Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Phát huy tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.57 KB, 71 trang )

1

MỞ ĐẦU
1

Tính cấp thiết
NCKH là một dạng hoạt động đặc biệt, giúp con người nhận thức và cải
tạo thực tiễn. Đó là q trình sáng tạo, khám phá những quy luật và vận dụng
những quy luật đó vào thực tiễn đời sống xã hội. Đối với học viên, NCKH là
quá trình trải nghiệm từ lý thuyết đến thực tiễn, giúp học viên bước đầu rèn
luyện và nâng cao khả năng tư duy, tự khám phá, tự bồi dưỡng kiến thức.
NCKH sẽ giúp học viên có kiến thức về phương pháp học và tự học, hình
thành và hồn thiện nhân cách, có tư duy tích cực trong nhận thức và hành
vi. Đối với nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của Nhà trường, NCKH góp phần
nâng cao hiệu quả, chất lượng cơng tác dạy và học, từ đó nâng cao chất
lượng đào tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, trên cơ sở
đó học viên từng bước hoàn thiện kiến thức, tiếp cận các vấn đề khoa học
một cách thuận lợi.
Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả NCKH nói chung và phát huy tính
sáng tạo trong NCKH của học viên nói riêng cần có sự tác động tổng hợp của
nhiều yếu tố như: vai trò của các tổ chức, lực lượng giáo dục có liên quan đến
hoạt động NCKH; sự lãnh đạo của cơ quan cấp trên, trực tiếp là phòng khoa
học; sự định hướng của giảng viên... Đặc biệt, phải kể đến nhân tố chủ quan
của người học, trong đó tính sáng tạo là một trong những yếu tố rất cần thiết
cho hoạt động nghiên cứu này.
Bởi lẽ, chất lượng và hiệu quả hoạt động NCKH của học viên xét đến
cùng phụ thuộc vào sự sáng tạo của họ. Tính sáng tạo giúp cho chủ thể nghiên
cứu làm chủ được kiến thức, biết khái quát vấn đề, tìm ra cái mới có giá trị,
tạo bước đột phá, làm cơ sở nhận thức và cải tạo thực tiễn. Mặt khác, sẽ kích
thích tư duy sáng tạo để người học đào sâu và mở rộng vốn tri thức đã có, góp
phần nâng cao chất lượng NCKH cho học viên trong quá trình đào tạo.




2

Hiện nay trước yêu cầu của của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và yêu cầu xây dựng Quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại địi hỏi phải đặc biệt coi trọng công tác
NCKH như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh: “Phát
triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thực sự là
quốc sách hàng đầu” [10, tr.26].
Với phong trào “Thanh niên Quân đội tiến quân vào khoa học và cơng
nghệ” được phát động tại Đại hội Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
trong Quân đội lần thứ VIII giai đoạn 2012 - 2017 đã thúc đẩy tuổi trẻ các
đơn vị trong tồn qn, trong đó có học viên TSQCT tích cực NCKH, cải tiến
kỹ thuật, phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của thanh niên góp phần quan trọng
vào sự nghiệp hiện đại hóa Nhà trường và quân đội. Hưởng ứng phong trào
trên trong những năm qua thường vụ Đảng ủy, Ban Giám hiệu và các lực
lượng sư phạm trong toàn trường thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng tính
sáng tạo trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động NCKH của học viên nói
chung và học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV nói riêng. Q trình đó
trong thực tế đã có sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và
tính sáng tạo của người học trong hoạt động NCKH.
Tuy nhiên, hoạt động phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Nhà trường còn nhiều bất cập so với yêu cầu,
nhiều học viên việc NCKH còn dập khn, sao chép, chưa có sự tích cực,
ngại đổi mới về phương pháp dẫn đến các cơng trình khoa học hiệu quả chưa
cao. Một số học viên có tâm huyết với NCKH lại thiếu kinh nghiệm và chưa
đủ kiến thức cần thiết về NCKH nên gặp nhiều lúng túng. Do đó, để phát huy
tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
TSQCT hiện nay tác giả chọn vấn đề: “Phát huy tính sáng tạo trong nghiên

cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan


3

Nghiên cứu về phát huy tính sáng tạo trong NCKH là vấn đề tất yếu,
luôn được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Thực
tế đã có khá nhiều cơng trình, đề tài, các bài viết đăng tải trên các tạp trí Khoa
học bàn về vấn đề phát huy tính sáng tạo và hoạt động NCKH.
Liên quan đến tính sáng tạo và hoạt động NCKH, ở ngồi qn đội có
các cơng trình khoa học tiêu biểu:
Trong tác phẩm “Tâm lý học sáng tạo” tác giả Đức Uy đã viết “ý tưởng
chính là nguồn gốc của quá trình sáng tạo”, trong các giai đoạn lịch sử xã hội
khác nhau, sáng tạo là tất cả những cái mới do con người tạo ra trong hoạt
động thực tiễn và đang nảy sinh. “có thể kéo dài vơ tận những cái mới hiện có
và có thể có. Cái gì là chung cho tất cả những hoạt động đó? Khởi đầu cho tất
cả là ý tưởng nảy sinh trong đầu óc một ai đó. Về thực chất bất cứ quá trình
sáng tạo nào cũng bắt đầu từ ý tưởng” [28, tr.31]. Ý tưởng và các sản phẩm từ
ý tưởng là điểm khởi đầu và cũng là điểm kết thúc của quá trình sáng tạo.
Tác giả Chu Thị Thủy An, khi viết về “Một số kinh nghiệm hướng
dẫn sinh viên Đại học Sư phạm nghiên cứu khoa học”, ở Tạp chí Giáo dục,
số 174, Hà Nội (2007) [1] đã đưa ra một số kinh nghiệm trong hướng dẫn
sinh viên NCKH.
Nguyễn Văn Dân với luận án Tiến sĩ Giáo dục học “Bồi dưỡng kĩ năng
NCKH cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiện nay”, Hà Nội (2008)
đã nghiên cứu làm rõ các giải pháp bồi dưỡng kĩ năng NCKH cho sinh viên
hiện nay trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay [4].
Trong qn đội có các cơng trình khoa học tiêu biểu như: Tác giả Đào

Văn Tiến khi nghiên cứu về “phát triển tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội Quân độ nhân dân Việt Nam hiện nay” cho rằng tư duy sáng tạo
là: “tổng hợp những khả năng nghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa ,
khái qt, xử lý các thơng tin trong quá trình phản ánh và tạo ra tri thức mới
về đối tượng để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người ngày càng có hiệu
quả cao” [23, tr.23].


4

Bàn về vai trò sáng tạo của con người tác giả Nguyễn Đình Gấm trong
bài viết: “Sáng tạo - phẩm chất nhân cách hàng đầu của con người trong xã
hội hiện đại”, Tạp chí nghiên cứu con người số 4/2004, đã đưa ra quan điểm
sáng tạo: là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, khơng bị gị bó, phụ thuộc
vào cái đã có. “Ý tưởng là mầm móng của sự sáng tạo, do đó cần quan tâm
đến ý tưởng mới” [12, tr.20]. Đồng thời tác giả còn xác định các ý tưởng mới
chỉ có giá trị khi mang trong đó các hạt nhân hợp lý, những tiền đề cho giải
quyết vấn đề đặt ra. Tố chất cá nhân, môi trường xã hội và môi trường giáo
dục là các nhân tố ảnh hưởng, quy định, nảy sinh ý tưởng mới. Cần có cơ chế
khuyến khích, động viên tập thể, cá nhân biến những ý tưởng sáng tạo trong
khoa học, nghệ thuật và hiện thực hóa trong thực tiễn.
Khi nghiên cứu về “phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại
học ở Học viện Chính trị hiện nay” tác giả Đoàn Đức Khánh đã viết: “Ý
tưởng sáng tạo là kết quả của quá trình tư duy đưa đến những phát sinh (phát
hiện, phát kiến, phát minh, sáng chế) tạo ra một hay nhiều sự vật hiện tượng
mới, hữu ích, có giá trị về vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu của con
người trong xã hội” [14, tr.11].
Tác giả Hàn Duyên Hiếu khi nghiên cứu về “Phát huy vai trị tư duy
sáng tạo trong q trình học tập của học viên ở trường sĩ quan Lục Quân 2
hiện nay” đã viết: “Tư duy sáng tạo là trình độ cao của quá trình nhận thức

của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng bằng các khái niệm, phạm trù, quy
luật, phán đốn...nhằm tìm ra bản chất, quy luật, nội dung, hình thức, phương
thức hành động mới trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm đã có phừ hợp với hiện
thực khách quan và yêu cầu giải quyết nhiệm vụ đặt ra” [13, tr.15].
Bàn về “Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho cán bộ quản lý
học viên ở Trường Sĩ quan chính trị hiện nay hiện nay” tác giả Lê Văn Nông
đã viết: “Năng lực NCKH của học viên là tổng thể những khả năng, điều kiện
chủ quan của mỗi các nhân bảo đảm cho hoạt động NCKH của họ đạt hiệu
quả cao” [21, tr.17].


5

Nhìn chung, các cơng trình khoa học trên, ở mức độ và cách tiếp cận
khác nhau đã bước đầu làm rõ quan niệm về tư duy sáng tạo, vai trò, yêu
cầu và một số giải pháp cần thực hiện để phát huy tư duy sáng tạo, bồi
dưỡng năng lực NCKH. Tất cả những vấn đề trên có ý nghĩa to lớn cả về lý
luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống dưới góc độ triết học về phát huy tính sáng tạo trong NCKH của
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT hiện nay.
3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn; qua đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT hiện nay.
* Nội dung nghiên cứu của khoá luận
- Luận giải thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát huy tính
sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở TSQCT.

- Đánh giá thực trạng phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của khóa luận


6

Phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở TSQCT hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Các vấn đề liên quan đến phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT từ năm 2013 đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở lý luận: Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quá trình nhận thức, tư duy và tính sáng tạo
trong hoạt động khoa học của con người.
Cơ sở thực tiễn: Kết quả báo cáo, tổng kết công tác giáo dục đào
tạo và NCKH ở Tiểu đoàn 7, TSQCT và cơ sở khảo sát thực tiễn các cơng
trình khoa học liên quan đến tính sáng tạo và NCKH của các nhà lãnh
đạo, quản lý cùng những kết quả nghiên cứu của các tập thể, cá nhân
trong và ngoài quân đội.
* Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng

tổng hợp các phương pháp NCKH như: Hệ thống và cấu trúc, lơgic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, so sánh, điều tra kết quả xã hội học, khảo sát thực tế và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu


7

Khóa luận cung cấp những định hướng và giải pháp phát huy tính
sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
TSQCT hiện nay. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo của Nhà trường.
7. Kết cấu
Khóa luận gồm phần mở đầu; 2 chương, (4 tiết) kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1


8

THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT PHÁT
HUY TÍNH SÁNG TẠO TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1. Thực chất phát huy tính sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính
trị

1.1.1. Quan niệm tính sáng tạo trong nghiên
cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
* Quan niệm tính sáng tạo trong hoạt động con người
Con người là một thực thể sinh vật có tính tự nhiên và xã hội. Trong
hoạt động thực tiễn của mình, con người khơng tự bằng lịng với những gì đã
có sẵn trong tự nhiên, ngay từ khi ra đời, con người đã biết lao động cải tạo tự
nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho nhu cầu sống và hoạt động của mình. C.Mác
đã viết, “sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và
tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người” [3, tr.29].
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, có mục đích, khác về
chất so với hoạt động bản năng của con vật, trước khi làm việc con người đã
định hình trong đầu óc. Vì thế, đặc trưng lao động của con người là hoạt động
có tính chất tái tạo và sáng tạo.
Thế giới vật chất luôn vận động biến đổi không ngừng, để phản ánh kịp
sự vận động biến đổi ấy trong quá trình lao động cải tạo thế giới con người


9

ln ln có sự phát triển và hồn thiện về ý thức, về tư duy trong đó có tính
sáng tạo. Trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đã đạt đến
một trình độ cao hơn, thì năng lực nhận thức khơng cịn giữ ngun nghĩa mà
đã trở thành năng lực sáng tạo. Bởi lẽ, người ta không chỉ sáng tạo để có
những cái mới, mà cịn sáng tạo nhằm thay đổi thế giới làm cho thế giới ngày
càng tốt đẹp hơn. Sáng tạo đã được coi như chìa khóa của mọi thành cơng. Do
đó, chúng ta phải tự chuẩn bị và tạo dựng cho mình sự sáng tạo.
Theo Từ điển tiếng Việt, sáng tạo là “tạo ra những giá trị mới về vật
chất hoặc tinh thần” hay “tìm ra cái mới, có cách giải quyết cái mới, khơng bị

gị bó, khơng phụ thuộc vào cái đã có” [5, tr.1089].
Mọi nghề nghiệp ở thời nào trong xã hội đều cần phải có sự sáng tạo,
con người sinh ra vốn ai cũng có khả năng sáng tạo. Tuy nhiên, khả năng sáng
tạo của con người phần lớn bị giới hạn bởi phương pháp giáo dục và những
quy ước của xã hội, muốn sáng tạo mỗi người phải dũng cảm bỏ cách nghĩ,
cách làm, cách nói, đã lỗi thời, lạc hậu và phải suy nghĩ, phải tư duy một cách
biện chứng, sáng tạo trong mọi hoạt động, đặc biệt là lĩnh vực khoa học.
Sáng tạo nghĩa là tạo ra cả những giá trị mới cả về vật chất và tinh thần,
có tuy duy mới, cách giải quyết mới khơng phụ thuộc vào cái đã có trước đó,
là một năng lực vơ cùng quan trọng trong cơng việc và trong chính đời sống
của mỗi người. Đó là khả năng tìm thấy những điều mới mẻ từ khả năng quan
sát và nhận biết được. Từ đó giúp mỗi người phát triển thêm những hiểu biết
của mình, và làm phong phú thêm những ý tưởng mới, để nhạy bén và sâu sắc
hơn trong việc tìm kiếm ý tưởng và giải quyết vấn đề khó khăn mà chúng ta
gặp phải trong cuộc sống.
Từ những lý luận trên tác giả quan niệm: Tính sáng tạo của con người
là một quá trình tư duy liên quan đến khám phá ra những ý tưởng mới, những


10

khái niệm mới, hoặc kết hợp những ý tưởng mới hoặc khái niệm đã biết. Sự
sáng tạo của con người thường được đề cập đến như hiện tượng theo đó một
“cái mới” được tạo ra và mang giá trị nhất định phục vụ cho chính nhu cầu
hoạt động thực tiễn của con người. Quan niệm này có ý nghĩa phương pháp
luận và vận dụng trong luận giải tính sáng tạo của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV trong hoạt động NCKH.
Cơ sở của tính sáng tạo lµ trình độ tư duy của con người trong nhận
thức và cải tạo tự nhiờn. Trong đời sống xà hội con ngời muốn duy
trì sự tồn tại của mình cần phải đợc thỏa mÃn những nhu

cầu vật chất và tinh thần nhất định, những nhu cầu y khụng
phi sn cú trong tự nhiên, mà phần lớn là do con ngời sáng tạo ra
trong quỏ trình lao động. C. Mác viết: “lao động sáng tạo ra bản thân con
người” [2, tr.641]. Chỉ cã th«ng qua lao động sản xuất con ngời
mới có thể phỏt trin v tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu của bản thân, duy trì sự tồn tại và phát triển cđa con
ngêi vµ x· héi loµi ngêi.
* Học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV là những học viên được lựa chọn
từ các đơn vị sau khi kết thúc năm học thứ nhất về học tập tại Tiểu đoàn 7 với
các chuyên ngành như Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Lịch sử Đảng Cộng sảng Việt Nam, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tâm lý học
quân sự, Giáo dục học quân sự.
Đặc điểm của đối tượng này là những học viên có mục tiêu đào tạo ra
là giáo viên KHXH&NV có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức
trong sáng, có trình độ văn hóa, sức khỏe tốt, phương pháp, tác phong và có
chun mơn, nghiệp vụ sư phạm của người giáo viên KHXH&NV đáp ứng


11

theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Tốt nghiệp ra trường được
thăng quân hàm sĩ quan, trở thành giáo viên KHXH&NV giảng dạy ở các Nhà
trường trong quân đội.
Họ là những học viên theo các năm học, đến từ nhiều vùng miền trong
cả nước, với nhiều độ tuổi từ 18 đến 27 tuổi, được tuyển chọn từ nhiều nguồn
khác nhau theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Quốc Phòng.
Đây là đặc điểm chi phối khơng nhỏ đến q trình quản lý, giáo dục, rèn
luyện học viên về mọi mặt trong đó có hoạt động NCKH. Phần lớn học viên

trong độ tuổi thanh niên, là lứa tuổi có ưu thế về sức trẻ, về sự nhanh nhạy,
nhiệt tình, nhiều hồi bão, khát vọng, thích tìm tịi khám phá… Họ là những
học viên có tuổi đời trẻ đang trong quá trình rèn luyện, phát triển và hồn
thiện nhân cách người sĩ quan. Đó là những học viên có xu hướng nghề
nghiệp rõ ràng, động cơ thái độ học tập đúng đắn theo mục tiêu, yêu cầu đào
tạo của Nhà trường.
Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT được học tập, rèn
luyện trong môi trường sư phạm quân sự, được tổ chức quản lý chặt chẽ dưới
sự giúp đỡ của giảng viên, cán bộ quản lý có phẩm chất, năng lực tốt. Q
trình đào tạo tại Nhà trường, đội ngũ học viên được biên chế, sắp xếp theo hệ
thống tổ chức chặt chẽ thống nhất từ Tổ, Tiểu đội đến lớp, Đại đội, và được
học tập, rèn luyện theo một quy trình khoa học dựa trên việc chấp hành, thực
hiện các nguyên tắc, chế độ, quy chế Điều lệnh, Điều lệ của Quân đội, của
Nhà trường… là điều kiện cơ bản tạo sự thống nhất về nhận thức và hành
động. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên phần lớn đều là những
hạt nhân tiêu biểu về phẩm chất, năng lực trong quá trình đào tạo được Nhà
trường lựa chọn giữ lại từ các khóa tốt nghiệp hoặc nhận về từ các đơn vị,
nhiều đồng chí có thâm niên, kinh nghiệm về công tác quản lý, huấn luyện,
cùng với sự hăng hái, nhiệt tình trách nhiệm cao trong lãnh đạo, quản lý, chỉ


12

huy đơn vị, giảng dạy theo nội dung, chương trình đào tạo... tạo điều kiện
thuận lợi để hướng dẫn, giúp đỡ học viên, học tập, rèn luyện về mọi mặt,
trong đó có hoạt động NCKH.
Một số đặc điểm nổi bật trên vừa có những điều kiện thuận lợi, vừa
đặt ra những yêu cầu cao trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nói
chung và nâng cao chất lượng NCKH nói riêng, do đó phải phát huy tính
sáng tạo trong NCKH để mỗi học viên có cách tiếp cận tri thức và tiến hành

nghiên cứu đạt hiệu quả cao.
* Đặc trưng cơ bản hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
Với những đặc điểm nổi bật của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV nói trên, cùng thực tiễn hoạt động NCKH của Nhà trường thời
gian qua, hoạt động NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
TSQCT có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ
quan Chính trị ln diễn ra theo kế hoạch cụ thể, có tính
định hướng rõ ràng, phù hợp với đặc trưng hoạt động sư
phạm.
NCKH hướng tới sự nghiên cứu nhằm tìm ra cái mới, tri thức mới phản
ánh đúng vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra, được thực hiện theo một kế
hoạch cụ thể cùng với sự định hướng rõ ràng, phù hợp với đặc trưng hoạt
động sư phạm nhất định từ những lực lượng sư phạm trong Nhà trường.
Tính kế hoạch, tính định hướng trong NCKH được thể hiện ở trên mọi
nội dung, từ việc ấn định thời gian nghiên cứu, xác định nội dung cho đến
thông qua các cấp và nghiệm thu đánh giá kết quả. Tất cả những nội dung đó
đều được thực hiện theo một kế hoạch cụ thể và theo các giai đoạn khác nhau.


13

Trong NCKH sự tích cực của cá nhân, tập thể và những định hướng giá trị của
nhà khoa học có vai trò quan trọng, song kết quả nghiên cứu lại phụ thuộc rất
lớn vào tính kế hoạch, tính định hướng phù hợp với đặc trưng của hoạt động
sư phạm nhất định.
Hai là, hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị diễn ra trong môi

trường sư phạm quân sự đặc thù của Nhà trường, vừa nghiên cứu, vừa phải
thực hiện nhiều hoạt động sư phạm khác.
Theo tâm lý học quân sự quan niệm: Hoạt động qn sự là q trình
người qn nhân tích cực thực hiện những nhiệm vụ, lao động, học tâp, chiến
đấu,v.v...[22, tr.269]. Đặc trưng của hoạt động quân sự là mang ý nghĩa xã hội,
ý nghĩa chính trị, địi hỏi sự phục tùng kỷ luật nghiêm ngặt, sự căng thẳng lớn
về mặt tinh thần và thể lực, sự đổ máu hy sinh... Những nét đặc thù đó của
hoạt động quân sự là do những đặc điểm về điều kiện, phương tiện, tính chất
của chiến tranh quy định. Nó được phản ánh trong nội dung cấu trúc của hoạt
động, in dấu lên tâm lý, ý thức của mỗi quân nhân.
Với đặc trưng của hoạt động qn sự nói chung thì mơi trường sư phạm
quân sự cũng là lĩnh vực xã hội đặc thù, biểu hiện tập trung nhất ở mối quan
hệ giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục, nó ảnh hưởng toàn diện đến
mọi mặt của học viên như tâm lý, tình cảm, thái độ, động cơ trong học tập...
Do đó, học viên hoạt động trong mơi trường sư phạm qn sự ln phải thích
ứng với cường độ hoạt động cao, thực hiện nhiều nhiệm vụ đan xen theo mục
tiêu yêu cầu đào tạo nhất định của Nhà trường. Học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV là học viên cơ bản được học tập rèn luyện trong môi trường sư
phạm quân sự đặc thù của TSQCT, trong quá trình học tập và rèn luyện của
mình mỗi học viên phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ đan xen. Để đáp ứng


14

được yêu cầu đó học viên phải nắm vững quy luật nhận thức, biết vận dụng
vào quá trình học tập và NCKH, phát huy tính sáng tạo của mình trong tiếp
cận nguồn tri thức để tìm ra cái mới, cái tích cực trong nhận thức và cải tạo
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn luôn diễn ra theo trình tự,

theo từng năm học phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Với đặc điểm của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV thì trình độ
tri thức lý luận khoa học xã hội và trình độ tri thức chuyên ngành của mỗi đối
tượng là khác nhau. Hoạt động NCKH là hoạt động địi hỏi trình độ tư duy và
lý luận phong phú, biết khái quát và tổng hợp nhiều tri thức khác nhau của các
môn học, với trình độ nhận thức theo các năm học của học viên ở các mức độ
khác nhau. Cho nên để xác với thực tiễn và phù hợp với trình độ của mỗi học
viên, hoạt động NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT
được thực hiện và triển khai theo theo từng đối tượng học viên và ln theo
trình tự nhất định, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đối với học viên
năm thứ hai thì hoạt động NCKH chỉ là các chuyên đề, các bài tham luận
khoa học, chưa tiếp cận nghiên cứu đề tài.
Bước vào năm học thứ ba thì hoạt động NCKH của học viên được
triển khai đa dạng với nhiều hình thức, cùng với các chuyên đề, các bài tham
luận khoa học thì học viên giai đoạn này có thể tiếp cận nghiên cứu các đề
tài với phương pháp nghiên cứu theo nhóm ba người trên một đề tài và dưới
sự hướng dẫn giảng viên. Cuối khóa học viên phải viết khóa luận, đây là
hình thức nghiên cứu mang tính tổng hợp cao nhất của họ trong quá trình
học tập tại trường.


15

Tiếp cận những đặc trưng hoạt động NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT có thể quan niệm: Hoạt động NCKH của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT là q trình tìm hiểu, quan sát,
thí nghiệm… dựa trên những số liệu, dữ liệu, tài liệu thu thập được để phát
hiện ra bản chất, quy luật chung của sự vật, hiện tượng, tìm ra những kiến
thức mới hoặc tìm ra những ứng dụng kỹ thuật mới, những mơ hình mới có ý
nghĩa thực tiễn dưới sự tổ chức, hướng dẫn và điều khiển của lực lượng giáo

dục để hình thành các tư duy khoa học của người giáo viên đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Như vậy, tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở TSQCT là sự vận dụng tổng hợp tri thức, kĩ năng, kĩ xảo vào
quá trình NCKH để tìm ra cách tiếp cận mới, phương pháp giải quyết các
vấn đề mới làm tăng tính hiệu quả tìm ra tri thức mới góp phần hình thành
tư duy khoa học của người giáo viên đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo
của Nhà trường.
Tính sáng tạo trong NCKH là cái biểu hiện sự phát triển trình độ tri
thức của mỗi chủ thể trong quá trình tìm tịi, nghiên cứu, tích lũy tri thức
trong từng hoạt động, từng giai đoạn của hoạt động NCKH. Tri thức trong các
bài khoa học là những tri thức mới được hình thành trên nền tảng hệ thống tri
thức đã được trang bị của mỗi học viên, với trình độ tri thức của mình họ có
cách viết khoa học khác nhau và có cách sáng tạo khác nhau trong tiếp nhận
và lĩnh hội tri thức.
Chủ thể của hoạt động NCKH bao gồm tổng thể các tổ chức, các lực
lượng, từ hệ thống tổ chức đảng, chỉ huy, cơ quan chức năng, các khoa giáo
viên, đội ngũ giảng viên cho đến cán bộ quản lý học viên và các bộ phận liên
quan. Trong đó, chủ thể lãnh đạo là hệ thống tổ chức từ Đảng ủy Nhà trường
đến các chi bộ; chủ thể quản lý, chỉ đạo là Ban Giám hiệu, các cơ quan chức
năng và đơn vị quản lý học viên; chủ thể thực hiện là đội ngũ giảng viên và


16

lực lượng học viên. Chủ thể là nhân tố năng động, giữ vai trò quyết định chất
lượng, hiệu quả của tồn bộ q trình NCKH.
* Vai trị của tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Thuộc về bản chất của nhận thức, tính sáng tạo có vai trị to lớn đối với

hoạt động NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT. Tính
sáng tạo giúp người học viên điều chỉnh, định hướng và phát triển nhận thức,
hình thành phương pháp tư duy khoa học trong quá trình nghiên cứu, giúp học
viên giải quyết các vấn đề nghiên cứu đạt hiệu quả tối ưu. Có tính sáng tạo
người học sẽ phát huy cao nhất những khả năng, trí tuệ của mình hướng vào
việc chiếm lĩnh kiến thức, nhận thức và phản ánh đúng hiện thực khách quan,
từ đó tạo ra tri thức mới về tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Trong
NCKH, tính sáng tạo làm cho người học viên có được thế giới quan, phương
pháp luận khoa học để giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn đặt ra trong q
trình NCKH.
Bên cạnh đó, tính sáng tạo giúp học viên phát triển tư duy một cách độc
lập, nâng cao năng lực sáng tạo trong giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt
động NCKH, có một phương pháp tư duy khoa học trong tiếp thu, lĩnh hội hệ
thống tri thức đã được trang bị và tạo ra hệ thống các tri thức mới, luôn hướng
tới cái mới, tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách thức mới, khơng dập khn,
khơng dừng lại ở cách thức đã có. Nhờ đó, giúp cho tư duy của học viên trở
nên sâu sắc, linh hoạt, mau lẹ, mềm dẻo và quyết đốn hơn. Đặc biệt, tính
sáng tạo giúp cho học viên trong hoạt động NCKH có thể bám sát được sự
vận động, biến đổi của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó giúp cho học viên đề
ra cách giải quyết mới hiệu quả nhất, tạo ra cơ sở phát triển nhận thức ngày
càng vững chắc để học viên nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, rèn luyện
phong cách, ý chí quyết tâm, hồn thành nhiệm vụ NCKH, góp phần phát huy
tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV.


17

Do vậy, vai trị tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV là rất quan trọng, có tác động rất lớn đến hiệu quả NCKH
của học viên. Tính sáng tạo trong NCKH là cơ sở định hướng, dẫn dắt người

học viên phát huy tính năng động, tích cực, chủ động, rèn luyện phương pháp
tư duy, tạo lập tri thức mới, cách thức giải quyết vấn đề mới hiệu quả, linh
hoạt, sáng tạo, sát thực tiễn và yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.
1.1.2. Thực chất phát huy tính sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính
trị
* Quan niệm phát huy tính sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
Theo từ điển tiếng Việt, phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt, cái
đúng tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [5, tr.1023]. Thực chất là quá
trình tạo ra cái mới, cái tích cực từ những cái cũ, cái tiêu cực vào một mục
đích nhất định. Tuy nhiên, khi tạo ra cái mới phải biết kế thừa cái cũ, trên
cơ sở cái cũ. Đó là sự phát triển theo quy luật phủ định biện chứng của một
vấn đề nghiên cứu.
Phát huy tính sáng tạo là sự tác động tích cực, hiệu quả của các chủ thể
bằng tổng hợp những cách thức, biện pháp nhằm kích thích tư duy, sự sáng
tạo của con người trong nhận thức và giải quyết vấn đề thực tiễn đáp đặt ra.
Đối với học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT phát huy tính sáng
tạo trong NCKH gắn liền với quá trình học tập và nghiên cứu của mỗi học
viên, trực tiếp là gắn với mục tiêu, yêu cầu NCKH của Nhà trường. Phát huy
tính sáng tạo là hoạt động có mục đích nhằm hồn thiện hoạt động trí tuệ của


18

học viên; hình thành, phát triển và phát huy tính sáng tạo phù hợp với yêu cầu
của hoạt động NCKH và yêu cầu thực tiễn nghề nghiệp tương lai.
Phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên

KHXH&NV ở TSQCT là tổng hợp những tác động của các chủ thể giáo dục
nhằm tạo ra sự nhạy bén, linh hoạt trong lĩnh hội tri thức, hạt nhân là phương
pháp và kĩ năng tư duy của học viên; quá trình học viên sáng tạo dựa trên cơ
sở quy luật của quá trình nhận thức để phản ánh ngày càng đầy đủ, sâu sắc
bản chất, quy luật của hiện thực khách quan. Trên cơ sở đó, học viên biết cách
giải quyết vấn đề NCKH một cách sáng tạo và hiệu quả, khơng máy móc, sao
chép. Đồng thời, góp phần nâng cao trình độ nhận thức, hiện thực hóa khả
năng giải quyết những mâu thuẫn trong NCKH bằng cách thức mới mang lại
hiệu quả cao.
Với cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Phát huy tính sáng tạo trong
NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT là sự tác động
một cách tích cực, có hiệu quả của các chủ thể giáo dục bằng tổng hợp
những cách thức, biện pháp nhằm tìm ra cách tiếp cận mới, phương pháp
giải quyết các vấn đề mới, làm tăng hiệu quả của q trình tìm ra tri thức,
góp phần hình thành tư duy khoa học của người giáo viên đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở TSQCT được phát huy toàn diện sẽ làm cho hoạt động NCKH
của mỗi học viên trở nên chủ động, tích cực và hiệu quả hơn, từ đó tạo ra
niềm đam mê, sự nhiệt tình đối với NCKH. Đây là một khâu của quá trình
đào tạo, nhằm phát huy cao nhất nhân tố chủ quan của học viên. Đó là q
trình khơi dậy, phát hiện, bồi dưỡng, làm cho các yếu tố cấu thành năng lực
sáng tạo: tri thức, tình cảm, ý chí, bản lĩnh, động cơ, thái độ, phương pháp tư


19

duy và năng lực NCKH của học viên ngày càng tăng lên, đồng thời làm
chuyển hố những yếu tố đó theo hướng ngày càng phát triển.
Với mục tiêu yêu cầu đào tạo đã xác định, NCKH là một tiêu chí gắn

liền với quá trình đào tạo. Đây là quá hoạt động có tổ chức, có mục đích nhằm
hồn thiện hoạt động trí tuệ của học viên phù hợp với yêu cầu của nghề
nghiệp tương lai; là tổng hợp các cách thức sư phạm để tạo ra sự thay đổi về
chất trong phương pháp tác động và lĩnh hội tri thức, mà hạt nhân là phương
pháp tư duy. Từ đó, giúp học viên biết cách giải quyết nhiệm vụ NCKH một
cách sáng tạo, hiệu quả, không lệ thuộc vào cách thức, phương án có sẵn.
Mục đích phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT là giúp cho người học phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong lĩnh hội tri thức và rèn luyện phương pháp tư duy khoa
học. Từ đó biết vận dụng hệ thống tri thức, kinh nghiệm vào giải quyết các
vấn đề thực tiễn đặt ra, góp phần hình thành nhân cách người sĩ quan, người
giáo viên KHXH&NV theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở TSQCT là một quá trình thống nhất, có chủ thể và đối tượng
phát huy. Tuy nhiên, việc phân chia chủ thể và đối tượng phát huy chỉ mang
tính chất tương đối, vì giữa chủ thể và đối tượng phát huy có mối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong những hoàn
cảnh nhất định đối tượng sẽ chuyển thành chủ thể và ngược lại.
Chủ thể phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT bao gồm tất cả các chủ thể giáo dục trong Nhà
trường. Chủ thể ln mang tính năng động, sáng tạo và giữ vai trò quyết định
đến chất lượng và hiệu quả của tồn bộ q trình này.


20

Đối tượng phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo
giáo viên KHXH&NV ở TSQCT vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá
trình phát huy. Với tư cách là khách thể, đối tượng phát huy chịu sự điều
khiển, tiếp nhận những tác động của chủ thể phát huy và chuyển hố những

tác động đó thành động lực bên trong cũng như chịu sự chi phối bởi mục đích,
nội dung, phương pháp và hình thức phát huy. Với tư cách là chủ thể phát huy,
họ có vai trị tích cực, năng động, độc lập và sáng tạo trong tiếp nhận, xử lý
những tác động của quá trình phát huy, trực tiếp tạo nên chất lượng và hiệu
quả của q trình đó. Như vậy, chủ thể trực tiếp, xét đến cùng quyết định chất
lượng và hiệu quả phát huy tính sáng tạo trong NCKH chính là học viên. Họ
vừa là đối tượng phát huy, vừa là chủ thể tự phát huy; biến quá trình phát huy
thành quá trình tự phát huy dưới sự dẫn dắt, định hướng của các lực lượng
giáo dục ở Nhà trường.
Nội dung phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT phải bảo đảm cả về tri thức, phương pháp và kỹ
năng tư duy. Do đó, cần định hướng tư duy cho học viên, bồi dưỡng các kỹ
năng nghe, ghi, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cách thức
trình bày, diễn đạt các vấn đề học tập, nghiên cứu theo hướng sáng tạo. Nội
dung phát huy vai trị tính sáng tạo trong NCKH của học viên: tri thức, tình
cảm, ý chí, bản lĩnh, phương pháp tư duy, tư chất cá nhân cùng thuộc tính với
tính sáng tạo, tính linh hoạt, tính độc đáo, tính nhuần nhuyễn, tính nhạy cảm
vấn đề và tính tích cực. Nội dung phát huy là sự cụ thể hóa mục tiêu, yêu cầu
phát huy đã xác định, nó là cơ sở để chủ thể và đối tượng phát huy sử dụng
vào hoạt động truyền thụ, lĩnh hội trong suốt quá trình phát huy.
Chất lượng, hiệu quả của quá trình phát huy tính sáng tạo trong NCKH
của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT còn phụ thuộc vào việc


21

sử dụng các phương pháp và hình thức phát huy. Phương pháp và hình thức
phát huy tính sáng tạo hết sức phong phú và đa dạng. Nó có thể được thực
hiện thông qua lồng ghép với nội dung các môn học và hình thức dạy học.
Phải căn cứ vào thực tiễn cụ thể mà chủ thể và đối tượng phát huy sử dụng

các phương pháp và hình thức phát huy cho phù hợp.
Như vậy, phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT là một quá trình biện chứng nhằm tìm ra cái mới
trong NCKH của học viên ở Nhà trường. Cái mới trong NCKH là cái có giá
trị lý luận và thực tiễn sâu sắc phù hợp với đặc điểm giáo dục, đào tạo của
Nhà trường, là những luận cứ khoa học góp phần nâng cao chất lượng NCKH
và giáo dục đào tạo của Nhà trường. Để tìm ra cái mới đó ngoài sự tác động
của các nhân tố khách quan của quá trình đào tạo, sự phấn đấu nỗ lực của học
viên, còn phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức, hành động của các chủ thể khác
trong hệ thống giáo dục đào tạo của Nhà trường. Phát huy tính sáng tạo trong
NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT thực chất là quá
trình chủ thể phát huy phải tìm ra những động lực bên trong và những điều
kiện thúc đẩy hành động của các chủ thể một cách tích cực, tự giác, chủ động
và sáng tạo; đồng thời, là quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
chủ thể phát huy và đối tượng được phát huy. Mỗi chủ thể, mỗi hoạt động có
vị trí, vai trị khác nhau nhưng tác động đan xen, hồ quyện và thúc đẩy lẫn
nhau, không được xem nhẹ bất cứ một chủ thể, một hoạt động nào.
* Tiêu chí cơ bản đánh giá q trình phát huy tính sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Để xác định các biện pháp tác động hiệu quả tới q trình phát huy tính
sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT
cần phải dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:


22

Một là, dựa vào ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phát huy
tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị ngày một nâng cao.

Ý thức, tinh thần trách nhiệm là tiêu chí cơ bản đánh giá năng lực lãnh
đạo, tổ chức thực hiện của các chủ thể với phát huy tính sáng tạo trong NCKH
của học viên. Biểu hiện cụ thể ở năng lực lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám
hiệu Nhà trường, các cơ quan chức năng, khoa giáo viên và đơn vị quản lý
học viên với hoạt động phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên. Khi
ý thức, tinh thần trách nhiệm của các chủ được nâng cao là yếu tố quan trọng
để họ định ra nội dung, chương trình nghiên cứu, kế hoạch tổ chức thực hiện
phù hợp với từng đối tượng cụ thể, nâng cao chất lượng lãnh đạo, quản lý, đáp
ứng yêu cầu phát huy; đồng thời, các chủ thể xây dựng được mơi trường
nghiên cứu tích cực, dân chủ, bình đẳng, công bằng trong hoạt động NCKH
để hướng tới phát huy tính sáng tạo trong hoạt động NCKH của học viên.
Hai là, dựa vào thái độ, động cơ, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học viên trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Thái độ, động cơ, tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong NCKH là
những biểu hiện cụ thể và thiết thực của học viên, tiêu chí cơ bản và quan
trọng để đánh giá tính sáng tạo. Khi học viên nhận thức được vai trị to lớn
của tính sáng tạo là cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển động cơ, ý
chí quyết tâm, nâng cao bản lĩnh, xây dựng ý thức trách nhiệm trong NCKH.
Mặt khác, nó cịn là động lực khơi dậy và phát triển tiềm năng cá nhân, củng
cố và phát triển phương pháp, kỹ năng tư duy, tạo cơ sở khoa học để học viên
vững vàng, tự tin, chủ động trước mọi vấn đề nghiên cứu, khắc phục được
những yếu tố thụ động, ngại tiếp cận vấn đề nghiên cứu, từ đó góp phần phát
huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên.


23

Ba là, dựa vào hệ thống tri thức, kết quả nghiên cứu của học viên trong
quá trình nghiên cứu khoa học mà họ đã lĩnh hội được.
Tri thức có vai trò rất quan trọng, là nguyên liệu chủ yếu trong tư duy

và điều kiện cần thiết cho hoạt động sáng tạo của học viên. Do đó, để đánh
giá việc phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên cần dựa vào khối
lượng tri thức mà học viên đã lĩnh hội được trong q trình nghiên cứu.
Người học chỉ có thể say mê, tích cực nghiên cứu khi họ đã tự tin vào vốn tri
thức của mình. Trong đó nền tảng là tri thức về thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tri thức chuyên
ngành và các tri thức quân sự khác. Tính sáng tạo khơng phải là tính cách của
mỗi người bộc lộ ra bên ngoài mà là khả năng ẩn chứa bên trong. Do vậy, khi
học viên nắm vững hệ thống tri thức của các mơn học thì cũng là q trình
làm cho tính sáng tạo được bộc lộ ra trong quá trình học tập, NCKH, và giải
quyết thực tiễn hoạt động quân sự đặt ra.
1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát huy tính sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
1.2.1. Phát huy tính sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã
hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị phụ thuộc
vào nội dung, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của các
chủ thể trong hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên
Kết quả phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở TSQCT phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
cơ bản, cốt lỗi nhất là nội dung, phương pháp và đặc điểm của các chủ thể
trong hoạt động NCKH. Sự phụ thuộc đó được biểu hiện tập trung trên các
nội dung cơ bản sau:


24

Thứ nhất, nội dung nghiên cứu có mối quan hệ chặt chẽ với phát huy
tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của học viên.

Hoạt động NCKH nói chung cũng như hoạt động NCKH của học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV nói riêng đó là tồn bộ các chủ thể thể nghiên
cứu tác động đến đối tượng nghiên cứu nhằm mục đích tạo ra cái mới, tri thức
mới, góp phần hình thành tư duy khoa học của người giáo viên, đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu đào tạo đã xác định, nội dung chương trình phù hợp với người
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Nhà trường.
Nội dung NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở TSQCT
là sự phản ánh thực tiễn của xã hội, sự nghiệp xây dựng quân đội và Nhà
trường trong thời kỳ mới. Nội dung nghiên cứu có vai trị to lớn để sản phẩm
nghiên cứu phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo và đáp ứng được tính cấp
thiết trong thực tiễn. Hệ thống nội dung vừa đảm bảo tính đảng, tính khoa
học, vừa đảm bảo tính tồn diện, cơ bản, hệ thống, thống nhất và chuyên sâu.
Nội dung phù hợp với trình độ và quy luật của quá trình nhận thức sẽ tạo điều
kiện cho học viên lĩnh hội kiến thức có hiệu quả, phát huy được tính sáng tạo
trong NCKH. Ngược lại, nội dung khơng mang tính cấp thiết, khơng phù hợp
với quy luật nhận thức sẽ làm cho người nghiên cứu khó khăn trong lĩnh hội
tri thức và khơng phát huy được tính sáng tạo trong NCKH.
Ở TSQCT nội dung nghiên cứu được xác định một cách toàn diện, chú
trọng hướng NCKH vào làm rõ vấn đề lý luận - thực tiễn về xây dựng quân
đội và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. [7, tr.6]. Trong đó, nội dung nghiên
cứu có tính hiện đại hóa, bám sát thực tiễn Nhà trường, đơn vị, qn đội và
ln có yêu cầu cao sẽ lôi cuốn người nghiên cứu, đưa họ vào tình huống có
vấn đề, buộc họ phải tích cực tư duy, đào sâu suy nghĩ, thường xuyên đổi mới


25

phương pháp, cách thức tư duy nhằm giải quyết mâu thuẫn nhận thức, qua đó
tính sáng tạo của họ được củng cố, phát triển, củng cố và hoàn thiện.
Thứ hai, phát huy tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của học

viên còn phụ thuộc vào phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp là cách thức, con đường, biện pháp để thực hiện hoạt
động đạt hiệu quả cao nhất. Tính khoa học, tính lơgíc chặt chẽ và tính thuyết
phục của bài viết khoa học cũng như sự mạch lạc, sáng tạo trong tư duy và
ngơn ngữ đạt đến độ chính xác cao về diễn đạt, văn phong trong sáng, ngắn
gọn, súc tích, dễ hiểu và có sức thuyết phục cao phụ thuộc rất lớn vào
phương pháp. Trong nghiên cứu học viên phải có khả năng huy động được
mọi trí tuệ, tính sáng tạo của mình; biết vận dụng tổng hợp các phương pháp
từ trực quan đến tư duy, tập trung những phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp. Nếu có
được phương pháp khoa học thì vai trị tính sáng tạo trong NCKH của học
viên được phát huy.
Như vậy, phương pháp nghiên cứu có ảnh hưởng rất lớn đến phát huy
tính sáng tạo của học viên, từng bước hình thành và phát triển thế giới quan,
phương pháp luận Mácxít, là cơ sở quan trọng trong nhận thức và giải quyết
đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra thông qua hệ thống kiến thức khoa học
đã được truyền thụ. Thực tiễn cho thấy, phương pháp nghiên cứu đúng đắn,
khoa học tạo tiền đề phát huy tính sáng tạo của học viên trong hoạt động
NCKH. Ngược lại, nếu phương pháp không khoa học hay khơng phù hợp sẽ
dẫn đến tình trạng mị mẫm, thụ động. Đó là những khó khăn, trở ngại lớn đến
q trình phát huy tính sáng tạo trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV, không đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra.


×