã tạo ra các thú vui, một cuộc sống xa hoa, lộng lẫy để
hoàng tử quên đi việc tu hành. Năm 16 tuổi, hoàng tử đã được vua cha cho kết duyên
với công chúa Daduđàla sau đó hạ sinh được người con trai đặt tên là Lahầula. Mặc dù
sống trong giàu sang quyền quý với sự yêu chiều của vua cha và người vợ trẻ đẹp,
nhưng như sự tiền định, hồng tử ln nghĩ về sự khổ của sinh, bệnh, lão, tử và những
phiền não của bụi trần. Theo truyền thuyết, lí do dẫn đến bước ngoặt trong tâm hồn trí
tuệ đầy nhạy cảm của Tất Đạt Đa là những cảnh tượng bắt gặp bất ngờ tại 4 cửa ra vào
hoàng cung. Hoàng tử tận mắt nhìn thấy một cụ già đầu bạc, lưng cịng, chân chùn gối
mỏi, đi đứng mệt nhọc; một người bệnh hoạn đau khổ; một thây ma theo sau có những
người khóc than sầu não; một đạo sĩ nghiêm trang khả kính. Hồng tử càng suy tư về
nỗi khổ của chúng sinh, càng chán cảnh phồn hoa thế vị, càng quyết tâm xuất gia đi tu
tầm đạo để giải thoát cho chúng sinh khỏi cảnh khổ ải của nghiệp chướng luân hồi.
Năm 29 tuổi, hoàng tử quyết định từ bỏ cuộc sống giàu sang quyền quý, vợ đẹp con
ngoan. Nửa đêm vượt cung thành đến bên bờ sơng Amona, cắt tóc xuất gia làm nhà
đạo sĩ thuộc dòng tu khổ hạnh. Tất Đạt Đa đi khắp nơi học đạo, Ngài lần lượt học hầu
hết các đạo nhưng
nhận thấy không đạo nào giúp mình ngộ được chân lý cao thượng. Từ đó, Ngài tự
mình vào ở ẩn trong rừng sâu, trải qua 6 năm tu hành cùng với 5 anh em Kiều Như
Trần thực hành phép tu khổ hạnh ép xác đến kiệt sức nhưng không đạt được kết quả
như mong muốn, trái lại sức khỏe ngày càng suy yếu, trí lực cạn kiệt. Thấy tình cảnh

Tất Đạt Đa như vậy, một người phụ nữ chăn dê lấy sữa mời Ngài uống, do ăn uống
bình thường nên sức khỏe dần hồi phục. Qua thực tế đó làm Tất Đạt Đa hiểu rằng: con
người có lẽ từ lâu vốn chìm đắm vào hai cực đoan “cực đoan sướng” và “cực đoan
khổ”. Cực đoan sướng khơng đem lại giải thốt, cực đoan khổ lại càng khơng thể đem
lại giải thốt. Như vậy muốn giải thoát nhất định phải là con đường nằm giữa 2 cực
đoan đó, theo Tất Đạt Đa đó là con đường trung đạo. Vì thế, Tất Đạt Đa quyết định từ
bỏ năm anh em Kiều Trần Như (cùng tu ép xác), xuống sông Niliên tắm rửa, rồi lên
ngồi tham thiền nhập định dưới gốc cây Pipola (bồ đề), xứ Salanại. Qua 49 ngày đêm
vừa suy tư vừa chiến đấu nội ngoại tà ma, Tất Đạt Đa đã tìm ra chân lý, nhận thức rõ
căn nguyên sinh thành, biến hóa của vũ trụ vạn vật, tìm ra được nguồn gốc nỗi khổ và
từ đó chỉ ra phương pháp diệt trừ nỗi khổ cho chúng sinh. Theo Ngài chân lý đó là


Nivana (Niết Bàn). Khi đắc đạo Ngài lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni hay cịn gọi là Đức
Phật (Buddha), lúc đó Ngài được 35 tuổi.
Sau khi đắc đạo, Ngài quyết định đi thuyết pháp, truyền đạo của mình, giác ngộ cho
chúng sinh. Đức Phật đã lập ra một đoàn thể gọi là Tăng già gồm các vị Tỳ kheo để đi
thuyết pháp, trong đó có 5 người trong nhóm Kiều Trần Như được Đức Phật giác ngộ
đầu tiên và trở thành những đồ đệ của Ngài. Trong những tín đồ của Phật giáo được
chia ra làm 4 hạng: Hạng thứ nhất gọi là Tỳ kheo là những đàn ông xuất gia tu hành.
Hạng thứ hai gọi là Tỳ kheo Ni là những người đàn bà xuất gia tu hành. Tỳ kheo và Tỳ
kheo Ni lập thành tăng hội, mỗi tăng hội có Tịnh xá để Tăng hay Ni tu hành. Hạng thứ
ba gọi là Ưu bà tắc là những người đàn ông tu tại gia và hạng thứ tư gọi là Ưu bà di là
những người đàn bà tu tại gia. Các tín đồ của Phật thuộc đủ loại không phân biệt đẳng
cấp, giàu nghèo, chủng tộc từ vua chúa, vương hầu, trưởng giả đến thợ thuyền, nông
phu; từ các quý phi, công chúa đến các cô gái thôn quê, kỹ nữ… Qua 45 năm hành
đạo, cơ duyên hoằng hóa đã đủ, Phật Thích Ca đến rừng Sala, đầu quay về hướng Bắc,
mặt ngoảnh về hướng Tây diệt độ nhập Niết Bàn vào lúc nửa đêm trăng rằm thọ 80
tuổi.
1.2. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo

1.2.1. Quan điểm của triết học Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở ba phạm
trù: vô ngã, vô thường và duyên.
Quan điểm “vô ngã”: Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không
phải do một vị thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa hai yếu tố
“Sắc” và “Danh”. Trong đó “Sắc” là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được. Cịn
“Danh” là yếu tố tinh thần khơng có hình chất mà chỉ có tên gọi. Chính Danh và Sắc
hợp lại với nhau tạo thành Ngũ uẩn. Ngũ uẩn gồm năm yếu tố: sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), tưởng (tưởng tượng), hành (ý chí thúc đẩy hành động) và thức (ý thức), tác động
qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời,
khơng có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi.
+ Vô thường cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn
luôn chuyển động, biến đổi (vô thường) theo một chu trình thành - trụ - hoại -khơng
(đối với lồi vơ tình) hay sinh - trụ - dị - diệt (đối với lồi hữu tình). Với quan niệm


này, Phật giáo cho rằng không phải sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất
(chết) đi mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, chết là
điều kiện của một sinh thành mới. Sinh - diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong sự
vật, hiện tượng, cũng như trong tồn thể vũ trụ rộng lớn. Hay nói cách khác sự thành trụ của thế giới này là sự hoại - không của thế giới khác, cứ như vậy mà tiếp diễn
khơng dứt. Vì vậy vơ thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, ln ln thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi
tan ra.
+ Trong học thuyết nhân dun nhằm giải thích ngun nhân biến hóa vơ thường của
thế giới, có ba khái niệm chủ yếu là: nhân, duyên và quả. Theo triết lý Phật giáo, tất cả
các sự vật, hiện tượng trong thế giới từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, từ cái đơn
giản đến cái phức tạp, đều chịu sự chi phối tác động của luật nhân quả mà tồn tại và
biến hiện. Cái gì phát ra ở động vật, làm cho nó biến đổi, gây ra một hay nhiều kết quả
nào đó gọi là nhân. Cái gì đuợc kết tập lại do một hay nhiều nhân gọi là quả. Duyên là
điều kiện là mối liên hệ trợ giúp cho nhân (ở trạng thái khả năng) biến thành quả (ở

trạng thái hiện thực). Như thế duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà
cịn là điều kiện giúp cho vạn vật sinh thành và biến đổi. Chẳng hạn, hạt lúa là quả của
cây lúa đã thành, mà lại là nhân của cây lúa sắp thành. Hạt lúa muốn thành cây lúa
đơm bơng kết hạt phải nhờ có đất, nước, khơng khí, ánh sáng, nhiệt độ…đó là dun,
là điều kiện và mơi trường cần phải có giúp cho hạt lúa biến thành cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù vô ngã, vô thường, duyên, triết học Phật giáo đã bác
bỏ quan điểm duy tâm cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật
giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần,
các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi khơng ngừng. Đó là quan điểm
duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân
trọng. 1.2.2. Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh quan
+ Quan điểm triết học Phật giáo về nghiệp báo và tái sinh: Trong triết lý đạo đức nhân
sinh của Phật giáo, theo luật nhân quả thì nghiệp báo và tái sinh là hai phạm trù căn
bản có liên hệ mật thiết với nhau. Tái sinh là hệ luận tự nhiên của nghiệp. Trước thời
đức Phật tư tưởng này đã được truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ, nhưng với triết lý Phật
giáo chúng được phát triển hoàn thiện hơn. Nghiệp tiếng Sanscrit là karma và tiếng
Pali là kamma, theo đúng nghĩa của danh từ này là hành động hay việc làm, và


“nghiệp”là tác ý. Tư tưởng, lời nói, việc làm đều do ý muốn làm động cơ. Phật giáo
gọi ý muốn hay ý chí ấy là tác ý. Vậy nghiệp là cái do hành động thiện hay bất thiện,
cố ý hay không cố ý, qua thân, khẩu, ý của ta để thỏa mãn những ham muốn của ta mà
thành. Do nghiệp chi phối theo luật nhân quả nên vạn vật chúng sinh mất đi ở chỗ này,
thời gian này, là để sinh ra ở chỗ khác, thời gian khác, đó chính là quá trình tái sinh
luân hồi (samsana). Trong cuộc đời của mỗi con người, ai cũng phải gánh chịu hậu quả
của nghiệp ở kiếp sống này và từ các kiếp trước, sang kiếp sống sau. Do vậy, nghiệp
báo trong cuộc đời là sự tổng hợp kết quả của các nghiệp gây ra ở hiện tại cùng với các
nghiệp gây ra trong quá khứ và nó quyết định đời sau tốt hay xấu. Làm đ iều tốt, điều
thiện thì có nghiệp tốt ứng báo điều tốt, điều thiện cho đời sau tái sinh. Gây ra điều ác,
điều xấu thì có nghiệp xấu ứng báo điều ác. Nghiệp đi đôi với quả như bóng với hình.

Hành động và kết quả của hành động ấy đều do tâm tạo nên, vì nghiệp có thể tốt hay
xấu cho nên quả có thể lành hay dữ.
Tóm lại, đã tạo nghiệp, đã gieo nhân tất phải gặt quả, có thể ở lúc này, nơi này hay lúc
khác, nơi khác, ở kiếp hiện tại hay trong tương lai. Kinh Tương ứng bộ đã viết: “Đã
gieo giống nào, sẽ gặt quả nấy. Hành thiện sẽ thâu gặt quả lành, hành ác sẽ gặt quả dữ.
Hãy gieo giống tốt, ta sẽ hưởng quả lành” [1, tr.291].
+ Quan điểm triết học Phật giáo về Tứ diệu đế: Từ thế giới quan nhân duyên sinh, triết
lý Phật giáo đã vạch ra nguồn gốc của nỗi khổ của con người và con đường dẫn đến sự
diệt khổ nhằm giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ của cuộc đời bằng “Tứ diệu đế”,
“Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính đạo”. Đây là tư tưởng triết lý nhân sinh căn bản
nhất của Phật giáo.
 Chân lý thứ nhất là “khổ đế” (Duhkha-Satya): Phật giáo đã khái quát toàn bộ cuộc
sống của cả đời người trong bốn chữ “đời là bể khổ”. Phật đã từng nói: “nước của bốn
biển khơng nhiều bằng nước mắt chúng sinh” [14, tr.22]. Toàn bộ bể khổ của đời
người được Phật giáo tổng kết quy lại thành nhiều nỗi khổ khác nhau, song tiêu biểu
nhất là bát khổ (tám cái khổ) gồm sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly (yêu thương mà phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không được), thủ ngũ uẩn (5 yếu tố tạo nên con người). Khổ đau là vơ tận và tuyệt đối.
Nhìn chung trong Phật giáo, cuộc đời ngồi nỗi khổ khơng tồn tại gì khác, ngay cả cái
chết cũng khơng chấm dứt sự khổ đau, mà là tiếp tục sự khổ mới.


 Chân lý thứ hai là “nhân đế” (Sumadaya-Satya) hay còn gọi là tập đế. Nếu như chân
lý thứ nhất khẳng định “đời là bể khổ”, thì chân lý thứ hai của Phật giáo lại chỉ ra
nguyên nhân của mọi sự khổ đau đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn con người ta tới “Bể
khổ trầm luân”, song tập trung có ba nguyên nhân cơ bản nằm ngay trong bản thân con
người đó là: “Tham, sân, si”. Những nguyên nhân ấy kết hợp với “duyên khởi” hình
thành thuyết “thập nhị nhân duyên”. Đó là mười hai nguyên nhân của nỗi khổ. Mọi
nguyên nhân của sự khổ đều bắt nguồn từ con người, do con người tạo ra trong mỗi
hành vi của mình. Mười hai ngun nhân của nỗi khổ gồm:

Vơ minh (avidya): Có nghĩa là mê hoặc, tối tăm, nhầm lẫn, khơng sáng suốt, là trạng
thái trí tuệ khơng đúng đắn. Vơ minh chính là ngun nhân thâu tóm tất cả các nguyên
nhân khác. Do “Vô minh” con người không nhận thức được chân tướng, bản chất của
thế giới và của chính con người, cho nên sinh ra vọng tưởng, từ đó sinh ra tham lam
dục vọng và có những hành động tương ứng. Những hành động đó tạo ra “tam nghiệp”
(thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp), do tạo nghiệp, đặc biệt là nghiệp ác, mà con
người phải chịu đau khổ, khơng dứt ra khỏi vịng ln hồi sinh tử.
Dun hành: là ý muốn thúc đẩy hành động
Duyên thức: là tâm tư trong sáng trở nên u tối
Duyên danh sắc: nỗi khổ do sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần, thuộc về tâm lý,
sắc thuộc về vật chất, tạo ra các cơ quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý
thức).
Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.
Duyên xúc: tiếp xúc thế giới xung quanh, sinh ra các cơ quan cảm giác
Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức trước tác động của thế giới bên ngồi
Dun ái: là sự u thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng do cảm thụ thế giới bên
ngoài.
Duyên thủ: là do ham muốn rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
Duyên hữu: là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
Duyên sinh: là sinh mạng, là sự ra đời, sinh thành do sự tồn tại


Duyên lão tử: lão và tử là kết quả cuối cùng của q trình, đồng thời là ngun nhân
của vịng luân hồi mới.
Như thế “thập nhị nhân duyên” là hiện hữu của con người, đồng thời cũng là tiến trình
hiện hữu từ sinh thành đến hủy diệt. “Thập nhị nhân duyên” là triết lý về nguyên nhân
của sự khổ, nguồn gốc của sự khổ. Khi nhận thức được bản chất của sự khổ một cách
rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường diệt khổ đau.
 Chân lý thứ ba là “diệt đế” (Nirodha – Satya): Phật giáo khẳng định cái khổ có thể
tiêu diệt được, có thể chấm dứt được luân hồi. Muốn chấm dứt mọi đau khổ thì chỉ có

cách diệt ngun nhân sinh ra sự đau khổ ấy. Phật giáo quan niệm nguồn gốc của sự
khổ là sự vận hành của “ thập nhị nhân duyên”, trong đó gốc rễ sâu xa là “vơ minh”.
Vì vậy muốn diệt khổ phải đi ngược lại sự vận động của 12 nhân duyên, bắt đầu từ
việc diệt trừ “vô minh”. “Vơ minh” bị diệt trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản
chất của tồn tại, thực tướng của vũ trụ và con người, khơng cịn tham dục và kéo theo
những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi, sinh -tử, đạt tới trạng
thái Niết bàn. Niết bàn (Nirvana) là cõi tịch diệt, thanh tịnh, vắng lặng tuyệt đối, an
lạc, sáng tỏ, là trạng thái diệt được mọi dục vọng, chấm dứt mọi phiền não, luân hồi,
nghiệp báo, tái sinh, không phải ở một cõi nào khác mà ở ngay trên thế gian này, ở
chính tâm mình, nhờ sự nỗ lực, tu luyện nghiêm túc. Trong kinh Pháp cú, đức Phật
dạy: “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ơ nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội
lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Khơng ai có thể làm
người khác trở nên trong sạch” [1, tr.294]. Hay nói cách khác, Niết bàn còn là sự dập
tắt ngọn lửa dục vọng, tham, sân, si luôn ngầm chứa, nhen nhúm trỗi dậy trong lịng
con người. Kinh Pháp cú viết: “Khơng lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng
ác sân hận, không khổ nào bằng khổ ngũ uẩn, không vui nào bằng vui Niết bàn” [1,
tr.295].
 Chân lý thứ tư là “đạo đế” (Mara satya) là cách thức, con đường để giải thốt khỏi
nỗi khổ. Con đường đó khơng phải là cách tu luyện khổ hạnh ép xác, cũng khơng phải
là chìm đắm trong dục lạc thấp hèn, thơ bỉ, đó là hai thái cực khơng thể đưa đến giải
thốt. Con đường để diệt dục vọng, xóa vơ minh, giác ngộ và giải thoát, theo đức Phật
là con đường ở giữa hai thái cực kia đó là “Bát chính đạo”. Đây chính là chân lý cao
thượng về con đường dẫn đến sự diệt khổ. “Bát chính đạo” gồm: chính kiến, chính tư
duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm và chính định.


Chính kiến: Nhận thức đúng, nhìn nhận rõ phải trái, không để những điều sai trái che
lấp sự sáng suốt của mình.
Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn để đạt tới chân lý và giác ngộ.
Chính nghiệp: Hành động làm việc đúng đắn, không làm những điều tàn bạo, gian ác,

giả dối.
Chính ngữ: Chỉ nói những điều đúng đắn, điều phải, điều tốt, khơng được nói những
điều gian dối, điều ác, điều xấu.
Chính mệnh: Sống đúng đắn, trung thực, nhân nghĩa, khơng tham lam, vụ lợi.
Chính tinh tiến: Nỗ lực sáng suốt, vươn lên một cách đúng đắn.
Chính niệm: Phải luôn tâm niệm và suy nghĩ đến đạo lý chân chính, đến điều tốt,
khơng được nghĩ đến điều xấu xa, tà đạo.
Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng tâm trí vào con đường đạo lý chân chính,
khơng để bất cứ điều gì làm lay chuyển tâm trí đạt tới giác ngộ.
Trong tám biện pháp tu luyện để đạt tới giác ngộ và giải thốt thì chính kiến, chính tư
duy thuộc về mơn tu luyện trí tuệ. Chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về mơn
tu luyện đạo đức theo giới luật, cịn chính tinh tiến, chính niệm, chính định thuộc về
môn tu thiền định. Triết học Phật giáo khái quát ba phương pháp tu luyện đó gọi là
“Tam học”, gồm: Giới (Sila), Định (Dhyana) và Tuệ (Samadhy).
Giới là những điều răng cấm, những quy định giúp cho con người trên đường tu hành
tránh được những lỗi lầm, trở nên trong sạch. Giới luật có những quy chế cụ thể cho
từng đối tượng tu hành.
Định là phương pháp giúp cho người tu hành khơng tán loạn thâm tâm, nhờ đó mà loại
trừ những ý nghĩ xấu, tạo điều kiện cho trí tuệ bừng sáng.
Tuệ là người có trí tuệ sáng suốt diệt trừ vô minh, tham dục, chứng ngộ được chân lý
làm điều thiện, mưu cầu lợi ích cho chúng sinh.
Giới - Định - Tuệ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Muốn có tuệ thì phải tập trung tư
tưởng (định). Khơng thể có tuệ nếu khơng có sự tập trung tư tưởng. Tư tưởng, ý nghĩ,
suy nghĩ của con người cũng giống như ngọn đèn, nếu để nó lan tỏa khắp nơi thì ánh
sáng của nó sẽ yếu ớt. Ngược lại, nếu biết tập trung ánh sáng vào một điểm, ánh sáng


này sẽ trở nên vô cùng mạnh mẽ. Tư tưởng con người cũng vậy, nếu biết tập trung nó
sẽ tạo nên sức mạnh, tạo nên tuệ. Như vậy, khơng có tuệ nếu khơng có định, khơng có
định tất khơng có tuệ. Có định dần dần sẽ dẫn đến tuệ. Nhưng muốn có định thì phải

làm sạch thân, tâm (tức phải giữ giới). Làm sạch thân thể, tâm hồn là điều kiện đầu
tiên, tất yếu để dẫn đến định. Chúng ta chỉ tập trung tư tưởng được khi con người
thanh thản, thân tâm trong sạch. Như vậy, muốn có định thì phải giữ giới, khơng giữ
giới thì khơng thể nào có định. Định chỉ xuất hiện khi người ta giữ giới đến một mức
độ nhất định nào đó. Giới là điều kiện đầu tiên, tiên quyết dẫn đến định. Do đó nhận
thức trong Phật giáo, định bắt đầu từ giới, tức từ đạo đức và luân lý.
Cùng với “Bát chính đạo”, Phật giáo còn đưa ra phép tu tổng quát cho tất cả các hạng
phật tử để ngăn ngừa việc gây ra những điều ác, thi hành những điều thiện, điều tốt
cho người và cho mình, đó là “Ngũ giới” và “Lục độ”. “Ngũ giới” (năm điều răn)
gồm:
+ Bất sát sinh: Không sát sinh, để cho mọi vật được sống trọn kiếp của nó. Đây là điều
răn dạy thứ nhất mà đức Phật khuyên chúng ta, không được giết hại sinh mạng bất kể
loài động vật nào bởi sinh mạng điều có một giá trị q báu.
+ Bất đạo tặc: Khơng trộm cướp, không làm những điều tàn ác, xấu xa, gian dối, phi
nhân nghĩa.
+ Bất dâm dục: Không dâm dục, tích cực làm điều thiện, bỏ tâm tư dục. Giới luật của
Phật giáo chế định người xuất gia thì phải hồn tồn cắt đứt dục vọng có như vậy thì
mới được mọi người nể trọng kính yêu.
+ Bất vọng ngữ: Khơng nói dối, khơng bịa đặt, khơng nói điều ác, điều xấu. Vọng ngữ
có bốn loại là: Vọng ngơn (tâm và miệng khơng đồng nhất), ỷ ngữ (dùng lời nói làm
dao động người khác), lưỡng thiệt (chia rẻ, tạo xung đột), ác khẩu (dùng lời nói ác độc
khiến người nghe đau khổ sợ hãi).
+ Bất ẩm tửu: Không uống rượu.
“Lục độ” (sáu phép tu) gồm:
+ Bố thí: Tự đem cơng sức tài trí, của cải của mình ra cứu giúp người với lịng từ bi
bát ái, khơng phải là sự cầu lợi ban ơn.
+ Trì giới: Giữ nghiêm giới luật, tích cực bỏ điều ác


+ Nhẫn nhục: Là sự kiên nhẫn nhường nhịn, chịu đựng trong hành động, lời nói, ý

nghĩ khơng ốn hại, khơng nóng nảy, giận dữ khơng tâm phục thù
+ Tinh tiến: Là sự cố gắng nỗ lực vươn lên, học tập, tu luyện đạo pháp ngày một tốt
hơn, chuyên tâm làm điều thiện, tránh điều ác.
+ Thiền định: Là sự tập trung cao độ tâm trí vào một chỗ để tâm được an trụ
+ Bát nhã: Là trí tuệ do thiền định phát sinh mà hiểu rõ được chân tướng của vạn pháp
và thấu suốt chân bản tính của mình. Với thế giới quan nhân duyên sinh, triết lý phật
giáo đã bao hàm những yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát. Đó là
ưu điểm nổi bật của Phật giáo mà chính Ăng - ghen đã nhận định rằng tư duy biện
chứng tự phát là đặc điểm chung của tư tưởng phật giáo sơ kì, cũng như những người
Hy Lạp cổ đại. Về ý nghĩa chính trị xã hội, sự ra đời của Phật giáo cũng có những
đóng góp tích cực. Nó là tiếng nói tiến bộ trong làn sóng phủ nhận uy thế có tính
truyền thống của kinh Vê đa, Upanishad và giáo lý đạo Bàlamôn, lên án chế độ phân
biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, địi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội. Cũng như
các môn phái triết học tôn giáo tiến bộ khác của Ấn Độ, Phật giáo cố gắng tìm cách
góp phần cải biến xã hội, xóa bỏ áp bức bất công đè nặng lên đời sống của nhân dân
Ấn Độ, đưa ra những tư tưởng và phương pháp cải cách xã hội, giáo hóa đạo đức tinh
thần con người, khuyên con người sống từ bi, hỷ xả tinh thần bác ái. Đó là sự thể hiện
ý chí phản kháng của nhân dân lao động chóng lại những bất cơng trong xã hội Ấn Độ
đương thời. Do đó triết lý đạo đức nhân sinh của Phật giáo mang một tinh thần nhân
văn sâu sắc
1.3. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo truyền đến Việt Nam vào khoảng những năm đầu công nguyên, lúc
bấy giờ nước ta đang nội thuộc Trung Quốc, Phật giáo đã dung hịa được với hệ tư
tưởng và tín ngưỡng Dân tộc. Dựa vào các sử liệu, hiện nay hầu hết các Sử gia đều
đồng ý với một điểm mấu chốt như sau:
- Đạo Phật đã đến Việt Nam trước hết là đường biển, theo bước chân của các doanh
nhân và Tăng sĩ Ấn Độ.


- Điểm thứ hai là đạo Phật được truyền đến Việt Nam trước khi đến Trung Hoa, cũng

như trong giai đoạn khai sinh, Phật giáo Việt Nam cũng đã hưng thịnh hơn Phật giáo
Trung Hoa cùng thời.
- Điểm thứ ba là đến thế kỷ thứ II đã có một nền Phật giáo và Phật học hưng thịnh tại
Việt Nam, nghĩa là đạo Phật đã truyền bá trước đó khá lâu, ít nhất cũng phải hàng trăm
năm trước, nghĩa là ít nhất cũng vào khoảng thế kỷ thứ nhất hay sớm hơn nữa.
Sau này, sang thế kỷ IV –V, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung
Hoa tràn vào. Từ “Buddha” và tiếng Hán được phiên âm thành Phật Đà vào tiếng Việt
rút gọn lại còn Phật. Từ đây, Phật dần dần thay thế cho từ Bụt.
Từ Trung Hoa đã có ba Tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền tông,
Tịnh độ tông và Mật tông.
Thiền tông là tông phái Phật Giáo, do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma sáng lập ở Trung
Quốc vào đầu thế kỉ thứ VI. Thiền tông Việt Nam luôn đề cao cái tâm, Phật tại tâm,
tâm là Niết Bàn, là Phật. Tu theo Thiền tơng địi hỏi nhiều cơng phu và khả năng trí
tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở giới tri thức thượng lưu.
Tịnh độ tông chủ trương dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngồi, để chúng sanh thốt
khỏi Ta bà. Tịnh độ tơng hướng họ đến cõi Niết bàn cụ thể là cõi Tịnh độ yên tỉnh. Chỉ
cần chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, đây là cách tu đơn giản và trở thành phổ biến khắp
nhân gian.
Mật tông là phái tu chủ trương sử dụng những pháp tu huyền bí, như dùng linh phù,
mậảt chú, ấn quyết … Vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như Tông phái
riêng mà hồ vào dịng tín ngưỡng Dân gian với những truyền thống cầu đồng cúng
pháp thuật, yễm bùa trị tà ma.
Cả ba Tơng phái trên, mặc dù có những điểm khác biệt nhau, nhưng nhìn chung chúng
đều dựa trên những giáo lý cơ bản của nhà Phật … giữa chúng có sự ảnh hưởng đến
nhau và đều mang tinh thần hoà mình vào đời sống thường nhật.
Việc du nhập diễn ra với nhiều chiều hướng khác nhau, nhiều Tông phái khác nhau
trong hoàn cảnh Việt Nam tạo nên một nét bản sắc Phật giáo Việt Nam. Rõ ràng, đó là
một trong những cơ sở tạo nên đặc thù của lịch sử Phật giáo Việt Nam.



Vậy với những lý do trên có thể nói rằng, đạo Phật là một Tôn giáo ngoại lai, nhưng đã
nhanh chóng truyền vào Việt Nam một cách tự nhiên, mà không bị một cản trở nào.
1.2.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1.2.1.1. Các con đường du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Từ Ấn Độ: Phật giáo truyền vào nước ta từ rất sớm. Theo quan điểm chung của các
nhà nghiên cứu, thì Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu Công nguyên.
Vào đầu Cơng ngun, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với Trung Đông,
và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn cung cấp nguyên vật
liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giơng buồm, theo gió mùa Tây Nam mà đi
về Đơng. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ mà lại theo tiếp đường biển hay
đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để quay về
Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ,
trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ màcác thương nhân đem
theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù trợ của đức Phật, là những
người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Chính
lịch sử Trung Quốc cũng đã từng ghi nhận rằng, vào những năm đầu công nguyên,
trong khi ở miền Nam Trung Quốc chưa biết đến Phật giáo thì ở Luy Lâu (Thuận
Thành, Bắc Ninh) đã có một trung tâm Phật giáo phát triển khá phồn thịnh. Sau này
khi trả lời vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo Giao Châu, nhà sư Đàm Thiên đã
nói rằng: “Xứ Giao Châu có đường thong sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung
Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ
được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”
[3, tr.47]. Như vậy, căn cứ vào những sự kiện lịch sử và địa lý, chúng ta bác bỏ thuyết
cho rằng Phật giáo đầu tiên truyền từ Ấn Độ qua Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc
truyền sang Việt Nam, mà theo đường biển các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ
đầu Công nguyên và Luy Lâu trụ sở quận Giao Chỉ đã sớm trở thành một trung tâm
Phật giáo quan trọng.
Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam, nên từ Buddha
tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành Bụt. Phật giáo Giao Châu
lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông trong con mắt của người Việt Nam nơng

nghiệp, Bụt như một vị thần ln có mặt khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp
người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ IV-V, lại có thêm luồng Phật giáo


Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc, nó đã lấn át và thay thế
luồng Nam tơng có trước đó. Từ “Buddha” vào tiếng Hán được phiên âm thành Phậtđồ, vào tiếng Việt rút gọn lại thành Phật. Từ đây, từ Phật dần dần thay thế cho từ Bụt.
Từ Trung Hoa, có 3 tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền tông, Tịnh
độ tông và Mật tông. Thiền tông là tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ - Đề - Đạt
- Ma sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ VI. Chủ trương tập trung trí tuệ suy
nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra chân lý. Thiền tơng Việt Nam luôn đề cao cái tâm, Phật
tại tâm, tâm là Niết Bàn, là Phật. Tu theo Thiền tơng địi hỏi nhiều cơng phu và khả
năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở giới tri thức thượng lưu. Tịnh độ tông chủ trương
dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngồi, để chúng sanh thốt khỏi Ta bà. Tịnh độ tông
hướng họ đến cõi Niết Bàn cụ thể là cõi Tịnh độ yên tĩnh, chỉ cần chuyên tâm niệm
Phật A Di Đà, đây là cách tu đơn giản và trở thành phổ biến khắp nhân gian. Nhờ cách
tu đơn giản, Tịnh độ tông đã trở thành Phật giáo của giới bình dân và phổ biến khắp
cõi Việt Nam. Đâu đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm Nam - mô - A - di - đà - Phật
(nguyện quy theo đức Phật A - di - đà). Mật tông là phái tu chủ trương sử dụng những
pháp tu huyền bí, như dùng linh phù, mật chú, ấn quyết … để thu hút tín đồ và mau
chóng đạt đến giác ngộ và giải thốt. Vào Việt Nam, Mật tơng khơng tồn tại độc lập
như tơng phái riêng mà hồ vào dịng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu
đồng cúng pháp thuật, yễm bùa trị tà ma.
Cả ba Tông phái trên, mặc dù có những điểm khác biệt nhau, nhưng nhìn chung chúng
đều dựa trên những giáo lý cơ bản của nhà Phật … giữa chúng có sự ảnh hưởng đến
nhau và đều mang tinh thần hồ mình vào đời sống thường nhật. Phật giáo du nhập với
nhiều chiều hướng khác nhau, nhiều tông phái khác nhau tạo nên một nét bản sắc Phật
giáo Việt Nam. Rõ ràng, đó là một trong những cơ sở tạo nên đặc thù của lịch sử Phật
giáo Việt Nam.
1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
1.2.2.1. Phật giáo thời kỳ đầu du nhập đến Tiền Lê (571-1009)

Phật giáo thời kỳ đầu du nhập đến thế kỷ V:
Từ nhiều nguồn sử liệu khác nhau, chúng ta có thể ít nhiều hiểu được về Luy Lâu trung tâm Phật giáo Việt Nam trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Nhưng Phật giáo


ở Luy Lâu lúc này khơng hồn tồn giống Phật giáo của Đức Thích Ca, cũng khơng
hồn tồn giống Phật giáo ở Ấn Độ đương thời. Bởi nó đã bị biến đổi đi do truyền
thống tư tưởng và phong tục tập quán cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của Việt
Nam lúc bấy giờ quy định. Đức Phật Thích Ca được quan niệm như một vị thần có mặt
ở khắp mọi nơi, có thể biết được mọi nỗi suy tư và hành vi của con người, có thể cứu
giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu như ông Bụt trong truyện TấmCám. Phật cũng được
quan niệm như một vị thần linh có nhiều phép lạ có thể hóa thành các hiện tượng tự
nhiên, có thể biến các hiện tượng tự nhiên quanh con người thành các vị thần thánh,
các vật linh thiêng mang phúc trừ họa… Tóm lại, Phật giáo Luy Lâu gắn liền với tín
ngưỡng dân gian được dân gian hóa và phong tục hóa, nó thể hiện tâm lý lòng mong
ước và thế giới quan của người dân trồng lúa nước vùng đồng bằng. Thế kỷ II đến thứ
kỷ thứ V, Phật giáo tiếp tục truyền vào Việt Nam gắn liền với tên tuổi một số nhà sư
Ấn Độ, Trung Á và Trung Quốc như sau: Ma Ha Kỳ Vực với Khâu Đà La người Ấn
Độ cùng đến Luy Lâu, được một thời gian, Khâu Đà La ở lại Việt Nam tu hành và
truyền đạo còn Ma Ha Kỳ Vực lại tiếp tục đi Trung Quốc truyền đạo. Mâu Bác (165170) ở Thương Ngô Trung Quốc, ông đã cho ra đời cuốn “Lý hoặc luận” là tác phẩm
Phật giáo đầu tiên sáng tác ở Việt Nam. Nội dung của tác phẩm đã nói lên Phật giáo
Việt Nam ngay giai đoạn đầu là Phật giáo Đại thừa chính xác hơn là Đại thừa Ấn Độ,
vì các nhà sư khi đó mặc vải đỏ, hồn tồn xa lạ với phong tục, tập quán, cách ăn mặc
và giao tiếp của người Hán. Điều đó chứng tỏ Phật giáo Việt Nam đến giai đoạn này
đã có một q trình lịch sử, khơng chỉ về tín đồ, tơn giáo mà cịn về cả mặt lý luận
nữa. Hay ông tổ Thiền học Việt Nam Khương Tăng Hội, là một người ngoại quốc sinh
ra và học Phật tại Việt Nam rồi sau đó sang Giang Nam truyền đạo. Đến thế kỷ V Phật
giáo đã được truyền bá nhiều nơi trên đất nước ta, và đã xuất hiện những nhà sư Việt
Nam danh tiếng như: Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền, Pháp Minh…Nói tóm lại, tình
hình Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ này rất phát triển. Đồng thời qua đó cho thấy kiến
thức nhà sư Việt Nam lúc đó rất uyên bác, họ nắm vững Phật lý, tiếng tăm của họ vang

xa.
Phật giáo thời kỳ hậu Lý Nam Đế đến Tiền Lê (571-1009)
Vào thời Tiền Lý Nam Đế (189-548) Phật giáo chỉ mới phôi thai. Thời hậu Lý Nam
Đế (571-602) và Bắc thuộc lần thứ 3 (603-939) là thời kỳ Phật giáo chính thức được
hình thành và phát triển. Vào cuối đời Hậu Lý Nam Đế, nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi từ


Trung Quốc đem Thiền Tông truyền vào Việt Nam và trở thành tổ sư đầu tiên của phái
Thiền Việt Nam (508). Đến năm 820, có thêm phái Thiền thứ hai là phái Vô Ngôn
Thông. Đến đời nhà Đinh và Tiền Lê (968-1009), tuy Nho, Lão đã vào Việt Nam và có
ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt Nam, song ảnh hưởng
của đạo Phật vẫn rất lớn. Các nhà sư và các tín đồ đã thực sự tham gia vào các cuộc
vận động, giải phóng dân tộc đứng vào hàng ngũ nhân dân, chống áp bứt, giành lại nền
độc lập cho đất nước. Khi đất nước đã giành độc lập, cũng là lúc uy tín và vai trò xã
hội của lực lượng Phật giáo được khẳng định.Đời Đinh và Tiền Lê (968-1009), đã có
những chính sách nâng đỡ Phật giáo. Đinh Tiên Hoàng triệu tập các cao Tăng để định
rõ trật phẩm cho Tăng già, vua Lê Đại Hành cử những phái đoàn sang Trung Quốc
thỉnh kinh để về truyền bá Phật pháp, trọng dụng và phong thưởng cho những nhà sư
có cơng giúp vua lo việc triều chính. Đinh Tiên Hồng phong nhà sư Ngô Chân Lưu
chức Tăng Thống ban hiệu là Khuông Việt, Lê Đại Hành đã mời thiền sư Đỗ Thuận
giúp triều đình về đối nội, đối ngoại.
1.2.2.2. Phật giáo thời Lý Trần (1010-1400) đến thời Nguyễn
 Phật giáo thời Lý Trần (1010-1400)
Có thể nói đây là thời kỳ Phật giáo Việt Nam phát triển đến mức cực thịnh. Triều Lý
được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Lý Cơng Uẩn, người sáng lập ra
nhà Lý chính là học trị của nhà sư Lý Khánh Vân. Vì thế nên trong suốt triều đại nhà
Lý, Phật giáo rất được xem trọng. Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã ban hành
nhiều lệnh chỉ có lợi cho sự phát triển của Phật giáo như xây dựng chùa chiền trong cả
nước, độ dân làm sư, sai sứ sang Trung Quốc xin kinh Tam Tạng…các vị sư Vạn
Hạnh, Đa Bảo, Viên Thơng đều tham gia chính sự. Nhà vua rất coi trọng các vị cao

Tăng, nhiều vị cao Tăng xuất thân từ tầng lớp quý tộc quan liêu như Viên Chiếu,
Quảng Trí, Trí Bảo và ngay cả một số vua như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh
Tông, Lý Cao Tơng…Trong đó Lý Thánh Tơng là người có cơng trong việc sáng lập
ra phái Thảo Đường. Đến triều đại nhà Trần (1225-1400), Phật giáo khơng những ảnh
hưởng trong triều đình, mà cịn thấm nhuần trong nhân dân. Có thể nói, đây là giai
đoạn Phật giáo phát triển cực thịnh, lấn át cả dịng Nho học đã có từ trước. Nhà Nho
Lê Quát học trò của Chu Văn An lấy làm khó chịu khi thấy tồn dân theo Phật giáo:
“Phật chỉ lấy đều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu sắc và bền chắc như thế,


trên từ Vương Công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật thì hết cả gia
tài cũng không tiếc.Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ
như trong tay đã cầm được cái biên lai, để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên
trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo,
chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà ở thì có chùa Phật, bỏ đi thì làm lại,hư đi thì sửa
lại” [12,tr.243]. Phật giáo được vua Trần đã lấy tư tưởng Phật giáo làm kim chỉ nam
cho cuộc sống. Vua Trần Thái Tông (1278-1308) đã bỏ nhiều thời gian nghiên cứu và
viết sách về Phật giáo, đặt biệt vua Trần Nhân Tông đã từ bỏ ngai vàng vào núi Yên
Tử làm đạo sĩ và ông đã cùng với Pháp Loa, Huyền Quang trở thành 3 vị tổ sư của
phái Trúc Lâm Yên Tử - một phái thiền thuần túy Việt Nam.
 Phật giáo thời hậu Lê đến thời Nguyễn
Từ thế kỷ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam lấy đạo Nho làm chỗ dựa về tư tưởng,
chính trị, đạo đức. Phật giáo suy tàn dần khơng cịn giữ vị trí độc tơn như trước nữa,
ngồi việc tập trung sư sãi bất khảo thí, cuối năm 1429 triều đình cịn hạn chế việc xây
dựng thêm chùa chiền. Lê Thánh Tông ra lệnh cấm xây dựng thêm chùa quán, tạc
tượng đúc chng mới, phải xin phép chính quyền. Năm 1463, Lê Thánh Tông lại ra
lệnh cấm những người đạo Thích trong nước từ nay về sau ra vào trong hồng cung
giao thơng trị chuyện. Phật giáo thời hậu Lê bị đẩy ra khỏi tầng lớp thống trị, chỉ còn
duy trì hoạt động trong dân gian như một thứ lớp văn hóa tư tưởng trong nơng thơn.
Dưới triều Nguyễn, chùa chiền phát triển thành một hệ thống, gồm đủ loại: lớn đi liền

với nhỏ, mới đi liền với cũ, chùa nhà đi liền với chùa làng và chùa nước, chùa tháp
được tu bổ và xây dựng mới rất đồ sộ và tráng lệ. Thời kỳ này ở nước ta lại xuất hiện
hai phái thiền từ Trung Quốc sang là phái Tào Động (1570) ở miền Bắc và phái Lâm
Tế (1712) ở miền Nam. Song cả hai phái thiền này cũng không gây được ảnh hưởng
nhiều đối với Phật giáo Việt Nam.
1.2.2.3. Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX
 Phong trào chấn hưng Phật giáo: Đầu thế kỷ XX, một số nhà tu hành cùng một số
nhân sĩ trí thức có tinh thần dân tộc và mến đạo, đứng ra vận động “chấn hưng Phật
giáo”, Phật giáo từ đó mới bắt đầu khởi sắc. Cũng từ đây, một số bộ phận của Phật
giáo đi vào hoạt động có tổ chức, một số tổ chức Phật giáo và một số cơ sở đào tạo
Tăng Ni đã lần lượt ra đời. Phong trào chấn hưng Phật giáo kéo dài đến năm 1954.


Trong quá trình này, mặc dù thực dân Pháp tìm đủ mọi cách để lôi kéo một số nhân vật
và tổ chức Phật giáo, song chúng không thực hiện được điều đó, vì tuyệt đại đa số
Tăng Ni Phật tử vẫn giữ vững truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, vẫn giữ nếp
tu hành theo sơn môn, tông phái và tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Nhiều đại biểu Phật giáo tham gia vào Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt các cấp.
Nhiều chùa là cơ sở hoạt động, là nơi che giấu cán bộ Cách mạng. Ở Nam Bộ tổ chức
Phật giáo cứu nước đã thu hút hầu hết các Tăng Ni phật tử tham gia hoạt động yêu
nước.
 Phật giáo trong thời kỳ đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam (1954-1975): Sau năm
1954, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, do đó
tình hình Phật giáo ở cả hai miền cũng có sự khác nhau. Ở miền Bắc, tháng 3-1958,
Đại hội đại biểu Phật giáo miền Bắc đã nhất trí thành lập “Hội Phật giáo thống nhất
Việt Nam”. Hội đã quy tụ giới Phật giáo miền Bắc trong một tổ chức duy nhất vừa
hoạt động tôn giáo vừa hoạt động yêu nước. Có thể nói đó là bước chuyển quan trọng
trong tiến trình gắn bó với dân tộc của giới phật tử miền Bắc nhằm thực hiện chủ
trương “đại đồn kết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh “không phân biệt dân tộc, tôn giáo,

già, trẻ, gái, trai…dân tộc ta muôn người như một” tạo nên sức mạnh vô địch trong
công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ở miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975,
đã ra đời hang chục tổ chức Phật giáo như: Tăng già nguyên thủy, Khất sĩ, Hội Phật
học Nam Việt. Năm 1964 Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất thành lập, sau một
thời gian hoạt động, hội bắt đầu có sự phân rẽ, một bộ phận nhỏ bị lợi dụng đã tách ra
hoạt động riêng. Song đại đa số Tăng Ni phật tử vẫn đứng về phía dân tộc, hưởng ứng.
ủng hộ và tham gia cách mạng. Cũng trong thời gian này, xu hướng “hiện đại hóa” chi
phối mạnh Phật giáo miền Nam. Các tổ chức Phật giáo đẩy mạnh việc triển khai lực
lượng về mọi mặt; củng cố tổ chức, mở trường đào tạo, xây dựng chùa chiền, xây
dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội…tạo ra sự phát triển rầm rộ đột xuất trong lịch sử
Phật giáo mấy thế kỷ qua.
 Đất nước thống nhất – Phật giáo thống nhất: Tháng 11 năm 1981, Đại hội đại
biểu thống nhất Phật giáo đã long trọng tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã lập ra
giáo hội Phật giáo Việt Nam, thơng qua Hiến chương và chương trình hoạt động của
giáo hội bầu ra Hội đồng trị sự, Hội đồng chứng minh là cơ quan lãnh đạo cao nhất


của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng va tình cảm tha thiết của Tăng Ni, phật tử
cả nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giới phật giáo Việt Nam tiếp tục phát
huy truyền thống gắn bó với dân tộc, phục vụ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp
phần đem lại hịa bình, an lạc cho đất nước và thế giới.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở VIỆT NAM

2.1. Những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần ở Việt Nam
2.1.1. Quan niệm về đời sống tinh thần

Đời sống tinh thần là một khái niệm có phạm vi rất rộng lớn, nó khơng dừng lại ở
những yếu tố tinh thần thong thường mà nó cịn bao gồm nhiều yếu tố khác như sản
phẩm tinh thần, giá trị tinh thần, quan hệ tinh thần…như vây, khi nói đến đời sống tinh
thần là nói đến yếu tố phi vật chất, là kết quả của sự phản ánh thế giới vật chất thong
qua hoạt động của con người. Tuy vậy, khi bàn tới khái niệm đời sống tinh thần thì lại
có nhiều ý kiến khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu hay góc độ tiếp cận khác
nhau.
Trong cuốn sách “Những chuyên đề Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh”
của PGS,TS. Nguyễn Thế Nghĩa thì: “ý thức xã hội là phạm trù Triết học dùng để chỉ
toàn bộ đơi sống tinh thần của xã hội”. Nó bao gồm những quan điểm, tư tưởng, lý
luận cùng những tình cảm tâm trạng, truyền thống, thói quen, sở thích…phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định”. Quan điểm này coi đời sống tinh
thần chính là ý thức xã hội, giữa chúng khơng có phân biệt gì, chúng có nội hàm và
ngoại diên như nhau, đều bao hàm tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần của xã
hội. Như vậy chúng cũng được cấu tạo bởi hai yếu tố cơ bản đó là tâm lý xã hội và hệ
tư tưởng, cùng là sự phản ánh tồn tại xã hội.
Còn theo A.K. Ulờđốp, một triết gia người Nga lại định nghĩa như sau: “Đời sống tinh
thần của xã hội, về bản chất là quá trình tồn tại hiện thực của mọi người, cịn thực tế
đó là cách thức hoạt động sống có tính chất xã hội và là lĩnh vực độc lập tương đối, có
lien quan tới sản xuất và truyền bá ya thức, tới việc thõa mãn nhu cầu tinh thần của
mọi người”.
Quan điểm này xem đời sống tinh thần là hệ thống của những hoạt động tinh thần
mang tính xã hội và nó có tính độc lập tương đối với hoạt động sản xuất.


Các tác giả L.I. Kadakuva, N.I. Pốtgornức coi đời sống tinh thần với tư cách là sự
thống nhất giữa các hoạt động tinh thần, các quan hệ tinh thần và ý thức (3 nhân tố cấu
thành hệ thống: hoạt động tinh thần – quan hệ thinh thần – ý thức).
Quan điểm này đã chỉ ra tính chất đặc trưng của đời sống tinh thần là một hệ thống
hoạt động mang tính xã hội thơng qua sự tác động giữa các nhân tố cấu thành hệ thống

của đời sống tinh thần xã hội. [8, tr 55-56]
Như vậy, khái niệm đời sống tinh thần cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau
nhưng nhìn chung đó là một lĩnh vực có phạm vi rộng, chứa đựng nhiều yếu tố trong
lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần và mang tính xã hội. Ở đây chúng ta sẽ tìm hiểu các
khía cạnh cơ bản mà nó chịu sự ảnh hưởng nhiều bởi Phật giáo Nam tông.
2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục Tập quán
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán
Phong tục tập quán là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa dân tộc. Nói một cách
khác, phong tục tập quán là những thói quen văn hóa của con người được hình thành
trong sự phát triển của dân tộc, tập thể hay cộng đồng người trong khu vực cư trú. Câu
tục ngữ của người Việt xưa: “Phép vua thua lệ làng” nói lên phần nào ý nghĩa quan
trọng của phong tục tập quán, cũng như “nước” có “luật” thì “làng” cũng có “lệ”.
Đồng bào Khmer sống hoạt động theo những quy định của phong tục tập quán, đó là
những “đám phước” đám lễ chịu sự chi phối của những giới luật Phật giáo đặc biệt là
Phật giáo Nam tơng Khmer.
+ Lễ hội Chơlchnamthmây: Hay cịn gọi là lễ chịu tuổi, là Tết năm mới của người
Khmer. Được tổ chức vào đầu tháng Chẹt theo Đại lịch – Maha Sangkran, tương ứng
với dương lịch vào ngày 13 hay 14 tháng tư. Đây là thời điểm giao mùa, mùa khô
chấm dứt và mùa mưa bắt đầu. Lễ được tổ chức 3 ngày.
* Ngày thứ nhất: là ngày lễ rước “Maha Sangkran” (rước quyển Đại lịch), được tổ
chức vào 7 giờ sáng hoặc 5 giờ chiều nhưng phải vào ngày tốt. Vào ngày này, người
dân đem theo nhang, đèn lễ vật trang trọng đến chùa để làm lễ dưới sự điều khiển của
ông Achar, mọi người đứng xếp hàng đi vịng quanh chính điện 3 lần để làm lễ chào
mừng năm mới. Sau lễ này, mọi người vào lễ Phật, tụng kinh mừng năm mới, đến đêm


nhiều người ở lại nghe sư sãi thuyết pháp, thanh niên nam nữ tham gia sinh hoạt ở sân
chùa.
* Ngày thứ hai: Người dân làm lễ dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư sãi gọi là
“Wênchônghanh”. Theo Phật giáo Tiểu thừa thì vào ngày lễ tín đồ đi chùa lễ Phật và

mang cơm thức ăn đến cho sư sãi. Trước khi dùng, các sư sãi tụng kinh, tạ ơn những
người đã làm ra vật thực, đồng thời cũng để đưa vật thực đến những linh hồn đói khát.
Sau khi dùng xong, các nhà sư lại tụng kinh lần nữa để chúc phúc cho thí chủ. Cũng
trong ngày này, người dân thi nhau làm lễ đắp núi cát ngoài ruộng bãi, thể hiện núi lúa.
Đây là nghi lễ nông nghiệp với mục đích là cầu cho mùa khơ qua nhanh, mùa mưa
mau đến để có nước làm ruộng.
* Ngày thứ ba: là ngày “Lonsăk”, sau khi dâng cơm sáng cho các vị sư, mọi người
đem nước được ướp sẵn với hương hoa cùng nhang, đèn đến bàn thờ Phật để làm lễ
tắm tượng Phật, còn được gọi là “SrongtứcPrak”, sau đó là tắm cho các vị sư cao niên,
nhằm rửa sạch những cái cũ, xui xẻo, không may mắn trong năm cũ để sang năm mới
hoàn toàn mới. Sau đó, người dân mời sư sãi đến tháp có chứa tro cốt của ông bà tổ
tiên mở lễ cầu siêu cho linh hồn người quá cố. Lễ này được gọi là “BăngSkôl”, lễ này
kéo dài tới trưa mới dứt. Cuối cùng mọi người về nhà làm lễ tắm tượng Phật, rồi đem
bánh trái dâng ông bà cha mẹ để tỏ lịng thành kính.
Các hoạt động nói trên đều diễn ra trong chùa, có sự tham gia, điều hành của các vị sư,
đặc biệt là việc tổ chức rước quyển Đại lịch với nghi thức là người dự lễ rước lịch đi
vịng quanh chính điện 3 vịng cùng với những lễ vật rất trang trọng là xuất phát từ sự
tích có liên quan đến Phật giáo. Đó là câu chuyện về một vị hồng tử có tên là
Thomabal tu theo Phật, đã thắng cuộc trong việc nhận thách đố với thần Bàlamơn giáo
MahaPrum (vị thần có 4 mặt). Thần đặt ra câu hỏi: Con người trong một ngày có 3 cái
duyên, đó là ở đâu?. Hồng tử trả lời: Buổi sáng cái duyên ở trên mặt, nên thức dậy
phải rửa mặt; buổi trưa cái duyên ở ngực nên phải tắm; buổi tối cái duyên ở chân, nên
trước khi đi ngủ phải rửa chân. Thần HaPrum thua cuộc phải tự cắt đầu. Tự cắt đầu
xong, thân thể thần MahaPrum biến thành luồng khói xanh bốc lên trời cao, cịn đầu
thần được các con gái đem cất trong ngôi tháp tại hang thủy tinh. Hằng năm, cứ đến
ngày thần MahaPrum tự sát, các con gái lại bưng đầu cha đi vòng quanh núi vũ trụ 3
vòng, để nhớ về 3 điều thua cuộc. Sau đó, các nữ thần xuống hồ tắm rửa, rồi vào đền
Dharma hưởng điều vui sướng trường sinh bất tử. Chính ngày rước đầu thần



×