Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN CCCT QUYỀN lực HÀNH PHÁP TRONG NHÀ nước PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM – vấn đề THỰC HIỆN QUYỀN lực HÀNH PHÁP TRONG xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN XHCN tại xã lộc THẠNH, HUYỆN lộc NINH, TÌNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.43 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: QUYỀN LỰC HÀNH PHÁP TRONG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM – VẤN ĐỀ
THỰC HIỆN QUYỀN LỰC HÀNH PHÁP TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI XÃ LỘC THẠNH,
HUYỆN LỘC NINH, TÌNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2021
MỤC LỤC


2
2

PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐÈ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC HÀNH

1
2


Chương 1. PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM

1.1.
1.2.
1.3

Khái niệm và đặc điểm của hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Vai trò của hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chu nghĩa Việt Nam
Nhận diện quyền lực hành pháp trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2
2
6
8

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
QUYỀN LỰC HÀNH PHÁP TRONG XÂY DỰNG NHÀ
Chương 2. NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI XÃ LỘC
THẠNH, HUYỆN LỘC NINH, TÌNH BÌNH PHƯỚC HIỆN
NAY

12

Thực trạng vấn đề thực hiện hành pháp Nhà nước pháp
2.1.


2.2.

quyền xã hội chủ nghĩa ở xã Lộc Thạch, huyện Lộc Ninh,
tỉnh Bình Phước hiện nay
Giải pháp thực hiện tốt quyền lực hành pháp tại xã Lộc

13

Thạnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước hiện nay
Trách nhiệm của người lãnh đạo quản lý

19
21
22
23

2.3.
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Đề cập đến hành pháp là đề cập đến hệ thống các cơ quan thực hiện
quyền hành pháp. Các cơ quan nhà nước (tức thiết chế Nhà nước), ở những
mức độ khác nhau, đều thực hiện quyền hành pháp, nhưng trong đó chủ yếu
do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.


3
3


Ở Việt Nam, trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp,
quyền tư pháp và bảo đàm quyền lực nhà nước thống nhất, phải có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước. Đây là một trong
những yêu cầu cơ bản xuyên suốt quá trình tố chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước là mối quan hệ phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt và thống nhất trong thực hiện quyền lực nhà nước, chứ
không phải đối với mỗi một quyền thì có một hệ thống cơ quan nhà nước
riêng để thực hiện. Chẳng hạn, các cơ quan hành chính nhà nước cũng tham
gia thực hiện quyền lập pháp, hỗ trợ thực hiện quyền tư pháp…
Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức với quy mô lớn
nhất, từ Trung ương đến cơ sở với hệ thống bộ máy, các nguồn lực và thể chế
hoạt động của hệ thống. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được cơ
cấu vừa theo chiều dọc từ trên xuống, lại vừa theo chiều ngang; vừa theo
ngành, lại vừa theo lĩnh vực, theo lãnh thổ... nhằm đưa các quy định pháp luật
vào thực tiễn đời sống, ngăn chặn sự tha hóa cùa quyền lực nhà nước.
Nhận diện quyền lực hành pháp nhằm thực hiện đúng chức năng, vai trị,
vị trí của cơ quan hành pháp với tư cách là một bộ phận quan trọng trong tổ
chức cấu trúc và vận hành quyền lực của nhà nước pháp quyền nói chung và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng. Do đó vấn đề “Quyền lực
hành pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Vấn
đề thực hiện quyền lực hành pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở
xã Lộc Thạnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước hiện nay” là vấn đề có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
PHẦN II: NỘI DUNG


4
4

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC HÀNH

PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khái niệm: Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chù nghĩa Việt
Nam là một bộ phận của quyền lực nhà nước, trong đó các cơ quan nhà nước
thực hiện quyền hành pháp trên cơ sở một hệ thống thể chế pháp lý nhằm xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là sự phản ánh mối quan hệ tất yếu trong lịch sừ đất nước. Suốt gần
92 năm qua, Đảng đã trải qua 15 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành
chính quyền, hơn 76 năm cầm quyền, trong đó có 30 năm chiến tranh ác liệt
chống thực dân và đế quốc giành độc lập dân tộc trên phạm vi cả nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, sự lãnh đạo của Đảng “có lúc cũng
phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do
giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” [1, tr.64],
nhưng đều khẳng định mối quan hệ không thể chia cắt giữa Đảng và Nhà
nước, trong đó có sự lãnh đạo của Đảng đối với hành pháp. Lịch sử đã chứng
minh một cách thuyết phục tính tất yêu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Đảng Cộng


5
5


sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [1, tr.88] với
quan điểm đó, từ năm 1980, các Hiến pháp đều quy định Đảng lãnh đạo Nhà
nước và xà hội. Kế thừa và phát triển quy định trong các Hiến pháp trước,
Hiến pháp năm 2013 tại khoản 1, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và cùa dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chù nghĩa Mác Lênin và tư tường Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội” [7, tr.192].
Ở các nước xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một đảng duy nhất
lãnh đạo, vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía đảng sẽ
được giải quyết bằng phát huy dân chủ, phê bình và tự phê bình trong nội bộ
đảng, sự giám sát của xã hội đối với đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo của Đảng
là yếu tố tiên quyết đối với sự vận hành của hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ hai, cùng với lập pháp và tư pháp, hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tuân theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đây cũng là một đặc điểm cơ bản của hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền ở nước ta. Đặc điểm này phản ánh hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm một trong những nguyên tắc
rất cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xuất phát từ yêu
cầu khách quan của lịch sử đất nước. Nó địi hỏi, trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, việc trao nhiệm vụ và quyền hạn cho các cơ quan phải
bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất trên mọi phương diện; có sự phân
cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành


6

6

pháp, tư pháp, hay cụ thể hơn là có sự phân cơng, phối hợp trong q trình
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan. Sự phân công, phối hợp đó
khơng bao hàm phân chia quyền lực nhà nước, mà nằm trong phạm vi thống
nhất quyền lực.
Thứ ba, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội.
Khác với những nhà nước tư sản, tổ chức quyền lực nhà nước theo
nguyên tắc tam quyền phân lập, ở nước ta tổ chức quyền lực nhà nước theo
mô hình quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất. Theo đó, các cơ quan khác của nhà nước, trong đó có
Chính phủ, đều thấp hơn Quốc hội. Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành
của Quốc hội. Chính phủ ra đời từ Quốc hội. Cơ cấu, số lượng các thành viên
của Chính phủ do Quốc hội quyết định. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ
tướng do Quốc hội bầu ra từ các đại biểu Quốc hội trên cơ sở đề nghị của Chủ
tịch nước. Các thành viên khác của Chính phủ do Thủ tướng đề nghị và phải
được Quốc hội phê chuần. Quốc hội có quyền quyết định thành lập, bãi bỏ bộ,
cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh
địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt… Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thủ tướng chịu trách nhiệm về
hoạt động của Chính phủ, của Thủ tướng trước Quốc hội; báo cáo cơng tác
của mình, của Chính phủ trước Quốc hội. Từ đó, Quốc hội có quyền miễn



7
7

nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách
chức Phó Thù tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;
bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của Chính phủ; bãi bỏ văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội… Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện
quyền hành pháp, nhưng không phải là cơ quan nắm toàn bộ quyền hành pháp
và đứng đầu hệ thống hành pháp như chính phủ ở nhiều nước tư sản. Trên
Chính phủ cịn có các cơ quan khác thực hiện, chẳng hạn ủy ban Thường vụ
Quốc hội có quyền ban hành các nghị quyết, các pháp lệnh…
Mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội theo mơ hình này đề cao sự
thống nhất quyền lực vào Quốc hội, từ đó đề cao sự kiểm soát của Quốc hội
đối với hành pháp, cịn kiểm sốt của hành pháp đối với lập pháp dường như
còn mờ nhạt, thiếu rõ ràng. Tuy nhiên, kiểm sốt quyền lực nhà nước ở Việt
Nam cịn bao gồm sự kiểm sốt của cơng dân, của các tổ chức, của giới truyền
thơng, đặc biệt là kiểm sốt cùa Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay là hành pháp của một đất nước đang chuyển sang nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Rõ ràng, nền kinh tế của Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Nhận thức cũng như thực tiễn đã minh chứng rằng, cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng. Nền kinh tế đang chuyển từ mơ hình kế
hoạch tập trung sang mơ hình thị trường thì tổ chức bộ máy nhà nước, trong
đó có hành pháp, khơng thế khơng có những thay đổi để phù hợp với kinh tế.
Đảng ta cũng đã nhận thức được và đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu để tiến
hành đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy

nhà nước. Tuy nhiên, mặc dù đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới hành


8
8

pháp, nhưng bản chất của Nhà nước là không thay đổi. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) của Đảng đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo... Nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân” [1, tr.85-86].
1.2 Vai trò của hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Hành pháp là một trong những bộ phận cơ bản cấu thành nên tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, có vai trị quan trọng đối với hệ thống chính trị, đặc
biệt là với Đảng, Nhà nước và xã hội. Vai trị đó thể hiện như sau:
Thứ nhất, hành pháp cùng với lập pháp và tư pháp tiếp tục thể chể hóa
và tổ chức thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng.
Các cơ quan nhà nước, trong phạm vi thẩm quyền lần lượt thể chế hóa
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào các văn bản pháp luật. Trong
đó, trước hết Quốc hội thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng vào Hiến pháp, các đạo luật, bộ luật. Tiếp theo, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác tiếp tục cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp, các đạo
luật vào các văn bản dưới luật. Trong q trình đó, các cơ quan thực hiện
quyền hành pháp như: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng, chủ
tịch ủy ban nhân dân các cấp... giữ vai trị cụ thể hóa các quy định trong các

đạo luật vào nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật như: nghị định của Chính
phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư của bộ trưởng; quyết định
của ủy ban nhân dân cấp tỉnh… Khi quan điểm, chủ trương, chính sách của


9
9

Đảng đã được thể chế hóa, cụ thể hóa thì các cơ quan nhà nước trong phạm vi
thẩm quyền cùa mình tổ chức đưa vào thực tiễn đời sống xã hội. Trong quá
trình này, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp lại giữ vai trò chủ yếu. Hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước, đứng đầu là Chính phủ thực hiện
quản lý từ Trung ương đến cơ sở, trên mọi lĩnh vực của đời sổng xã hội, trực
tiếp tổ chức thực hiện các quy định pháp luật một cách thường xuyên, liên
tục. Có thể nói, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giừ vai trò quan trọng, trực tiếp nhất trong
quá trình đưa quan điểm, chủ trương, chính sách cùa Đảng, pháp luật cùa Nhà
nước vào thực tiễn.
Thứ hai, hành pháp cùng với lập pháp và tư pháp bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện các quyên lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Có thể hồn tồn tin tưởng rằng, nếu lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước
ta cùng nhau thực hiện tốt nguyên tắc trên, thì bảo đảm Nhà nước Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Trong q trình đó, hành pháp giữ vai trị hết sức quan trọng.
Ỏ Việt Nam, hành pháp là hệ thống triển khai thực hiện các đạo luật,
trong đó có việc cụ thể hóa quy định trong các đạo luật; thường xuyên, liên
tục quan hệ trực tiếp với xã hội; là cầu nối giữa pháp luật với thực tiễn. Nếu
phát huy được trách nhiệm, hành pháp sẽ nhanh chóng cụ thể hóa và đưa các
đạo luật vào cuộc sống. Mặt khác, hành pháp nắm bắt tốt tình hình thực tế, sự

phản hồi từ đời sống xã hội đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ
đó, hành pháp sẽ có những đề xuất, kiến nghị với lập pháp về việc hoàn thiện
các quy định pháp luật. Hơn nữa, trong cơ chế phân cơng, phối hợp cũng như
trong thực tế, thì hành pháp ở nước ta là lực lượng chủ yếu xây dựng các dự


10
10

án luật phục vụ hoạt động lập pháp của Ọuốc hội. Điều này khẳng định hành
pháp có vai trị hết sức to lớn đối với hoạt động lập pháp.
Đối với tư pháp cũng vậy, trong cơ chế phân công, phối hợp ở nước ta thì
hành pháp cũng được phân cơng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà kết
quả của nó làm cơ sở cho hoạt động xét xử của tư pháp. Đó là hoạt động của
ngành cơng an trong điều tra tội phạm, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc trao thẩm
quyền điều tra tội phạm cho cơng an nhân dân là hồn tồn phù hợp, khoa
học, chun mơn hóa cao. Ngồi ra, vì phạm vi hoạt động bao quát tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội và trên phạm vi toàn lãnh thổ, nên các cơ quan thực
hiện quyền hành pháp nắm bắt và cung cấp thơng tin về tình hình phạm tội
cho tư pháp giữ vai trò quan trọng.
Qua những phân tích trên, chúng ta phần nào thấy được vai trò của hành
pháp đối với lập pháp và tư pháp trong thực hiện các nguyên tẳc cơ bản bảo
đảm bản chất của chế độ, bảo đảm Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ ba, hành pháp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc hiện thực hóa
các quy định về quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức và xã hội.
Với chức năng, nhiệm vụ là tổ chức thực hiện pháp luật, hành pháp được
cung cấp nhiều cách thức, biện pháp; nhiều công cụ, phương tiện; nhiều
nguồn lực... thông qua hệ thống bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở để

đưa các quy định của pháp luật vào thực tiễn, từ đó các quyền và lợi ích của
các cá nhân, tổ chức, cộng đồng và xã hội được thực hiện trên thực tế. Có thể
khẳng định, hành pháp là yếu tố tiên quyết bảo đảm các quy định về quyền và
lợi ích của cá nhân, tổ chức, cộng đồng và xã hội trờ thành hiện thực. Nếu vì
lý do nào đó mà hành pháp hoạt động không thông suốt, kém hiệu lực, hiệu
quả thì quyền và lợi ích cùa xã hội nói chung không được bảo đảm.


11
11

1.3 Nhận diện quyền lực hành pháp trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Quyền lực hành pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thể hiện trên những nội dung sau:
Thứ nhất là, về mặt hình thức quyền lực hành pháp là một bộ phận
trong cấu trúc tổ chức của quyền lực nhà nước. Lịch sử ra đời và tồn tại của
quyền lực nhà nước ghi nhận có nhiều hình thức tổ chức quyền lực nhà nước.
mặc dù vậy, cơ bản và phổ biến trên phương diện lý luận và thực tiễn quyền
lực nhà nước được tổ chức và thực hiện thông qua ba bộ phận: quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong hệ thống này quyền lực hành
pháp là một thành tố cấu thành có vị trị tương đối độc lập, có mối quan hệ
thống nhất tương đối., có sự tác động qua lại với quyền lập pháp và quyền tư
pháp, là đại diện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp.
Thứ hai là, về mặt nội dung, quyền lực hành pháp bao gồm quyền lập
quy và quyền hành chính. Quyền lập quy bao hàm quyền hoạch định chính
sách quốc gia, quyền xác lập, ban hành văn bản pháp quy. Quyền hành chính
bao hàm quyền tổ chức, điều hành hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, triển
khai chính sách, pháp luật vào đời sống. Qua đó chủ thể quyền hành pháp thể
hiện nhu cầu tiếp cận thực tiễn, giải quyết thực tiễn nhằm quản lý xã hội, thể

hiện vai trị tự chủ động, tích cực trong hoạt động quản lý thông qua hệ thống
cơ chế tiếp nhận thông tin cuộc sống, phản hồi bằng việc xác lập, ban hành,
điều chỉnh… chính sách, văn bản pháp quy. Điều đó cho thấy, hiểu đầy đủ về
quyền lực hành pháp, đặc biệt trong thời kỳ đương đại, khi vai trò quyền hành
pháp nổi bật ở vị trí trung tâm của hệ thống quyền lực nhà nước thì hành pháp
khơng chỉ là thi hành luật. Thẩm quyền của hành pháp còn là xác lập và thực
hiện các chính sách của nhà nước. Vì vậy, quyền lực hành pháp bao gồm cả
quyền lập quy và quyền hành chính.


12
12

Thứ ba là, trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước nói chung, với
quyền hành chính nói riêng cần có những phân biệt nhất định để nhận diện
quyền lực hành pháp. Quyền lực nhà nước thông thường được tổ chức với ba
loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong nhà
nước pháp quyền, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền thuộc về nhân dân, quyền
lập pháp được hiểu là một loại quyền lực nhà nước, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, được nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc
gián tiếp thơng qua cơ quan đại diện nhằm luật hóa và hiện thức hóa ý chí,
nguyện vọng và lợi ích đó, hướng đến bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân. Quyền hành pháp được khẳng định thông qua việc xác lập vai trò quan
trọng quyết định trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiệu quả. Vị trí vai
trị của quyền lực hành pháp trong Nhà nước pháp quyền được xác định từ
những đặc trưng cơ bản của quyền hành pháp: tính năng động, thường xuyên,
trực tiếp, bao quát… trong so sánh với quyền lập pháp, quyền tư pháp và
trong cả mối quan hệ với các đối tượng mà quyền hành pháp hướng đến khi
thực thi quyền. Bên cạnh đó, một căn cứ cơ bản để phân biệt hay để nhận diện
quyền hành pháp với quyền khác (quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành

chính) là chủ thể của nó. Chủ thể thực hiện quyền hành pháp mặc dù bao gồm
nhiều cơ quan nhà nước nhưng chủ yếu vẫn là hệ thống cơ quan hành chính.
Hành chính được hiểu là quản lý - là hoạt động có tính chất chỉ đạo, điều hành
Hành pháp, quyền hành pháp tồn tại và vận động dựa trên một nền tảng nhất
định. Nền tảng ấy là nền hành chính, hoạt động hành chính, quyền hành
chính. Điều đó cho thấy, quyền hành pháp cần được phân biệt với quyền hành
chính: quyền hành chính là phương thức thể hiện quyền hành pháp trong đời
sống.
Trên cơ sở đó xác định: Quyền lực hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quyền lực nhà nước được tổ chức và thực


13
13

hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, tiến hành các
hoạt động thực thi pháp luật, lập quy và quản lý hành chính nhà nước trên cơ
sở quy định của pháp luật, phản ánh bản chất và đảm bảo chủ quyền nhân
dân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
hành pháp có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất là, Quyền lực hành pháp được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ chính trị nhất nguyên,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai là, Cấu trúc quyền lực hành pháp bao gồm: Một là, chủ thể
của quyền lực hành pháp. Chủ thể của quyền lực hành pháp không chỉ giới
hạn bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước mà còn được thực hiện bởi các
cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp cũng như cơ quan Chủ tịch nước. Cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong nhà nước pháp

quyền xa hội chủ nghĩa Việt Nam đã được xác định: Dù chính phủ là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp (Điều 94 Hiến pháp năm 2013, Điều 1 Luật Tổ
chức chính phủ năm 2015), nhưng trong nhiệm vụ, quyền hạn vủa Quốc hội cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Điều 69 Hiến pháp năm 2013, Điều 1 Luật
Tổ chức chính Quốc hội năm 2014), cũng bao hàm những hoạt động triển
khai thực hiện pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước…
việc thực hiện, các hoạt động này cho thấy thẩm quyền hoạt động của Quốc
hội mang tính hành pháp rõ rệt. Bên cạnh đó, cơ quan Tịa án – cơ quan thực
hiện quyền tư pháp (điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa
án năm 2014) trong quá trình thực hiện quyền tư pháp cũng sẽ tiến hành đồng
thời các hoạt động quản lý hành chính về bộ máy làm việc, nhân sự, cơ sở vật
chất, kinh phí, phương tiện hoạt động. Những hoạt động này thuộc nội hàm


14
14

quyền hành pháp. Cơ quan Chủ tịch nước – người đứng đầu nhà nước – cũng
được trao nhiều quyền hạn thuộc các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong thực tiễn, các nội dung trong nội hàm của quyền hành pháp còn được
thực hiện bởi các cơ quan thuộc cấp chính quyền địa phương như Hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân (thẩm quyền thực hiện theo quy định của Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015). Như
vậy, các chủ thể thực hiện quyền hành pháp được tổ chức ở cả trung ương và
địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan nhà nước. Mặc dù vậy, nhận diện chủ
thể quyền hành pháp, chủ thể có chức năng hành pháp, chủ yếu là hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước. Hệ thống cơ quan này trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Chính phủ bộ, các cơ quan ngang bộ, ủy
ban nhân dân ở các cấp hành chính. Hai là, nội dung các hoạt động của quyền
lực hành pháp. Trên phương diện thi hành pháp luật: Tuân thủ chấp hành hiến
pháp và pháp luật trong tổ chức và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn. Trên phương diện thực hiện quyền lập quy: Ban hành các văn bản
pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Trên phương diện thực
hiện quyền hành chính: tiến hành các hoạt động điều hành để tổ chức thực
hiện chính sách và pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức
kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước, kiểm tra và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật
trong thẩm quyền. Thực hiện các hoạt động bảo vệ pháp luật bằng những
phương tiện của hành pháp; tổ chức và quản lý bộ máy hành pháp; đảm bảo
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ba là, đối tượng của quyền lực hành
pháp. Đối tượng của quyền lực hành pháp bao gồm cá nhân, tổ chức cùng các
hoạt động của họ khi tham gia quan hệ pháp lý với chủ thể quyền lực hành


15
15

pháp trong quá trình các chủ thể này thực hiện các hoạt động thuộc thẩm
quyền thực thi quyền lực hành pháp hoặc thực hiện quyền và nghĩa vụ công
dân.
Với những đặc điểm cơ bản nêu trên có ý nghĩa là căn cứ nhận diện
quyền lực hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc nghiên cứu, làm rõ quyền lực hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam góp phần làm cơ sở để xác định rõ hơn quyền hạn và
trách nhiệm của mỗi quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
QUYỀN LỰC HÀNH PHÁP TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI XÃ LỘC THẠNH, HUYỆN LỘC NINH,

TÌNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

2.1. Thực trạng vấn đề thực hiện hành pháp Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở xã Lộc Thạch, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước hiện
nay
* Vài nét về xã Lộc Thạch, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
Lộc Thạnh là xã biên giới ở phía Tây Bắc của huyện Lộc Ninh, có
đường biên giới với Campuchia dài khoảng 21,5km; xã có 1.025 hộ với 4.095
nhân khẩu; Vị trí địa lý tương đối thuận lợi về giao thơng có quốc lộ 13, có
Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư, có 07 dân tộc cùng sinh sống gồm:
Kinh, Xtiêng, Hoa, Châu Ro, Khmer, Tày, Nùng với 100 hộ, 412 khẩu. Diện
tích tự nhiên là 7.549,02 ha có điều kiện tự nhiên và đất đai thích hợp cho sản
xuất các loại cây công nghiệp như: cao su, hồ tiêu, điều, cà phê, cây ăn trái và
các loại cây ngắn ngày khác. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội hàng năm
phát triển khá, đời sống nhân dân ổn định, tình hình quốc phòng - an ninh
được giữ vững.


16
16

HĐND, UBND và nhân dân xã Lộc Thạnh luôn nhận được sự quan tâm
chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi của Huyện uỷ, HĐND, UBND và các ban
ngành đoàn thể của Huyện; cùng với sự lãnh đạo sát sao của Đảng uỷ, sự điều
hành của UBND; sự đoàn kết, thống nhất trong hệ thống chính trị; các chỉ thị,
nghị quyết được triển khai thực hiện có hiệu quả; nhân dân có niềm tin vững
chắc vào sự lãnh đạo của HĐND, UBND xã Lộc Thạnh.
Bên cạnh những thuận lợi, song cũng gặp khơng ít khó khăn, thách thức
do thời tiết diễn biến phức tạp, giá cả hàng hoá, vật tư tăng cao bất lợi đến sản
xuất nông nghiệp. Trong bối cảnh đó, HĐND, UBND xã đã vượt lên những

khó khăn thách thức, tập trung lãnh đạo kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển,
quốc phòng - an ninh được giữ vững, xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng,
mặt trận tổ quốc và các đoàn thể được củng cố; đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân được nâng lên.
* Những kết quả đạt được:
Theo Hiến pháp năm 2013, xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là
đơn vị hành chính thấp nhất trong phân định các đơn vị hành chính ở Việt
Nam. Ở các đơn vị hành chính cấp xã, chính quyền địa phương gồm Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân) có trách nhiệm thực hiện tốt và đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ đã được pháp luật quy định. Những năm qua chính quyền xã
Lộc Thạnh đã đạt được kết quả sau:
Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định tại Hiến pháp năm
2013 và Luật tổ chức chính quyền địa phương, HĐND, UBND xã Lộc Thạnh
đã thực hiện theo thẩm quyền được giao, quyết định nhiều vấn đề quan trọng
có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
HĐND, UBND đã tổ chức nhiều kỳ họp, thông qua nhiều nghị quyết; trong
đó có các nghị quyết chuyên đề. Các nghị quyết của HĐND xã ban hành đã
kịp thời tạo cơ sở pháp lý để Ủy ban nhân dân (UBND) xã triển khai đường


17
17

lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết
của Đảng bộ cấp trên và Đảng ủy xã vào mọi hoạt động quản lý, phù hợp với
đặc điểm của xã đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Bên cạnh đó, HĐND
xã cũng đã chú trọng thống nhất, cụ thể hóa quy trình ban hành nghị quyết.
Từ đầu năm 2021 đến nay có 02 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
đó là: Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐND ngày 30/6/2021 về nhiệm vụ phát
triển kinh tế- xã hội 6 tháng cuối năm 2021. Nghị quyết số 02/2021/NQHĐND ngày 30/6/2021 về nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 20212025. Việc tổ chức tốt khâu ban hành nghị quyết của HĐND xã đã tạo thế chủ

động giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương. Quá trình xây
dựng các nghị quyết đều tuân thủ các quy định của pháp luật, được thẩm tra
kỹ và nhận được sự phản biện, đóng góp ý kiến của các đại biểu, các tổ chức
chính trị - xã hội. Phần lớn các nghị quyết của HĐND có chất lượng cao, tạo
được sự ủng hộ của nhân dân.
HĐND xã đã chú ý việc thực hiện chức năng giám sát và đạt được
những kết quả nhất định. HĐND xã đã chủ động tìm tịi và áp dụng các hình
thức, biện pháp giám sát, kiểm tra phù hợp với tình hình thực tế. Qua việc
nghe và xem xét các báo cáo, qua việc chất vấn và trả lời chất vấn, việc tổ
chức các đoàn đã giám sát, kiểm tra xuống tận các thôn bản ở cơ sở để thu
thập ý kiến của cử tri, giúp HĐND xã nắm tình hình, có ý kiến kịp thời về
nhiều vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Trong năm, đã tổ chức được 02
buối chất vấn và trả lời chất vấn. Hoạt động giám sát của HĐND xã có những
đóng góp tích cực vào việc giải quyết nhiều vụ, việc tiêu cực, hạn chế việc vi
phạm pháp luật xảy ra ở địa phương. Cụ thể: Tổng số đơn tiếp nhận trong
năm 2021: 09 đơn thư (Khiếu nại: 0; Tố cáo: 1; Khiếu nại phản ánh: 08),
trong đó cơ quan cấp trên chuyển về là 0. Phân loại, xử lý đơn: Số đơn trùng


18
18

lặp: 0 đơn. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền: 0 đơn.
Số vụ việc đã giải quyết: 9 vụ việc. Số vụ việc đang giải quyết: 0 vụ việc. Qua
đó, giải quyết thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, tổ chức tại địa
phương, đảm bảo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, ngăn chặn hạn chế những
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy chính quyền cơ sở, góp phần đảm bảo an
ninh, trật tự, ổn định chính trị, xã hội.
Tình hình thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền trong cơng tác thanh tra, kiểm tra: trong năm 2021 UBND xã tiếp một

số đoàn thanh, kiểm tra trong công tác thi hành pháp luật đã được thực hiện từ
những năm trước. Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật
UBND đã cử cán bộ, công chức tham gia một số lớp tập huấn về công tác thi
hành pháp luật và đã phân công cụ thể từng nhiệm vụ cho người làm công tác
thi hành pháp luật. Tình hình thi hành pháp luật của người có thẩm quyền
trong cơng tác đấu tranh, phịng chống vi phạm pháp luật. UBND thường
xuyên giao các bộ phận chun mơn thực hiện đúng cơng tác đấu tranh,
phịng chống vi phạm pháp 4 luật bộ phận thực hiện như: địa chính, xây dựng
xã; cơng an xã, tổ quản lý trật tự đô thị; tăng cường tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, UBMMTQ và các đoàn thể thường xuyên nắm bắt tun truyền,
vận động đồn viên, hội viên trong cơng tác thi hành pháp luật. Tình hình thi
hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong công tác
bồi thường nhà nước: Công tác bồi thường nhà nước được UBND xã thực
hiện nghiêm túc theo quy định. Tình hình vi phạm pháp luật hình sự: 01 vụ án
hình sự bị khởi tố hình sự về tội đánh bạc. Tình hình vi phạm pháp luật hành
chính: ra quyết định xử lý vi phạm hành chính 02 vụ, việc liên quan đến các
lĩnh vực an ninh trật tự, công tác quản lý xây dựng.
Qua hoạt động, Thường trực HĐND và các đại biểu HĐND xã đã từng
bước khẳng định được vai trị, vị trí của mình, góp phần nâng cao hiệu quả


19
19

hoạt động. Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã đã tích cực phối hợp với Ủy ban
nhân dân (UBND) cùng cấp trong việc chuẩn bị kế hoạch tổ chức hoạt động
của HĐND giữa hai kỳ họp như tổ chức một số cuộc giám sát, tiếp dân, sinh
hoạt với tổ đại biểu HĐND. Thường trực HĐND đã bám sát quy chế phối hợp
cùng Mặt trận Tổ quốc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND bầu gồm
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND xã.

UBND xã hoạt động thông qua các phiên họp tập thể của UBND; sự chỉ
đạo, điều hành của Chủ tịch UBND. Với tư cách là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, UBND xã phải thể hiện vai trị quản lý hành chính nhà
nước trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở địa
phương; đồng thời, cũng là cơ quan quản lý việc chấp hành, thực hiện các
quyết định, chỉ đạo của HĐND xã và UBND huyện gắn với các chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thể hiện trên các hoạt động
kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phịng và môi trường xã hội trên địa
bàn. Đến nay, phần lớn xã đã có đường ơ tơ đến được trung tâm; cơ sở vật
chất phục vụ sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa được quan tâm đầu
tư; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; cơng tác chăm sóc
sức khỏe của nhân dân được duy trì (động viên được 98% bà con trong xã
tham gia bảo hiểm y tế; bản sắc văn hóa được duy trì và phát huy; đời sống
vật chất tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt; quốc phòng, an ninh
được củng cố và giữ vững; các hoạt động tư pháp được thực hiện khá tốt; cải
cách thủ tục hành chính có bước chuyển biến rõ rệt. Xã đã xây dựng được quy
chế làm việc và duy trì hoạt động theo quy chế.
* Hạn chế trong thực hiện quyền lực hành pháp tại xã Lộc Thạnh,
huyện Lộc Ninh hiện nay
Về Hội đồng nhân dân cấp xã, quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của HĐND xã cịn có những hạn chế, tồn tại sau đây:


20
20

Một là, các nghị quyết chuyên đề của HĐND xã để giải quyết các vấn
đề đang bức xúc của địa phương cịn chưa kịp thời. Ví dụ như cơng tác giải
phóng mặt bằng; cơng tác vệ sinh mơi trường…
Hai là, công tác giám sát là một trong các nhiệm vụ quan trọng của

HĐND, nhưng có thời điểm HĐND xã chưa xây dựng được lịch hoạt động
giám sát định kỳ hoặc có xây dựng nhưng mang tính hình thức, khơng tổ chức
thực hiện.
Ba là, việc thực hiện giám sát tại kỳ họp, thông qua việc xem xét báo
cáo của thường trực HĐND, UBND; thông qua việc chất vấn và trả lời chất
vấn cịn nhiều bất cập. Ngồi ra, việc tổ chức các hình thức giám sát cịn
nghèo nàn, thời gian tiến hành giám sát ngắn, chủ yếu là đi nghe báo cáo của
các tổ chức hoặc cá nhân. Từ đó, việc tìm hiểu thơng tin khơng được tỉ mỉ độ
chính xác khơng cao, chưa đạt được mục đích, u cầu đề ra.
Về Ủy ban nhân dân cấp xã, quá trình hoạt động hiện vẫn còn những
mặt hạn chế, tồn tại sau:
Một là, hoạt động quản lý hành chính của UBND xã có mặt cịn yếu,;
một số hoạt động cịn nặng về tập qn, thói quen, tình cảm...
Hai là, việc xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình
thi hành pháp luật cịn lúng túng và nhiều bất cập. Cụ thể: Các hình thức theo
dõi thi hành pháp luật còn đơn điệu, chủ yếu căn cứ trên báo cáo, trong khi
việc tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập và xử lý thơng tin về tình hình thi
hành pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên và liên tục; Q trình thực
hiện cơng tác theo dõi thi hành pháp luật còn thiếu sự tham gia, phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan. Trong khi đó, tiêu chí đánh giá
hiệu quả thực hiện đối với lĩnh vực này hiện vẫn chưa được cụ thể, rõ ràng
trong các văn bản quy phạm pháp luật; Kết quả công tác theo dõi thi hành
pháp luật chưa thực sự nổi bật, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng


21
21

mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật, chưa có nhiều đề xuất lớn để
nâng cao hiệu quả thi hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật; Hoạt động tập

huấn nghiệp vụ về theo dõi thi hành pháp luật chưa được thực hiện.
Ba là, một số việc ở từng thời điểm UBND có xu hướng đẩy việc xuống
cho thôn, làng, bản … làm cho các trưởng thôn, tổ trưởng dân phố phải làm
những việc vốn là thuộc nhiệm vụ của UBND xã... Ví dụ như: tuyên truyền
phố biến pháp luật, văn hóa thơng tin... trong khi tổ chức thôn, làng, bản chỉ
thuần túy là các tổ chức cộng đồng dân cư, khơng phải là tổ chức hành chính
cấp dưới của xã. Từ đó, dẫn tới hiệu quả hoạt động và chất lượng công việc
thấp. Công tác nắm tâm tư nguyện vọng và vận động quần chúng của xã có
mặt cịn yếu kém.
Bốn là, quy trình, thủ tục hành chính tuy đã được rà sốt, điều chỉnh
nhưng vẫn cịn rườm rà. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết công
việc ở một số lĩnh vực liên quan đến thẩm quyền của nhiều ngành, nhiều cấp
còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ. Các lĩnh vực công việc được thực hiện theo cơ
chế một cửa liên thông chưa nhiều.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân chủ quan
Đội ngũ cán bộ trong HĐND, UBND xã có mặt cịn thiếu kinh nghiệm
trong xây dựng và tổ chức thực hiện thực thi pháp luật tại địa phương (trong
đó việc tổ chức thực hiện và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơng
tác thực thi pháp luật cịn hạn chế).
Đội ngũ công chức được giao làm công tác này trình độ chun mơn
chưa đồng đều, thiếu kinh nghiệm trong tổ chức công tác theo dõi thi hành
pháp luật.


22
22

Công tác phối hợp trong triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật
đôi lúc chưa chặt chẽ; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác

thi hành và theo dõi thi hành pháp luật còn thiếu và yếu;
Nguyên nhân khách quan
Ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật cũng như nhận thức của một số
tổ chức, cá nhân chưa cao.
Chưa có tiêu chí cụ thể làm căn cứ để đánh giá chính xác mức độ tuân
thủ pháp luật.Việc triển khai thi hành Nghị định 59/2012/NĐ-CP cịn lúng
túng và bị động; cơng tác bố trí kinh phí, nguồn nhân lực và các điều kiện bảo
đảm cịn chưa ngang tầm với cơng việc.
2.2. Giải pháp thực hiện tốt quyền lực hành pháp tại xã Lộc Thạnh,
huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước hiện nay
Thứ nhất, cần thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về phân cấp
giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng: “Việc nào do cấp nào quản
lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp
đó”, xóa bỏ dấu ấn của cơ chế cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo hoặc phê duyệt của
cấp trên. Tiếp tục rà soát, xác định rõ nhiệm vụ và thẩm quyền của chính
quyền cấp xã theo hướng “một cấp”: những công việc giải quyết theo nhu cầu
của người dân mà cấp xã quyết định được thì giao quyền cho chính quyền cấp
xã thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật; công việc giải quyết theo
nhu cầu của người dân phải qua cả chính quyền cấp xã và chính quyền cấp
huyện thì giao cho cấp huyện thực hiện.
Thứ hai, xác định và phân biệt rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể
UBND xã với thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND xã trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Thống nhất thực hiện nguyên tắc “tuân thủ
pháp luật và việc ai nấy làm”, chính quyền cấp xã chỉ giải quyết nhu cầu và
phục vụ người dân theo đúng các nhiệm vụ đã được pháp luật quy định.


23
23


Không chuyển việc hoặc đẩy việc thuộc trách nhiệm của cấp huyện xuống cấp
xã thực hiện; không chuyển việc thuộc trách nhiệm của cấp xã cho thôn, tổ
dân phố thực hiện. Khắc phục xu hướng hành chính hóa hoạt động của thơn,
tổ dân phố, hạn chế tính tự quản của cộng đồng dân cư.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính ở UBND xã,
trong đó tập trung rà sốt nhằm bảo đảm rút ngắn quy trình xử lý, giảm số
lượng và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ thủ tục hành chính; thực
hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành
chính. Triển khai có hiệu quả Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế
một cửa liên thơng tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Tổ chức
thực hiện có hiệu quả việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân,
tổ chức về quy định hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong giải quyết thủ tục hành chính.
Thứ tư, nâng cao hơn nữa việc xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch
theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa phương. Trong đó cần: Tăng
cường, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, kinh nghiệm, nhằm
thực hiện đồng bộ, tồn diện các quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả
công tác theo dõi thi hành pháp luật; Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối
hợp giữa các cơ quan, đơn vị rong công tác theo dõi thi hành pháp luật;
thường xun kiểm tra tình hình thực hiện cơng tác theo dõi thi hành pháp
luật nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn;
Bố trí nguồn kinh phí đầy đủ phục vụ cơng tác theo dõi thi hành pháp luật;
Thu hút sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; chủ động
tiếp nhận và kịp thời xử lý thông tin phản ánh về tình hình thi hành pháp luật
để kịp thời tham mưu, đề xuất chính sách pháp luật phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn.


24

24

2.3. Trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý
Nhận thức được vai trò quan trọng của quyền lực hành pháp trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bản thân tôi trên cương vị là
một cán bộ lãnh đạo cấp xã, trước hết luôn nêu cao tinh thần dân chủ, gương
mẫu trong thực hành quyền lực hành pháp trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luôn chủ động tiếp nhận và kịp thời xử lý
thơng tin phản ánh về tình hình thi hành pháp luật để kịp thời tham mưu, đề
xuất chính sách pháp luật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời chỉ
đạo, lãnh đạo đội ngũ cán bộ, công chức trong HĐND và UBND xã thực hiện
tốt chức trách nhiệm vụ của mình, hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao,
tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Cùng với đó, bản thân ln thực hiện tốt Kế hoạch số 23/KH-UBND,
ngày 09 tháng 3 năm 2020 về việc xây dựng mơ hình “Chính quyền thân
thiện” tại UBND xã Lộc Thạnh bắt đầu từ năm 2020 nhằm xây dựng chính
quyền là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân phục vụ khi đến giải quyết
cơng việc trên tinh thần “trọng dân, gần dân, hiếu dân, học dân và có trách
nhiệm với nhân dân” theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự
chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, cán
bộ, công chức xã trên cơ sở quán triệt các quan điểm chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơng tác dân vận chính
quyền trong tình hình mới.
Bản thân đã được UBND xã đã phân công nhiệm vụ cụ thể và đã nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của bản thân đồng thời quán triệt các văn bản
hướng dẫn của Ban Chỉ đạo cấp xã đến tồn thể cán bộ, cơng chức xã, tạo sự
đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ. Tập trung đẩy mạnh cơng tác cải
cách hành chính theo hướng sát với điều kiện, tình hình thực tế của địa



25
25

phương, nhằm tạo bước chuyển biến tích cực trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả giải quyết các thủ tục hành chính, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của các tổ chức và công dân, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển địa phương.

KẾT LUẬN
Đại hội XIII của Đảng xác định “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản
lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. đầy nhanh tiến độ ban hành các
luật, trực tiếp triển khai thi hành hiến pháp năm 2013. Xác định rõ hơn vai trò,
vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện
tốt chức năng của nhà nước…” [3, tr.284-285] cùng với đó là “tập trung xây
dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai minh
bạch, quản lý thống nhất thông suốt, hiệu lực và hiệu quả” [3, tr.286].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “cấp xã là gần gũi dân nhất,
là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xi”
[6, tr.371]. Chính vì thế, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng, và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, xã Lộc Thạnh nói riêng và các xã, phường, thị trấn, cùng các cấp trong
cả nước nói chung phải có sự lãnh đạo sát sao của Đảng ủy, sự kiểm tra giám
sát của Hội đồng nhân dân, UBND các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân


×