Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tac phẩm kinh điển vấn đề cán bộ trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc – ý nghĩa đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ đảng NDCM lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.46 KB, 28 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Năm 1947, giữa lúc phải tập trung chuẩn bị chiến dịch Thu Đông, nhằm
đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Cuốn sách có 6
phần: Phê bình và sửa chữa; Mấy điều kinh nghiệm; Tư cách và đạo đức
cách mạng; Vấn đề cán bộ; Cách lãnh đạo; Chống thói ba hoa. Cuốn sách đã
chỉ dẫn, động viên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, của quân, dân ta góp
phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện giành thắng lợi vẻ vang. Ngày
nay, trước tình hình phát triển của nước CHDCNN Lào, yêu cầu học tập
những vấn đề về xây dựng đảng trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc ngày
càng trở thành cấp thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên, với tất cả các cơ quan,
đơn vị, sự nghiệp, cán bộ đảng viên nhân dân cách mạng Lào. Tìm hiểu,
nghiên cứu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, làm theo những điều chỉ dẫn của
HCM trong mỗi câu, mỗi ý của tác phẩm này là việc làm rất bổ ích, thiết thực
hiện nay. Mỗi câu, mỗi ý nói lên những việc cụ thể cần làm và nên làm như
thế nào để công tác của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị hoàn thành, đi đến
thắng lợi. Với cách viết ngắn gọn, xúc tích, mỗi trang, mỗi dịng đều tốt lên
sự chân tình, thẳng thắn, gần gũi, ai cũng học được, làm theo được. Đây là
cuốn sách giáo khoa có nội dung sâu sắc, toàn diện về giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ cách mạng của Đảng.
Nhằm mục đích làm rõ hơn những nội dung tư tưởng của HCM về cán
bộ đảng viên và góp phần vận dụng sáng tạo vào thực tế công tác đào tạo bồi
dưỡng phát triển cán bộ của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào em xin chọn đề
tài “ Vấn Đề Cán Bộ Trong Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc – Ý Nghĩa
Đối Với Việc Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Đảng NDCM Lào”

làm đề tài


nghiên cứu khoa học cho học phần giới thiệu các tác phẩm kinh điển của Mac
– Lênnin, Hồ Chí Minh về Xây Dựng Đảng.

1


II.Vấn Đề Cán Bộ Trong Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
1.1 Nội dung của tác phẩm sửa đổi lối làm việc
1.1.1 Phê bình và sửa chữa
Người nêu mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phê bình và tự
phê bình. Phải mau phê bình và sửa chữa để khắc phục khuyết điểm, vì "có
tẩy sạch khuyết điểm, cơng việc mới có tiến bộ". Người chỉ ra những căn
bệnh mà mỗi cán bộ, đảng viên phải khắc phục, sửa chữa (chủ quan, hẹp hòi,
ba hoa…). Người chỉ ra cách phê bình: “phê bình mình cũng như phê bình
người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải
vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm… Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay,
đâm thọc. Phê bình việc làm chứ khơng phải phê bình người".
Bệnh chủ quan là chứng bệnh kém lý luận hoặc lý luận sng. “Vì kém
lý luận, cho nên gặp mọi việc khơng biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng,
xử trí cho khéo. Kết quả thường thất bại…". Vì vậy, “Mỗi cán bộ, mỗi đảng
viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải
chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận sng".
Bệnh hẹp hịi "rất nguy hiểm… trong thì ngăn trở Đảng thống nhất và
đồn kết; ngồi thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ
nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham
danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v… đều do bệnh hẹp
hịi mà ra!". Đó là những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, khơng
thấy lợi ích của tồn thể. Vì ham danh vọng và địa vị cho nên khi phụ trách
một bộ phận nào, thì lơi người này, kéo người khác, ưa thì kéo vào, khơng ưa
thì tìm cách bẩy ra…".

Người nhấn mạnh "Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình
ráo riết và phải lấy lịng nhân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình
đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đơi với nhau… Mỗi cán bộ, mỗi đảng
viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày
phải rửa mặt”.
2


1.1.2 Mấy điều kinh nghiệm.
Hồ Chí Minh đã khái quát một số kinh nghiệm quan trọng, phân tích nội
dung, dẫn chứng thực tế trong hoạt động phong phú của cán bộ, đảng viên và
nhân dân qua các phong trào ở các địa phương, đơn vị.
Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong, Người chỉ ra nguyên lý: “Muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Có chính sách đúng, phải có cách 1àm đúng, phù hợp tình hình, yêu cầu
thực tế mới đạt kết quả. Phải làm “kiểu mẫu” để rút kinh nghiệm, không làm
tràn lan, chủ quan, tham làm nhanh, “tham làm nhiều trong một lúc”.
Phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm công việc đã làm một cách tường tận,
gốc rễ; tỉ mỉ, cẩn thận, toàn diện trước khi thực hiện công tác mới.
Phải nâng cao sáng kiến và lịng hăng hái, tính sáng tạo, dân chủ trong
công tác của cán bộ, đảng viên. Dân chủ, hăng hái, sáng kiến ln gắn chặt
với nhau, vì “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái
và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái
làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”.
Phải xác định trách nhiệm trước công tác, nhiệm vụ được giao. Khi thực
hiện bất kỳ nhiệm vụ gì cũng phải trả lời câu hỏi “Vì ai mà làm? Đối với ai
phụ trách?". Phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, ln vì lợi ích của nhân
dân, vận động nhân dân tham gia cơng tác "tìm đủ cách giải thích cho dân
hiểu”, khơng “làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức".

Phải sâu sát quần chúng, hợp quần chúng. Tránh bệnh hình thức, xa rời
nhân dân. Thực hiện phương châm “Từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi
quần chúng”. Mọi việc làm phải hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt,
trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lịng ham, ý muốn, tình hình thiết
thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như
thế, mới có thể kéo được quần chúng”.
1.1.3 Tư cách và đạo đức cách mạng.
Tư cách của Đảng chân chính cách mạng.
3


Hồ Chí Minh đã nêu lên 12 tiêu chí của một Đảng cách mạng chân
chính, bao gồm: Đảng khơng phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó
phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng; Hiểu biết lý luận cách mạng gắn với thực hành; Liên
hợp chặt chẽ với quần chúng; Nêu cao tính cách mạng và "lại phải khéo dùng
những cách thức thi hành cho hoạt bát”; Đảng khơng che giấu những khuyết
điểm của mình, khơng sợ phê bình; Đảng phải chọn những người rất trung
thành và rất hăng hái, đồn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo; Đảng
phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngồi; Đảng phải giữ kỷ luật
rất nghiêm từ trên xuống dưới; Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết
và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Người đã khẳng định
bằng hai câu thơ lục bát: “Muốn cho Đảng được vững bền, Mười hai điều đó
chớ quên điều nào".
Phận sự của đảng viên và cán bộ.
Người cán bộ, đảng viên phải “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết… vô luận
lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra
trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là
"tính Đảng".
Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng". Người khái quát và

đi sâu phân tích năm chữ Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm.
"Nhân là thật thà thương u, hết lịng giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Nghĩa là ngay thẳng, khơng có tư tâm, khơng làm việc bậy, khơng có
việc gì phải giấu Đảng…
Trí vì khơng có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch,
sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng…
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm
có gan sửa chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại vinh
hoa, phú q khơng chính đáng.

4


Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Khơng tham sung
sướng. Khơng ham người tâng bốc mình… Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ…".
Người cán bộ, đảng viên "phải giữ kỷ luật". Kỷ luật của Đảng là kỷ luật
tự giác. “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sĩ tiên phong. Mà đó là tự
giác, lịng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên”.
Đối với những người khơng chịu nổi khó nhọc, khơng chịu nổi kỷ luật
nghiêm khắc của Đảng mà xin ra khỏi Đảng thì Đảng vẫn bằng lòng để họ ra.
Đảng chỉ yêu cầu họ một điều là: họ thề khơng lộ bí mật của Đảng, khơng
phản Đảng, khơng phá hoại Đảng. Như thế thì Đảng vẫn giữ cảm tình thân
thiện với họ".
Phải khắc phục “những khuyết điểm, sai lầm”. Đó là “bệnh tham lam”,
“Bệnh lười biếng", "bệnh kiêu ngạo", “bệnh hiếu danh", "thiếu kỷ luật”, “óc
hẹp hịi", “óc địa phương", “óc lãnh tụ”, “bệnh hữu danh vô thực", "bệnh kéo
bè, kéo cánh", “bệnh cận thị", “bệnh cá nhân”, “bệnh tị nạnh", “bệnh xu nịnh,
a dua”. Người nhắc nhở về bệnh sợ tự phê bình. Người đã nói rất khảng khái":
“… Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một

Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”.
Phải bình tĩnh tìm ra nguyên nhân sai lầm và cách sửa chữa khuyết
điểm. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Đảng ta khơng phải trên trời sa xuống. Nó ở trong
xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần
tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu
ngạo, xa hoa v v… Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng". Người
phê phán thái độ đối với người có khuyết điểm, sai lầm như đối với hổ mang,
thuồng luồng… đòi đuổi ra khỏi Đảng ngay…, làm cho họ chán nản, thất

5


vọng. Hoặc họ khơng làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ
những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh chủ quan”.
Tư cách và bổn phận của đảng viên. Hồ Chí Minh viết về tiêu chuẩn
người đảng viên, thể thức giới thiệu, kết nạp người vào Đảng, rèn luyện, giáo
dục đảng viên mới. Người chỉ rõ bổn phận của người đảng viên là "Suốt đời
tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết,
lên trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; kiên quyết thi hành
những nghị quyết của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong
mọi việc; cố gắng học tập chính trị, qn sự, văn hóa. Phải gần gũi quần
chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng”.
Phải rèn 1uyện tính đảng. Hồ Chí Minh khẳng định: "Mỗi cán bộ, đảng
viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì
cũng khơng làm nên”. Tính đảng là: “Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc
lên trên hết; việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi
đến chốn; lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. Đảng

phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những
nghị quyết của Đảng. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên
quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau
lưng". Phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước
hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm
của mình".
1.1.4 Vấn đề cán bộ.
Với tư duy biện chứng, cách nhìn tồn diện, Hồ Chí Minh đã xác định
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Người chỉ ra những
hạn chế trong công tác huấn luyện cán bộ, nêu lên nội dung huấn luyện cần
tập trung: “Huấn luyện nghề nghiệp, Huấn luyện chính trị, Huấn luyện văn
hóa; Huấn luyện lý luận. Học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh
nghiệm thực tế. Nên chia ra khoa học chính trị, khoa học kinh tế, khoa học
6


lịch sử… tổ chức từng ban cao cấp hoặc trung cấp… Vô luận công tác môn
nào, lớp huấn luyện nào, đều phải tuyệt đối chống bệnh chủ quan, bệnh hẹp
hòi, bệnh ba hoa".
Xuất phát từ luận đề "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém” Hồ Chí Minh đã xác định “Đảng phải ni dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Vấn đề cán bộ là vấn đề
rất trọng yếu, rất cần kíp, Đảng phải làm như thế nào? Người đã nêu lên 6
việc phải làm: Phải biết rõ cán bộ; phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng;
phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải giúp cán bộ
cho đúng; phải giữ gìn cán bộ.
Lựa chọn cán bộ có 4 tiêu chí:
Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong
lúc đấu tranh.

Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn
luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán
bộ đó là người lãnh đạo của họ.
Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hồn
cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và khơng có sáng kiến thì khơng phải người lãnh đạo…
Những người ln giữ đúng kỷ luật.
Có 5 cách đối với cán bộ:
Chỉ đạo - Thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng
khơng sợ.
Nâng cao - Ln ln tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm
việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng tiến bộ.
Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường
kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm.
Cải tạo - Khi họ sai lầm thì dùng cách “thuyết phục" giúp cho họ sửa chữa.
Không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là “cơ hội chủ nghĩa đã cảnh
cáo", đã “tạm khai trừ". Những cách quá đáng như thế đều không đúng.
7


Giúp đỡ - Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc.
Mấy điểm lớn trong chính sách cán bộ. Đó là những vấn đề rất hệ trọng.
Cần chú ý mấy việc: “Hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc cán
bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ".
Hiểu biết cán bộ: Cần biết những chứng bệnh người ta hay sai phạm để
hiểu cán bộ: Tự cao, tự đại; ưa người ta nịnh mình; Do lịng yêu, ghét của
mình mà đối với người; Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lấp
vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh đã nêu phương pháp:
“Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người,
trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì

cách xem xét cán bộ càng đúng.
Xem xét cán bộ không chỉ xem xét ngồi mặt mà cịn phải xem tính chất
của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem tồn cả lịch sử, tồn cả
cơng việc của họ”.
Khéo dùng cán bộ. Cần tránh những chứng bệnh:
"Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc
chắn hơn người ngoài.
"Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người
chính trực.
“Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người
tính tình khơng hợp với mình".
"Cách dùng cán bộ đúng là phải có lịng độ lượng vĩ đại, chí cơng vơ tư,
khơng có thành kiến mới khơng bỏ rơi cán bộ. Phải có tinh thần rộng rãi, gần
gũi người mình khơng ưa. Phải chịu khó dạy bảo, nâng đỡ người kém. Phải
sáng suốt, tránh bị bọn “vu vơ" bao vây, xa cách cán bộ tốt. Phải có thái độ
vui vẻ, thân mật để gần gũi đồng chí.
Phải thực hành những cơng việc cụ thể: Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả
gan đề ra ý kiến, khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc; khơng
nên tự tơn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới”.
8


Phải có gan cất nhắc cán bộ - "Cất nhắc cán bộ, phải vì cơng tác, tài
năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, cơng việc nhất
định chạy… Nếu vì lịng u ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định khơng
ai phục, mà gây nên mối lơi thơi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, với
nhân dân… Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng
mực”.
Yêu thương cán bộ - Trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ.
Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ. Nhưng thương yêu không phải là vỗ

về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.
Đối với những cán bộ sai lầm - Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa rất biện
chứng và thấu tình "Trừ những người cố ý phá hoại, ngồi ra khơng ai cố ý sai
lầm, sai lầm là vì khơng hiểu, khơng biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta
quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà cơng kích họ. Trái lại, ta
phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm
như thế, sẽ có hại đến công việc như thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa? Tóm
lại, phải phê bình cho đúng”. Người đã nêu lên rất thẳng thắn “Chúng ta
khơng sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không cố gắng sửa chữa sai lầm
và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo khơng biết tìm cách đúng
để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm".
1.1.5 Cách lãnh đạo.
Hồ Chí Minh đã “chỉ vẽ” rất cụ thể cách thức và nội dung công việc của
người cán bộ.
Lãnh đạo và kiểm soát.
Lãnh đạo đúng nghĩa là.
“- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.
- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, khơng có dân chúng
giúp sức thì khơng xong.
- Phải tổ chức sự kiểm sốt, mà muốn kiểm sốt đúng thì cũng phải có
quần chúng giúp mới được…
9


"Chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc
lãnh đạo… Phải chú ý với những người “cơng thần cách mạng”, “những
người nói sng”. Chống bệnh quan liêu, bàn giấy.
Vì ba điều mà cần phải có kiểm sốt: 1. Có kiểm sốt như thế mới biết rõ
cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và

nghị quyết. Kiểm sốt có hai cách: từ trên xuống và từ dưới lên.
Lãnh đạo thế nào?
“Có hai cách lãnh đạo: Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo
riêng; Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
… Bất kỳ việc gì, nếu khơng có chính sách chung, kêu gọi chung, khơng
thể động viên khắp quần chúng… Bất kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn Đảng),
người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo.
Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hệ với quần chúng, cơng việc
mới thành.
Vì vậy, bất kỳ cơ quan nào, bộ đội nào, cũng cần phải chọn một nhóm
người hăng hái, trung thành, có năng lực, giữ kỷ luật, đồn kết họ thành nhóm
trung kiên lãnh đạo.
Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng".
Học hỏi quần chúng nhưng khơng theo đi quần chúng.
Hồ Chí Minh xác định "Dân chúng rất khơn khéo, rất anh hùng. Vì vậy,
chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng.
… Mỗi khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của chúng ta,
phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện
vọng của dân chúng".
Phải tránh cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh, ép buộc dân chúng. Phải
“làm theo cách của quần chúng". Phải thực hành theo nguyên tắc:

10


- Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng.
- Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm
cách giải quyết.

- Chớ khư khư giữ theo "sáo cũ”. Ln ln phải theo tình hình thiết
thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng,
theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tùy hồn cảnh thiết thực
nơi đó và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
- Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo
tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần
chúng.
"Phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Trước kia, việc gì cũng từ “trên
dội xuống". Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên".
1.1.6 Chống thói ba hoa.
Bệnh ba hoa là “bạn đường" của bệnh chủ quan và bệnh hẹp hịi. “Vì
thói ba hoa còn, tức là bệnh chủ quan và bệnh hẹp hịi cũng chưa khỏi hẳn".
Thói ba hoa là gì?
Người đã chỉ ra biểu hiện của thói ba hoa.
Dài dịng, rỗng tuếch. Nói dài, viết dài mà khơng có nội dung.
Có thói "cầu kỳ". Là cách “dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo
cách Tây" quần chúng khơng hiểu.
Khó khăn, lúng túng. Không chịu học tập, thiếu chuẩn bị, khi nói, khi
viết quần chúng khơng hiểu.
Báo cáo lơng bơng. Báo cáo giả dối. Thành cơng ít, thì st ra nhiều.
Cịn khuyết điểm thì giấu đi… Hoặc là báo cáo chậm trễ. Không nêu rõ nội
dung, vấn đề một cách rõ ràng, có hệ thống.
Lụp chụp, cẩu thả. Phải tránh bệnh này bằng cách: “Khơng biết rõ, chớ
nói, chớ viết. Khi khơng có gì cần nói, khơng có gì cần viết, chớ nói, chớ viết
càn”.
11


Bệnh theo "sáo cũ". Do làm việc thiếu chuẩn bị, nội dung mênh mơng,
khơng thiết thực, cơng thức máy móc, nói, viết những từ hoa mỹ, quần chúng

khơng hiểu, khơng đem lại kết quả.
Nói khơng ai hiểu. Nội dung tun truyền, khẩu hiệu của Đảng “viết
một cách cao xa, màu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà
cả cán bộ cũng khơng hiểu”.
Bệnh hay nói chữ. Là bệnh ham dùng chữ nước ngồi nhưng khơng biết
rõ nghĩa, "dùng không đúng mà cũng ham dùng, cái hại càng to”.
Cách chữa thói ba hoa.
Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói như cách giảng sách, phải
ln ln dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu.Khi
viết, khi nói, phải ln ln làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho
quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm theo lời kêu gọi của mình.
Bao giờ cũng phải tự hỏi: Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Chưa điều tra,
chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.Trước khi nói, phải nghĩ cho
chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: “Chó ba khoanh mới nằm.
Người ba năm mới nói".
2.Vấn đề cán bộ trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập ĐCS Pháp
năm 1920; là người sáng lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban
Phương Đơng Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của ĐCS Việt Nam,
suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ
kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp vẻ vang
của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

12


Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của

bộ máy Đảng, Nhà nước, đồn thể nhân dân, “là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp
cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ
là do Đảng, Nnước, đồn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như
nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.Về vai trị của cán bộ, Hồ
Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc
thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy,
chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh t nhất của xã hội, có vị
trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trị cực kỳ quan trọng
của hệ thống chính trị nước ta.Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về
vị trí, vai trị của cán bộ là: cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
thật trung thành, là trâu ngựa của nhân dân.
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những
cơng tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trị quyết định thành cơng
tới tồn bộ cơng tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi
nào làm tốt cơng tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi
và giành được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình,
Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn,
huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở
thành người cộng sản, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh
đã tích cực chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
ĐCS Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là
tìm kiếm những thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn
luyện họ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những
người ưu tú hoặc có nhiều triển vọng tốt vào đạo tại các trường của Trung
13



Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi thành lập ĐCS Việt Nam đầu năm
1930 trở đi, Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng
cán bộ. Chính do như vậy, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng
Yêu cầu về tư cách. Có ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao
qt tồn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên
hết và lên trước hết, “ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng khơng
có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân
dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hố, chính trị của
nhân dân. Vì tồn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”. Hồ Chí
Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của
Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của tồn thể.
Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích
cá nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng,
của cách mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích
của Đảng, nhưng cũng có lúc khơng, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu
gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì
phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến
tính mệnh của mình cũng phải vui lịng hy sinh cho Đảng”; đảng viên và cán
bộ “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô

14


luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích

của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm
gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều
danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là
tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của
văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ
khơng có một đời tư trong sáng thì sẽ khơng thuyết phục, vận động được nhân
dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngồi việc phải hồn
thành tốt cơng việc chung của Đảng đã được phân cơng, lại phải cịn là một
thành viên tốt của gia đình, là một người cơng dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư
và ngồi xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung
quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thơn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu.Đây
cũng chính là quan điểm xuất phát, một u cầu có tính chất tiên quyết đối với
cán bộ cách mạng. Khơng ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng khơng phải
là một tổ chức để làm quan phát tài”, người cán bộ cách mạng không phải là
người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ
là để “thăng quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến
“một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu
cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ
phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng”. Trung thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải
hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong
thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng
15



đất nước; khi gặp thắng lợi thì khơng kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp
khó khăn, gian khổ, trở ngại thì khơng hoang mang, dao động; “vơ luận hồn
cảnh thế nào, lịng họ cũng khơng thay đổi”; phải ln ln có ý thức và hành
động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết
lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân,
dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong
cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết
định đó phải đúng đắn, cịn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân
ra sức thực hiện thắng lợi. Khơng như thế thì đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên
giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối
với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm
quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán
bộ, bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân u, dân kính,
dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu
dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có
hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ;
phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn ln học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học
suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa
và học mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận
dụng vào trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho
16



cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được
nữa, rằng, chỉ có lịng nhiệt tình khơng thơi thì chưa đủ, mà cịn phải có tri
thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn
còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí
Minh học khơng phải là để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách
cơng tác tốt, phải phịng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu,
đại khái, ham chuộng hình thức, phơ trương cho oai, làm đại khái, qua loa.
Phải sâu sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ
bản, không cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà khơng nhìn xa trơng rộng được), có
đầu óc quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, khơng như thế thì đầy túi
quần thơng cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.
Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật
Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng
như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta khơng phải trên trời sa
xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác –
Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội
tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.
Riêng về phong cách cơng tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới
các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự
ưu tiên cơng việc; Thường xun tổng kết cơng tác; Phải ln ln có sáng
kiến; Sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; Phải kiểm
tra, kiểm soát chặt chẽ; Có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
17


Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ của Hồ Chí Minh rất rộng, nhưng có

những vấn đề lớn cơ bản sau.
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Đây
là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu
không đánh giá đúng cán bộ và tình hình cơng tác cán bộ thì khơng thể đề ra
chính sách cán bộ một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi
lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì
những người yếu kém sẽ bị lịi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình
cơng tác cán bộ phải có những u cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá
đúng cán bộ phải có có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa
phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn tồn cơng minh, khách quan.
u cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất lượng
của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này
vào đo chất lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.
Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết
mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm
của mình, để “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”,
như thế mới không phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta
nịnh mình; 3. Do lịng u, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái
khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí
Minh cho rằng, nếu phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm cơng tác cán
bộ cũng như mắt đã mang kính có màu, khơng bao giờ thấu rõ cái mặt thật
của những cái mình trơng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ
xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả tồn bộ
cơng việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế
18


giới, cái gì cũng biến hố, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán

bộ phải toàn diện, xem xét cả một q trình cơng tác của người cán bộ. Có
người trước đây có sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay khơng
có sai lầm nhưng sau lại mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng
nay lại phản cách mạng, ngược lại có người trước đây khơng theo cách mạng
nay lại tham gia cách mạng… nghĩa là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi
người không phải luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét cán bộ phải xem xét
cả lịch sử của họ, tồn bộ cơng việc của họ.
Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua,
tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh
lệnh, hay cơng kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế,
tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc,
không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, khơng che giấu khuyết điểm của
mình, khơng ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo
mệnh lệnh của Đảng, vô luận hồn cảnh thế nào, lịng họ cũng khơng thay
đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt.
Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt,
khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ.
Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường
chúng ta khơng biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ,
thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài
mà dùng người thì hai người đều thành cơng.
Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác
cán bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu
cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn
19


nhau; ai khơng hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay

cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống.
Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt
mất nhân tài và khơng thực hành được đầy đủ chính sách của mình, làm hại
sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đồn kết đồng chí, gây ra những mối
nghi ngờ…
Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm tồn diện khi xem xét để đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi
quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem
người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng khơng đúng tài của họ,
cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, khơng khỏi đem người
bơ lơ ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất
có hại.
Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con,
anh em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngồi; 2. Ham dùng
những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham
dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình
khơng hợp với mình.
Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí cơng vơ
tư đối với cán bộ, khơng có thành kiến, khiến cán bộ khơng bị bỏ rơi. Phải có
tinh thần rộng rãi mới có thể gần gụi với những người mà mình khơng ưa.
Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ cịn
kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà
cách xa cán bộ tốt. phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lịng gần
gụi mình.

20


Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hịi. Hồ Chí
Minh hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công

tác cán bộ nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê
bình một cách nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm cơng tác cán bộ, tìm
cách lợi dụng chức quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức
này chức nọ. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương
cục bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ
nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi,
v.v. đều do bệnh hẹp hịi mà ra.
Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ
với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên
phái đến và cán bộ địa phương khơng đồn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho
rằng, phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hịi, khắc phục kèn cựa, mất đồn kết
giữa cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có
hai hạng cán bộ đó đồn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng
thêm nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái
đến, trình độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa
phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải
giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới chạy”. Theo quan điểm của
Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng
cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác
về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một
cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần
phải được bố trí cơng tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ
đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được
Hồ Chí Minh đề cập khơng ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này,
21


khi cho rằng: “Số cán bộ cũ có ít, khơng đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo

luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu khơng có cán bộ mới thế
vào, thì ai gánh vác cơng việc của Đảng”. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ
mới “vì cơng tác chưa lâu, kinh nghiệm cịn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng
họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng
kiến hơn”. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy
bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ
nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ thường giữ địa vị
lãnh đạo. Vì vâỵ, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả,
thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mớichữa khỏi bệnh
hẹp hịi”.
Phải chú trọng đến cơng tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý việc phải
xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi,
giúp đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu khơng như thế thì hỏng việc. Hồ Chí
Minh viết rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước
khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì khơng giúp đỡ họ, khi họ
sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị
nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan
điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,
trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của
Đảng khi đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành
thường xuyên. Ở đây, có mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu:

22


Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp

vào” Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tế.
Sắp xếp thời gian và bài học phải hợp lý. Tuyệt đối chống bệnh chủ
quan, hẹp hòi, ba hoa. Các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét
kỹ. Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc.
Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác
khác mà định. Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đảng. Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải
có kinh phí tương xứng với u cầu, “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu
trong việc huấn luyện”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa và thực
tiễn sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi
mới và chỉnh đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt
trong thời kỳ cách mạng hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo
sự nghiệp phát triển đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
III. Ý Nghĩa đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng NDCM Lào
Sửa đổi lối làm việc theo tư tưởng của HCM sẽ góp phần khắc phục tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... của một bộ phận cán
bộ, đảng viên trong đảng NDCM Lào hiện nay. Thực tế cho thấy, những biểu
hiện, hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp hiện nay có
một phần nguyên nhân từ chính việc chậm và khơng đổi mới lề lối làm việc
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh phần lớn cán bộ, đảng viên có lề lối
làm việc khoa học, dân chủ, quần chúng, gắn bó với nhân dân, tơn trọng ý
23


kiến nhân dân thì vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp giữ tác phong làm việc bảo thủ, trì trệ; khơng chấp hành
nghiêm nguyên tắc, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội thực dụng, kèn

cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng lãng phí... Một số cán bộ làm việc qua loa,
chiếu lệ; tiếp xúc với quần chúng theo kiểu "quan cách mạng", khơng thường
xun gần gũi tìm hiểu, lắng nghe tâm tư, tình cảm của nhân dân, khơng tham
gia sinh hoạt với đảng bộ, chi bộ nơi cư trú...
Đáng mừng là hiện nay, ở nhiều địa phương trên địa bàn nước CHDCND
Lào, đã xuất hiện những mơ hình về đổi mới tác phong làm việc theo hướng
khoa học, hiệu quả và quần chúng; góp phần định hướng dư luận và tạo nên
trào lưu đổi mới lề lối làm việc rộng khắp trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cả
nước. Hình ảnh các đồng chí lãnh đạo trung ương, thủ trưởng các bộ, ngành đi
cơ sở bớt hình thức, lễ nghi mà đến tận nhà dân để trao đổi, lắng nghe tâm tư
nguyện vọng của dân ngày càng nhiều. Gần đây, nhiều cán bộ, lãnh đạo các
bộ, ngành, địa phương chủ động tham gia đối thoại trực tuyến với dân, lắng
nghe và giải quyết thấu đáo các vấn đề người dân quan tâm, trăn trở. Nhiều cơ
quan, địa phương đã cử cán bộ nằm vùng để trực tiếp bám sát và nắm vững
tình hình, từ đó có những biện pháp xác đáng giải quyết những vướng mắc,
tồn tại ở cơ sở. Lề lối làm việc liên quan đến tác phong, phương pháp làm
việc của người cán bộ, đảng viên nên có thể thay đổi, chỉnh sửa thông qua giáo
dục, rèn luyện. Lề lối làm việc thể hiện bằng những biểu hiện hành vi trong cuộc
sống và công tác, nên được đồng chí, đồng đội và quần chúng nhìn nhận, đánh
giá hằng ngày. Bởi vậy, việc sửa đổi lề lối làm việc phải dựa trên kết quả của phê
bình và tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên phải liên tục tự soi mình vào tập thể,
điều chỉnh lối làm việc của bản thân theo lề lối chung của tập thể và hướng đến
mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân.
Trong tình hình hiện nay Đảng NDCM Lào đang tiếp tục tiến hành đào
tạo cán bộ bằng nhiều hình thức, như đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyên tu, tại
chức, cử đi học ở các nước bạn, để chuẩn bị một nguồn lực cán bộ cách mạng
24


mới có trí tuệ, có sức lực, có tâm, có tài phục vụ nhân dân và tổ quốc theo như

HCM nói đào tạo cán bộ là gốc rễ của việc làm cách mạng.
Để thực sự có những cán bộ lãnh đạo ưu tú xuất sắc đảm nhận được
những vai trò to lớn chèo lái đất nước, lãnh đạo uy tín công cuộc xây dựng đất
nước lào, Đảng NDCM Lào không tiến hành đào tạo tràn lan, mà chú trọng
vào việc lựa chọn những người có phẩm chất chính trị, có trí tuệ và tài năng
thực sự để cử đi đào tạo, đảm bảo cho những hạt giống đỏ cách mạng này là
những hạt giống tốt nhất để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng tổ quốc.
Hiện tại Đảng NDCM Làođang có nhiều chủ trương biện pháp để có thể
lựa chọn cán bộ, song những tiêu chí và giải pháp ấy đều cơ bản căn cứ dựa
vào 4 tiêu chí mà HCM đã nêu trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc, những
tiêu chí đó là thước đo, là bản căn lề cho công tác đào tạo cũng như bồi dưỡng
và lựa chọn đội ngũ cán bộ kế cận cho Đảng NDCM Lào
Để thực sự lựa chọn được những người cán bộ tốt cần phải có thực tế
kiểm nghiệm và thơng qua q trình hoạt động và phấn đấu khơng ngừng của
mỗi người cán bộ, để căn cứ vào 4 tiêu chí đó mà lựa chọn cất nhắc để có
được những người đủ đức đủ tài, đủ bản lĩnh chính trị đáp ứng được sứ mệnh
trọng trách lãnh đạo đất nước của Đảng NDCM Lào

25


×