Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SKKN Một vài kinh nghiệm tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học văn bản bộ môn Ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 39 trang )

SKKN Một vài kinh nghiệm tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học văn bản bộ
môn Ngữ văn THCS

I. Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đang là
vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của tồn xã hợi. Thực tế hiện nay cho thấy nhà
trường – nơi được coi là môi trường tốt để giáo dục đạo đức cho học sinh, nhưng giờ
đây ở đâu đó trong một số trường học, đó lại là nơi đang xảy ra những hiện tượng tiêu
cực trong xã hội như: đánh nhau, vô lễ, các tệ nạn xã hội....điều này khiến nhiều người
không chỉ bất ngờ, mà còn thấy thất vọng, và giảm niềm tin vào môi trường giáo dục.
Thực hiện theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh trong các trường học, đội ngũ giáo viên đã tích cực đởi mới phương
pháp giảng dạy nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của mục tiêu giáo dục đặt ra là hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Giúp các em thích nghi tớt với xu hướng
phát triển của xã hội trong giai đoạn mới. Hiện nay các môn học nói chung và môn
Ngữ văn nói riêng đã và đang thực hiện các chủ đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Thông qua các hoạt động trải nghiệm bản thân học sinh sẽ rút ra được những kinh
nghiệm, hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp các em có những ứng xử phù hợp
trong cuộc sống học tập và trong lao động.


Tuy nhiên việc làm này ở một số giáo viên vẫn còn mang tính hình thức - làm
cho có, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến đạo đức của học sinh bi
xuống cấp.
Với nhiệm vụ là giáo dục học sinh cách làm người, bộ môn Ngữ văn nói chung,
và phần văn bản nói riêng đang giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục kĩ
năng sống cho các em học sinh. Mỗi giáo viên đều có ý thức và tích cực giáo dục kĩ
năng sớng cho các em qua từng bài học, tiết học, nhằm giúp các em hiểu được ý nghĩa
của văn bản. Từ đó hình thành những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cần có trong cuộc
sống cho các em.


Do lượng kiến thức trong một tiết nhiều, cùng với tư tưởng “biết là được” mà
không quan tâm đến xem học sinh sẽ làm như thế nào của một số giáo viên, nên khi
thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn cứng nhắc, chỉ giáo dục theo kiểu
vấn đáp. Điều này thể hiện rõ ở việc học sinh biết nhưng khi làm thì khó thực hiện vì
thiếu kĩ năng trải nghiệm thực tế.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy việc kết hợp nhiều cách để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh trong tiết giảng dạy văn bản bộ môn Ngữ văn là vô cùng cần
thiết, và đem lại hiệu quả khá tốt. Đặc biệt nó giúp các em có cơ hội để trình bày
những quan điểm tư tưởng của mình một cách sâu sắc. Với cách giáo dục này giáo
viên sẽ biết học sinh hiểu vấn đề đến đâu, mặt khác các em hiểu vấn đề đặt ra trong bài
học sâu sắc hơn. Chính vì vậy tơi đã chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm tích hợp giáo


dục kĩ năng sống trong dạy học văn bản bộ môn Ngữ văn THCS” với mong muốn chia
sẻ một vài kinh nghiệm để các giáo viên cùng tham khảo.
Khi dạy một văn bản thông thường chúng ta có thể giáo dục cho học sinh nhiều
kĩ năng sống, nhưng một kĩ năng sống vô cùng quan trọng nó giúp giáo viên thực hiện
đúng mục tiêu giáo dục kĩ năng sống theo các trụ cột mà UNESCO đề ra đó là “Học
để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Ở đề tài
này tôi nghiêng về giáo dục cho học sinh các cách trải nghiệm thực tế. Từ những vấn
đề trong bài học tôi liên hệ với những vấn đề đang xảy ra trong đời sống để các em
trình bày quan điểm của mình. Từ đó tôi đinh hướng cho học sinh có cách giải quyết
đúng đắn và tích cực hơn cho phù hợp với thực tế.
Những cách tôi thực hiện chỉ là những kinh nghiệm mang tính cá nhân trong
quá trình giảng dạy. Chính vì vậy khơng thể tránh được những hạn chế, tôi mong nhận
được nhiều sự đóng góp kinh nghiệm của các đờng chí để đề tài này được hồn chỉnh
hơn.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài đưa ra là tích hợp giáo dục kĩ năng sớng trong dạy học văn bản bộ môn
Ngữ văn THCS nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, năng đợng, sáng tạo của học sinh

trong giảng dạy. Qua những hoạt động trải nghiệm, các em yêu thích hơn và có hứng
thú hơn với môn học. Từ đó cải thiện chất lượng môn Ngữ văn nói riêng và kết quả
học tập của các em nói chung.


Khi đặt ra đề tài: “Một vài kinh nghiệm tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong
dạy học văn bản bộ môn Ngữ văn THCS”, tôi muốn các đồng nghiệp chia sẽ cùng tôi
những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi
nhất, giúp các em u thích mơn học và đạt kết quả cao trong học tập. Các em vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn một cách hiệu quả, đồng thời giúp các em
phát triển nhân cách một cách tồn diện.
3. Đới tượng nghiên cứu:
Mợt vài kinh nghiệm tích hợp kĩ năng sớng trong dạy học văn bản môn Ngữ văn
trong trường THCS.
4. Giới hạn của đề tài:
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tơi chỉ tích hợp giáo dục một số kĩ năng sống
trong quá trình dạy học văn bản bộ môn Ngữ văn.
Phạm vi nghiên cứu: Học sinh các khối lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 tại trường
THCS Lê Văn Tám xã Bình Hòa huyện Krông Ana tỉnh Đắc Lắc.
Thời gian nghiên cứu trong vòng 3 năm từ năm 2016 đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:


- Phương pháp nghiên cứu cơ sở lí luận: Tìm hiểu các thông tin về các phương
pháp giáo dục kĩ năng sống thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thông
qua các buổi tập huấn bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ.
- Phương pháp quan sát: Thông qua các tiết học ở trên lớp, tôi quan sát hứng thú
học tập của học sinh, đồng thời kết hợp so sánh với các phương pháp khác để từ đó
chọn ra phương pháp phù hợp đem lại hiểu quả cao.

- Phương pháp đàm thoại: Tôi thường xuyên trao đổi với học sinh, lắng nghe ý
kiến của các em về các phương pháp mình đưa ra có phù hợp không để có sự điều
chỉnh cho phù hợp
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Dựa vào kết quả kiểm tra nói và viết của
học sinh để đánh giá phương pháp mình đưa ra sau đó đánh giá ưu điểm, nhược điểm
của từng phương pháp.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận:
Trong chiến lược phát triển giáo dục năm 2009-2020 (Dự thảo lần thứ 14, ngày
30/12/2008 của Bộ giáo dục và Đào tạo) nêu rõ: Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào
tạo con người phát triển toàn diện góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất
nước trong bới cảnh tồn cầu hóa, đờng thời tạo lập nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một
thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê


phán, sáng tạo, có kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng nghề nghiệp để làm
việc hiệu quả ở mơi trường tồn cầu hóa: vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Có thể khẳng
đinh rằng giáo dục kĩ năng sống được coi là nhiệm vụ quan trọng của mục tiêu giáo
dục nước nhà. Giáo dục kĩ năng sống còn góp phần vào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
Tở chức Y tế Thế giới WHO đinh nghĩa kĩ năng sớng là "Khả năng thích nghi
và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo dục tiểu học và giáo dục trung học,
kĩ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu
cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hóa; ví dụ c̣c sớng bao gờm quản lý tài chính (cá
nhân), chuẩn bi thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kỹ năng tổ chức…
Cũng theo WHO, kĩ năng sống được chia thành 2 loại là kĩ năng tâm lí xã hợi và
kĩ năng cá nhân, lĩnh hợi và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo,
giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình

huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận và phê phán, cách
quyết đinh, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết.
Kĩ năng sống thực chất là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình
và học để cùng chung sống”. Kĩ năng sống được hình thành không chỉ trong ngày
một ngày hai mà nó là một quá trình từ nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành


vi. Chính vì thế giáo dục kĩ năng sớng giúp học sinh thay đổi thái độ, dẫn đến thay đổi
nhận thức và hành vi, hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần phải được thực hiện linh hoạt
không nên cứng nhắc, hoặc ép buộc bắt người học phải nghe và làm theo như một
mệnh lệnh. Điều này dẫn đến hiệu quả sẽ không cao và không bền vững. Cần cho
người học có cơ hội trình bày quan điểm của mình, được trải nghiệm qua các tình
huống thực tế, từ đó các em có thể dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp
với thực tế c̣c sớng, để thích nghi và cùng chung sống.
Thực tiễn cho thấy người có kĩ năng sống tốt sẽ ứng phó tốt với những vấn đề
nảy sinh trong cuộc sống, ngược lại nếu chúng ta không có kĩ năng sống cơ bản sẽ dẫn
đến những hạn chế trong giao tiếp, hành xử với mọi người và nghiêm trọng hơn nó
còn dẫn đến những hậu quả xấu làm con người hoang mang, thụ động, cùng
quẫn...không tự tin vào bản thân.
2. Thực trạng:
Nhiều năm học trước, tôi dự giờ nhiều tiết dạy của giáo viên môn Ngữ văn và
nhận thấy rằng: Tuy các giáo viên đều thực hiện tốt phần liên hệ giáo dục để giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh nhưng chỉ dừng lại ở phần lí thút như: “Qua tình h́ng
trên em cần phải làm gì”? hay “Học xong văn bản trên em rút ra bài học gì cho
mình?”. Với cách hỏi này của giáo viên học sinh trả lời đúng như suy nghĩ của giáo
viên là đã hồn thành tớt phần kiểm tra của mình. Chính vì vậy học sinh ít được tham


gia vào những hoạt động trải nghiệm cụ thể. Học sinh khi được giáo dục kĩ năng sống

chỉ dừng lại ở mức độ biết, vì vậy khi gặp những tình huống phát sinh trong cuộc sống
các em thường rất lúng túng.
Mặt khác trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều. Một số vấn đề đặt ra
trong bài học còn xa, khó với nhận thức ở lứa tuổi của các em. Vì vậy các em chưa
biết giải quyết thế nào cho thỏa đáng, phù hợp với tình huống đặt ra, nên việc giáo dục
kĩ năng sống còn bi hạn chế.
Đứng trước thực trạng đó đòi hỏi người giáo viên phải có hướng dạy mới. Từ đó
tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp này để tạo cho các em có những suy nghĩ đúng
đắn, tích cực khi đưa ra nhận xét về các vấn đề mà bài học muốn đề cập tới. Biết vận
dụng những bài học vào trong thực tiễn c̣c sớng, để từ đó sớng tích cực hơn, đúng
đắn hơn, biết điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, cùng
chung sống với mọi người, xứng đáng là con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ,
không ngừng học tập rèn luyện để trở thành cơng dân có ích của xã hợi.
3. Nợi dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp:
Những giải pháp, biện pháp được nêu trong sáng kiến nhằm giúp học sinh được
trực tiếp tham gia vào các hoạt đợng khác nhau của nhà trường cũng như ngồi xã hội
với tư cách là chủ thể, qua đó phát triển năng lực thực tiễn và tiềm năng sáng tạo của
mình góp phần hình thành và phát triển nhân cách hài hòa, toàn diện cho học sinh.Vì


vậy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh mà đặc biệt là thông qua các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo vào nội dung chương trình dạy học văn bản môn Ngữ văn là việc làm
cần thiết. Thông qua các hoạt động trải nghiệm bản thân học sinh sẽ rút ra được những
kinh nghiệm, hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp các em có những ứng xử phù
hợp trong cuộc sống học tập và trong lao động.
b. Nội dung và hình thức của thực hiện giải pháp:
Bản thân tôi tự nhận thấy muốn hình thành kĩ năng sống cho người học thì mỗi
giáo viên cần có những kĩ năng sớng cơ bản và hồn thiện. Mỡi chúng ta phải không
ngừng trau dồi về mặt nhân cách, đạo đức, lới sớng, phẩm chất chính tri, theo đúng

ch̉n mực xã hội, để luôn xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Giáo
dục kĩ năng sống không chỉ là dạy học sinh biết, mà còn phải cho học sinh sự thuyết
phục từ chính những việc làm, nhân cách của mình. Có như vậy thì hiệu quả giáo dục
mới cao.
Qua dự giờ giáo viên trong trường cũng như thực tế kinh nghệm giảng dạy của
bản thân tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm về giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trong quá trình giảng dạy văn bản cụ thể như sau:
b.1. Đặt câu hỏi vấn đáp
Đây là cách giáo viên hay sử dụng trong quá trình giảng dạy hiện nay. Sử dụng
phương pháp này giáo viên sẽ dựa vào nội dung của bài rồi đặt câu hỏi và yêu cầu
học sinh trả lời.


* Ví dụ 1 : Khi dạy bài “Quê hương” của Tế Hanh( SGK –NV8- tập II).
GV: Có thể đặt câu hỏi như sau: Sau khi học xong văn bản em nhận thức được
điều gì?
HS có thể trả lời: Qua văn bản giúp em hiểu được tình yêu quê hương tha
thiết, trong sáng của nhà thơ. Qua đây nhắc nhở chúng ta tình yêu quê hương đất nước
là tình cảm không thể thiếu được đối với mỗi con người. Mỗi chúng ta cần trân trọng
phát huy tình cảm đó bằng những hành động cụ thể để góp phần xây dựng quê hương
mình ngày càng phát triển. Là học sinh em sẽ thể hiện tình cảm của mình bằng cách
học thật giỏi để góp phần xây dựng quê hương đất nước đẹp giàu. Em sẽ luôn ghi nhớ
quê hương là cái nôi sinh ta ra, và nuôi ta khôn lớn trưởng thành nên không được quên
tình cảm đó.
* Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Tức cảnh Pác Bo” của Hồ Chí Minh ( SGK Ngữ
văn 8- tập II)
Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Qua văn bản giúp em hiểu được
điều gì về Bác? Em học tập được gì từ Bác?
Học sinh: Qua văn bản giúp em hiểu được tinh thần lạc quan, yêu đời, tình yêu
thiên nhiên thiết tha của Bác. Đặc biệt bài thơ còn cho em thấy tình yêu nước thiết tha

của Bác. Bác đang toàn tâm, toàn ý lo cho sự nghiệp cứu nước của dân tợc. Bác ln
vượt lên chính mình, vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng, để lo cho nước cho dân.


Qua đây em nhận thức được cuộc sống của chúng ta luôn có những thuận lợi và
khó khăn. Mỗi chúng ta phải sống bằng tinh thần lạc quan, và luôn giữ vững niềm tin,
ý chí, phải có tình yêu với quê hương, đất nước, nhân loại. Có như vậy thì dù cuộc
sống có khó khăn đến đâu chúng ta cũng sẽ vượt qua được. Cũng giống như Bác được
hy sinh vì nước, vì dân là nguyên nhân chính để Bác thấy cuộc đời mình thật là vui, và
có ý nghĩa, giúp Bác vượt qua những khó khăn về vật chất.
Ưu điểm của cách này là dễ thực hiện và có thể áp dụng rộng rãi cho nhiều đối
tượng học sinh, kể cả học sinh yếu kém. Giáo viên sẽ không cần chuẩn bi nhiều. Học
sinh chỉ cần nắm chắc nội dung của bài là có thể liên hệ được. Với cách này giáo viên
cũng sẽ hình thành cho học sinh những kĩ năng sống nhất đinh
Hạn chế của cách này là dễ gây nhàm chán cho học sinh, vì chưa kích thích
được sự thích thú, sự tìm tòi, khám phá, nên với cách này thường không khắc sâu kiến
thức cho học sinh.
b.2. Sử dụng hình ảnh
Với cách này tôi sẽ sử dụng một số hình ảnh có liên quan đến nội dung của bài
để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh giúp học sinh được tương tác. Các em sẽ được
thể hiện ý tưởng của mình và xem xét ý tưởng của người khác. Được đánh giá và xem
xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác
thông qua việc trình bày quan điểm của mình qua các hình ảnh minh họa cho nội dung
của bài. Từ đó mà thay đổi hành vi của mình cho phù hợp


*Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Mẹ tôi” của Et- môn- đô A- mi-xi ( SGK Ngữ văn
7- tập I) đến phần liên hệ giáo dục tôi sẽ cho học sinh quan sát một số hình ảnh sau:

Hình 1: Khiêng mẹ và đồ đạc vứt ra đường


Hình 2: Bà mẹ đi nhặt phế liệu sau ba ngày bị nhốt và bỏ đoi


Hình 3:

Co ba đứa con trai bố mẹ vẫn phải ra chùa ở nhờ

Hình 4: Tranh biếm họa về lòng bất hiếu của con với bố mẹ


Giáo viên: Những hình ảnh trên cho em thấy điều gì?
Học sinh: Qua những hình ảnh trên cho ta thấy hồn cảnh khớn khở, đáng
thương của những người làm bớ làm mẹ cả một đời tần tảo nuôi con nhưng lúc về già
lại bi đối xử tệ bạc. Qua đây cũng cho thấy những đứa con thật là bất hiếu, sống không
có tình người. Mỗi chúng ta không khỏi cầm xót xa và căm phẫn khi được chứng kiến
những hình ảnh này.
Giáo viên: Từ nội dung của văn bản và qua những bức tranh đo em co suy nghĩ
gì?
Học sinh: Hành động của bạn En-ri-cô và những đứa con đối xử với cha mẹ như
trong hình ảnh là những hành động đáng lên án và bi pháp luật trừng tri. Mỗi chúng ta
cần phải hiểu rằng cha mẹ là những người đã sinh ra ta, và hy sinh cả cuộc đời vì
chúng ta. Nếu không có cha mẹ thì không có chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải
phụng dưỡng, biết ơn cha mẹ suốt đời đó mới đúng là đạo lí làm người, đúng với
truyền thớng của dân tộc ta. Chúng ta luôn phải ghi nhớ câu nói của tác giả “Tình
yêu thương và kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và
nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình yêu thương đo”.
Ông bà ta xưa cũng từng dạy ta rằng:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.



Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Ví dụ 2 . Khi dạy văn bản “Sông núi nước Namv” (SGK Ngữ văn 7- tập I)
Giáo viên: Sau khi học xong văn bản đến phần liên hệ giáo dục tôi sẽ cho học
sinh quan sát các hình ảnh sau:
Em hãy quan sát các hình ảnh sau và trả lời câu hỏi

Hình 5: Hình ảnh các bạn trẻ biểu tình đòi Trung Quốc rút khỏi giàn khoan

HD981 trả lại Trường Sa, Hoàng Sa cho Việt Nam


Hình 6: Buổi chào cờ của các bạn học sinh thể hiện lòng yêu nước
Giáo viên : Những hình ảnh đó nói lên điều gì?
Học sinh: Các bạn trẻ đang thể hiện tình yêu tổ quốc khi Trung Quốc muốn xâm
chiếm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Giáo viên: Vậy em sẽ làm gì sau khi học xong văn bản này và xem những hình
ảnh đó?
Học sinh: Đất nước ta đã được đã được độc lập, chúng ta có lãnh thổ riêng, điều
đó đã được Chủ tich Hờ Chí Minh khẳng đinh trong “Tun Ngơn Độc Lập”, và được
cả thế giới công nhận không thể chối cãi được. Dù kẻ thù vẫn luôn tìm mọi cách để
phá hoại nền hòa bình của chúng ta nhưng chúng ta không chiu khuất phục, không
chiu khoan nhượng. Là chủ nhân tương lai của đất nước chúng em sẽ bảo vệ nền hòa


bình để xứng đáng với sự hy sinh xương máu của cha anh đi trước như các bạn trẻ đã
làm. Chúng em sẽ không khuất phục bất cứ kẻ thù nào, để bảo vệ tồn vẹn lãnh thở
q hương Việt Nam

Với cách giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bằng những hình ảnh thực tế sẽ
tác động vào nhận thức của các em một cách sâu sắc, cho các em thấy được nội dung
giáo viên muốn truyền đạt qua bài học là gì.
b3. Trải nghiệm thực tê
Đây là cách giáo viên sẽ cho học sinh trải nghiệm vào những tình huống cụ thể
trong đời sống thông qua hoạt động ngoại khóa. Với cách này giáo viên sẽ phối hợp
với các tở chức, đồn thể trong nhà trường tở chức chương trình ngoại khóa. Với cách
giáo dục này tôi sẽ cho học sinh thực hiện bằng hai cách:
Cách 1: Học sinh sẽ dựng lại các văn bản đã được học bằng những vở kich cụ
thể: Sau khi học xong một số văn bản giáo viên sẽ phân công cho các nhóm, thuộc các
lớp cùng khối, mỗi lớp dựng lại một văn bản bằng vở kich. Giáo viên có thể lưu ý học
sinh không cần phải tuân theo nội dung của văn bản hồn tồn. Với mợt sớ văn bản có
thể biến tấu đi một vài chi tiết theo quan điểm của các em để nó có tính nhân văn hơn,
phù hợp hơn với thực tế xã hội ngày nay.
*Ví dụ: Tôi cho học sinh dựng lại văn bản Trong lòng mẹ (SGK Ngữ văn 8 ) ,
Cuộc chia tay của những con búp bê (SGK Ngữ văn 7) , hay văn bản Cô bé bán diêm
(SGK Ngữ văn 8) , văn bản Thạch Sanh (SGK Ngữ văn 6) …


Khi xem các em biểu diễn tôi đã thấy được tính sáng tạo mang đậm chất nhân
văn trong từng tác phẩm. Như văn bản “Trong lòng mẹ” trong truyện nhân vật người
cô là người luôn gieo vào đầu bé Hồng những điều không tốt về mẹ của Hồng. Nhưng
khi các em dựng lại văn bản lại có một kết thúc có hậu đó là người cô khi thấy thái
độ của Hồng với mẹ người cô đã ân hận vô cùng, xin lỗi bé Hồng và mẹ bé Hồng, và
hứa sẽ luôn yêu thương Hồng như con của mình.
Hay khi dựng lại văn bản “Cô Bé Bán Diêm” trong văn bản cô bé bán diêm
chết trong giá lạnh và trong sự vô tâm của mọi người. Nhưng khi đóng kich các em lại
biến tấu đi cho một kết thúc có hậu hơn đó là: thấy cô bé bán diêm một mình trong
đêm giao thừa như vậy, một nhóm bạn đang đi dạo cùng bố mẹ đã xúm lại hỏi thăm
rồi xin tiền mua hết diêm cho cô bé, có bạn còn xin bố mẹ giúp đỡ để cô bé có quần áo

mới, được ăn uống đầy đủ trong đêm giao thừa, và có một người mẹ cùng đi với con
còn nhận nuôi cô bé, cho cô được đi học như bao đứa trẻ khác.
Với cách giáo dục này tôi nhận thấy được sự sáng tạo, và gây được bất ngờ từ
học sinh. Dù có thể các vở kich không đúng với ngun bản của trụn, nhưng cái tơi
thấy được đó chính là những tình cảm mang đầy tính nhân văn của các em được gửi
gắm trong đó. Đây cũng là cách để hình thành cho các em những tình cảm tốt đẹp
trong cuộc sống của mình.
Cách 2: Tôi còn áp dụng cách giáo dục trải nghiệm thực tế khi dạy về chủ đề
“Người lính”:


Hoạt động 1: Giao nhiệm vụ cho HS chuẩn bi cho chủ đề “ Người lính”
* Thời gian chuẩn bi: 2 tuần
- Phân công nhóm, tìm kiếm thông tin
+ Nhóm 1: Vẽ tranh về đề tài người lính.
+ Nhóm 2: Thực hiện một số tiết mục văn nghệ hát - múa ca ngợi người lính.
+ Nhóm 3: Tiểu phẩm kich: “Chiếc lược ngà” (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên
của nhà văn Nguyễn Quang Sáng)
+ Nhóm 4: Sưu tầm phim tư liệu: Người lính qua các thời kì và lờng thút
minh.
- Xử lí thơng tin
- Xây dựng ý tưởng và hoàn thiện sản phẩm
Hoạt động 2: Học sinh báo cáo sản phẩm
 Cách thức tiên hành
Học sinh tiến hành “báo cáo” các hoạt động đã chuẩn bi theo kich bản như sau:
Kính thưa quý thầy cô giáo!
Thưa toàn thể các bạn học sinh.
Những năm gần đây, hoạt động dạy và học trong nhà trường không ngừng được
đổi mới. Trong quá trình học tập, chúng em không chỉ được thầy cô giảng dạy những



kiến thức bở ích từ những bài học hàng ngày trên lớp mà bên cạnh đó chúng em còn
được tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Đây là một trong những hoạt động
quan trọng giúp chúng em được trải nghiệm thực tế, được trực tiếp thể hiện quan
điểm của mình với những điều mà chúng em học được từ các bài học trên lớp.
Trong chương trình môn học Ngữ văn 9, chúng em đã được tìm hiểu nhiều tác
phẩm viết về người lính – những con người mà trước kẻ thù họ ln đồn kết chiến
đấu gan dạ, dũng cảm, vững chắc tay súng ( như trong “Đồng chí”, trong Bài thơ về
tiểu đợi xe khơng kính”) nhưng khi về với cuộc sống đời thường họ vẫn luôn thể hiện
được sự mộc mạc, giản di, tình cảm (như trong bài “Ánh trăng”, “Chiếc lược
ngà”..vv..
Với sự hướng dẫn của các thầy cô giáo bộ môn, hôm nay chúng em tiến hành
hoạt động trải nghiệm sáng tạo chủ đề về Người lính với các nợi dung sau đây:
+ Sưu tầm phim tư liệu (HS lồng tiếng thuyết minh)
+ Hoạt động văn nghệ: hát- múa về chủ đề người lính
+ Vẽ tranh : Người lính qua các thời kì
+ Tiểu phẩm kich : Chiếc lược ngà
Kính thưa quý thầy cô giáo!
Thưa toàn thể các bạn học sinh.


1/ Để mở đầu cho chương trình hơm nay kính mời các thầy cô giáo cùng các
bạn học sinh xem một đoạn phim tư liệu do các bạn học sinh Nhóm 1 sưu tầm và lồng
tiếng.
Xin mời đại diện nhom 1.
Đoạn phim tư liệu vừa rồi đã phần nào cho chúng ta cảm nhận được những
kho khăn gian khổ mà những người chiến sĩ cách mạng đã trải qua để làm nên những
mốc son choi lọi trong công cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù xâm lược bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ta.
2/ Tiếp theo chương trình là phần biểu diễn của các bạn học sinh Nhóm 2 với

tiết mục tớp ca “Lá xanh”, kính mời các thầy cơ và các bạn cùng theo dõi.
3/ Hình ảnh đẹp về người lính không chỉ đi vào thơ văn, trong các tác phẩm âm
nhạc mà ngày hôm nay đây chúng em cũng đã thể hiện những cảm nhận riêng của
mình, niềm tự hào về người lính qua mợt sớ tác phẩm tranh vẽ do các bạn học sinh
Nhóm 3 thực hiện. Xin mời đại diện nhom 3.
Kính thưa quý thầy cô giáo!
Thưa toàn thể các bạn học sinh.
4/ Dù trong chiến tranh hay trong thời bình, trong bất cứ hoàn cảnh nào người
chiến sĩ vẫn phải chắc tay súng bảo vệ từng tấc đất của quê hương, chủ quyền của
quốc gia dân tộc. Em đang nói đến hình ảnh những người chiến sĩ đang ngày đêm làm


nhiệm vụ ngồi đảo xa. Tiếp theo chương trình kính mời các thầy cô giáo và các bạn
cùng đến với tiết mục đơn ca “ Nơi đảo xa” do bạn Thanh Hào thể hiện.
5/ Quay lại với đất nước trong những năm 1960, khi đất nước bi chia cắt,
những người lính ra trận phải bỏ lại sau lưng là mẹ già, con thơ. Thời gian và chiến
tranh không chỉ làm cho họ phải chiu những nỗi đau về thể xác mà còn đưa họ vào
những hoàn cảnh éo le ngang trái, nỗi đau về tâm hồn.
Anh Sáu ra đi chiến đấu khi đứa con chưa đầy một tuổi, 8 năm sau, khi anh trở
về thì bé Thu đã lớn… bao nhiêu trông mong chờ đợi được ôm đứa con yêu vào lòng
nhưng….. bé Thu đã không nhận cha…, câu chuyện đã làm lay động biết bao trái tim
về tình cha con sâu sắc.
Tiếp theo chương trình kính mời các thầy cô giáo và các bạn cùng đến với tiểu
phẩm kich “ Chiếc lược ngà” chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng. Xin mời phần thể hiện của Nhom 4
6/ Những bài học trong chương trình Ngữ văn lớp 9, đã cho chúng em có được
những hiểu biết về người lính, chúng em rất tự hào và biết ơn về những người chiến
sĩ cách mạng – những người đã phải chiu những mất mát hy sinh để đất nước chúng ta
tươi đẹp được như ngày hôm nay. Chúng em hôm nay nguyện phấn đấu để viết tiếp
những trang sử vẻ vang của dân tộc mà các thế hệ cha anh đã để lại.

Tiếp theo chương trình là tiết mục múa “Linh thiêng Việt Nam” do các bạn học
sinh Nhóm 2 biểu diễn.


Kính thưa quý thầy cô giáo!
Thưa toàn thể các bạn học sinh.
Phần hoạt động trải nghiệm sáng tạo của chúng em đến đây là hết. Chúng em
xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã về dự hôm nay

Hải Lý

Hình ảnh 7: Học sinh nhom 2 múa: “Linh thiêng Việt Nam”


Hình ảnh 8: Học sinh nhom 1 thuyết trình sản phẩm vẽ.

Hình ảnh 9: Học sinh nhom 3 thực hiện tiểu phẩm kịch “Chiếc lược ngà”
(chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng).


Tôi áp dụng cách giáo dục trải nghiệm thực tế khi dạy các văn bản nhật dụng.
Ví dụ khi dạy văn bản “Thông tin về ngày trái đất năm 2000”
Để tiến hành các hoạt động dạy- học tôi tổ chức theo tiến trình sau :
Bước 1. Giáo viên giao nhiệm vụ: (học sinh tiên hành trong hai tuần)
Tôi tiến hành phân nhóm và giao việc cho từng nhóm học sinh như sau:
* Nhom 1: Tìm hiểu thông tin từ Internet. Gồm các thông tin sau:
- Lich sử Ngày Trái Đất
- Thực trạng việc sử dụng bao bì ni lông ở Việt Nam và thế giới
* Nhom 2: Điều tra thực tế sử dụng bao bì ni lông ở đia phương (xã Bình Hòa–
huyện Krông Ana – tỉnh Đăk Lăk) – Yêu cầu các em chụp ảnh những hình ảnh mà các

em cho là quan trọng và cần thiết.
* Nhom 3: Tra cứu tài liệu, vận dụng các kiến thức liên mơn Hóa học, Sinh học,
Vật lí để viết bản tởng hợp về tác hại của bao bì ni lông
* Nhom 4: Nghiên cứu văn bản, tài liệu, thực tế cuộc sống … để đề xuất giải
pháp cho việc sử dụng bao bì ni lông.
Bước 2. Báo cáo sản phẩm trên lớp :
Hoạt động 1 : Giáo viên giới thiệu bài, mục đích, yêu cầu và phương pháp của
bài học. Hướng dẫn HS đọc –tìm hiểu chung về văn bản.


×