Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TỔNG QUAN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC, TÔN GIÁO, KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.5 KB, 12 trang )

Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC, TÔN GIÁO, KHOA HỌC
1. Tổng quan chung về triết học
1.1 Triết học là gì? đối tượng nghiên cứu
Sau hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, khái niệm triết học, đối tượng nghiên cứu của triết
học cũng được hiểu không như nhau theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
Vào thời kỳ cổ đại: đối tượng nghiên cứu của Triết học là tri thức thuộc mọi lĩnh vực.
“Người Trung Quốc coi triết học là sự truy tìm bản chất, là sự thấu hiểu căn nguyên của
sự vật, sự việc”3. Theo người Ấn Độ, “triết học là con đường suy ngẫm dẫn dắt đến lẽ
phải, đến những chân lý siêu nhiên”4. Người Hy Lạp thì cho rằng “triết học là sự ham hiểu
biết, u thích sự thơng thái”5.
Như vậy, theo quan điểm truyền thống “triết học là môn học về lý trí, giúp con người
nâng cao và sử dụng lý trí một cách hiệu quả để thấu hiểu bản chất của vạn vật và hành
động đúng đắn trong thế giới” 6.
Vào thời kỳ trung cổ: ở Tây Âu, triết học trở thành bộ môn của thần học. Triết học giai
đoạn này là “thứ triết lý của các cha cố, là triết học kinh viện phục vụ cho thần học của
nhà thờ, hạ thấp lý trí để nâng cao lịng tin, thủ tiêu khoa học”7.
Vào thời kỳ phục hưng-cận đại: Vào thời kỳ phục hưng, quan điểm xem triết học là
“người mẹ” của các ngành khoa học được khôi phục lại. Sang đầu thời kỳ cận đại, triết
học được xem là “khoa học của các khoa học”. Triết học Hegen -đỉnh cao của Triết học cổ
điển Đức, là “hệ thống Triết học “khoa học của các khoa học” đồ sộ nhất và cuối cùng của
lịch sử”8.
Vào cuối thời kỳ cận đại: Quan điểm coi triết học là “ khoa học của các khoa học” đã trở
nên lạc hậu, nó ngăn cản sự phát triển của khoa học tự nhiên. “Chủ nghĩa thực chứng xuất
hiện, kịp thời để hướng dẫn các ngành khoa học phát triển” 9. “Chủ nghĩa thực chứng cho
rằng triết học thật sự không giải quyết vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, khơng tìm
hiểu thế giới để xây dựng thế giới quan mà nó phải giải quyết các vấn đề khả năng, hình
thức, cách thức tăng trưởng tri thức của khoa học để thúc đẩy sự phát triển của khoa học


và xã hội…..”10.
Vào đầu thời kỳ hiện đại: nhằm phục vụ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và sự phát
triển của khoa học tự nhiên, triết học Macxít đã ra đời. “Triết học Mácxít xác định đối

Thực hiện:

Trang 1


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên
lập trường duy vật và quan điểm thực tiển; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy; từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người nhằm cải tạo tự nhiên - xã hội phục vụ cho lợi ích của con người” 11.
Mặc dù các thời đại lịch sử khác nhau đã hình thành nên những quan điểm khác nhau về
triết học, đối tượng nghiên cứu của triết học, tuy nhiên, các quan điểm này đều có một số
điểm chung là “Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về bản thân con người, và về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó” 12.
Như vậy, triết học có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt:
Triết học cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác là phản ánh tồn tại xã hội. Tuy
nhiên, cách phản ánh tồn tại xã hội của triết học cũng khác hình thái ý thức xã hội khác là
nó “phản ánh tồn tại xã hội bằng một hệ thống phạm trù (trừu tượng, khái quát), mang
tính đảng (trên nền tảng duy vật hay duy tâm, dựa trên lợi ích của giai cấp, tầng lớp này
hay giai cấp tầng lớp nọ)”13.
+ Triết học là thái độ của con người đối với hiện thực:
Nó giúp cho giai cấp, tầng lớp mà nó đại diện hiểu được lợi ích, vai trị, sứ mạng lịch sử

để trở thành chính mình trong xã hội.
+ Triết học là học thuyết về thế giới chỉnh thể:
Triết học dựa trên lý trí, đào sâu lý trí để đem lại những tri thức đặc biệt cho con người.
Triết học kết hợp trong mình những tri thức tổng quát với những giá trị chung.
1.2 Vấn đề cơ bản của triết học
“Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức” 14.Vấn đề
này có hai mặt:
Mặt bản thể luận: Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, giữ vai trị quyết định?.
Mặt nhận thức luận: “Con người có khả năng nhận thức thế giới được hay không?” 15.
Về mặt bản thể luận: những nhà Triết học theo chủ nghĩa nhất nguyên cho rằng một trong
hai yếu tố có trước và giữ vai trị quyết định đối với cái còn lại. Chủ nghĩa nhất nguyên
duy vật cho rằng vật chất có trước và giữ vai trị quyết định đối với ý thức. Chủ nghĩa
nhất nguyên duy tâm thì cho rằng ý thức có trước và giữ vai trò quyết định đối với vật

Thực hiện:

Trang 2


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

chất. Trong khi đó, chủ nghĩa nhị nguyên thì cho rằng vật chất có trước quyết định mọi
hiện tượng vật chất, ý thức có trước quyết định mọi hiện tượng tinh thần.
Tuy nhiên, chủ nghĩa thực chứng luận thì cho rằng vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức là giả dối, chủ nghĩa nhất nguyên và nhị nguyên đều là siêu hình học viển vông.
Về mặt nhận thức luận: thuyết bất khả tri cho rằng con người không thể nhận thức được
thế giới. Thuyết khả tri thì cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới.
1.3 Vấn đề bản tính thế giới:

“Vấn đề bản tính thế giới là vấn đề về phương thức tồn tại của vạn vật trong thế giới” 16.
Vấn đề này có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: “Các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau hay có
liên hệ, ràng buộc lẫn nhau?”17.
+ Mặt thứ hai: “Các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái đứng im, bất
động hay khơng ngừng vận động, biến đổi?”18.
Phép siêu hình cho rằng mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt và
đứng yên, bất động. Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới tồn
tại có liên hệ, ràng buộc lẫn nhau và luôn vận động, thay đổi.
“Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình”19. Thơng qua cuộc đấu tranh này mà chủ nghĩa duy
tâm ngày càng thông minh hơn, chủ nghĩa duy vật ngày càng biện chứng hơn, phép siêu
hình ngày càng tinh vi hơn và phép biện chứng ngày càng mềm dẻo, uyển chuyển hơn.
“Thông qua cuộc đấu tranh này mà tư duy lý luận ngày càng được phát triển hoàn thiện
hơn”20.
1.4 Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Triết học đóng vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội. Vai trò của triết học đối với
đời sống xã hội được thể hiện thông qua các chức năng của nó.
+ Chức năng thế giới quan
“Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó”21.
Triết học là cơ sở vũ trụ quan, cơ sở ý thức hệ và cơ sở nhân sinh quan.

Thực hiện:

Trang 3


Đề tài: M


ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

Triết học góp phần truy tìm lời giải cho hệ vấn đề về bản thể vũ trụ, cho hệ vấn đề về xã
hội, các giai tầng trong xã hội và “cho hệ vấn đề về đời người, về sự sống, cái chết, về
hạnh phúc, khổ đau”22. “Triết học góp phần hướng dẫn hành vi con người xuyên qua
những xung đột nhân cách, những ràng buộc lợi ích để vươn lên trở thành con người chân
chính trước những cạm bẫy của đời thường” 23.
+ Chức năng phương pháp luận
Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận thông qua việc giúp con người tìm tịi,
xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Bên cạnh đó, triết học cịn là phương pháp luận phổ biến, hướng dẫn hành vi con người
trong hoạt động thực tiễn và nhận thức.
+ Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể
Triết học là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận chung cho các ngành khoa học cụ
thể; là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt
được, cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học
cụ thể.
+ Vai trò của triết học đối với tư duy lý luận
Triết học có vai trị to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy lý luận của con người. “Một
dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý
luận”24. Muốn nâng cao trình độ tư duy lý luận khơng có cách nào khác hơn là nghiên cứu
tồn bộ lịch sử triết học thời trước.
2. Tổng quan chung về tôn giáo:
2.1 Khái niệm tôn giáo:
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được các nhà nghiên cứu về tôn giáo tranh cải rất
nhiều. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
“Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”25.
Theo quan điểm của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái
tim của thế giới khơng có trái tim, nó là tinh thần của trật tự khơng có tinh thần” 26.


Thực hiện:

Trang 4


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

Theo quan điểm của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu
óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày
”27.
Các nhà nghiên cứu về tôn giáo gần đây cũng đưa ra quan điểm về tôn giáo như sau:
“Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lịng tin và sùng bái thượng
đế, thần linh”28.
Tôn giáo là “niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi thế
giới tự nhiên” “của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và
lễ nghi” 29.
“Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vơ hình, mang tính thiêng liêng, được
chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn
đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ
thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hồn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội
dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau
của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau” 30.
Qua các khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy tơn giáo có một số đặc trưng cơ bản
sau đây:
+ Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội:
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư
ảo hiện thực khách quan. Điều này được Ph. Ăngghen nêu: “mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là
sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi

phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”31.
+ Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử:
Trong các tác phẩm của mình “C. Mác cho rằng con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn
giáo không sáng tạo ra con người”32. Tơn giáo là một thực thể khách quan của lồi người

Thực hiện:

Trang 5


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

nhưng lại là một thực thể có nhiều quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức
biểu hiện. Về mặt nội dung, nội dung cơ bản của tơn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác
động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối
làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện
bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ….
+ Khi nói đến tơn giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới thực và hư, của hai tính
thiêng và tục và giữa chúng khơng có sự tách bạch.
2.2 Nguồn gốc của tơn giáo:
Nghiên cứu nguồn gốc của tôn giáo, “C.Mác cho rằng: con người sáng tạo ra tôn giáo chứ
không phải tôn giáo sáng tạo ra con người. Nhưng, theo C.Mác, không phải là con người
trừu tượng mà chính là thế giới những con người, là Nhà nước, là xã hội” 33 đã sản sinh ra
tôn giáo. Các nguồn gốc của tôn giáo bao gồm:
+ Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo:
Những hạn chế hiểu biết không lý giải được, sự bất lực của con người trước sức mạnh của
tự nhiên (trong xã hội cộng sản nguyên thủy), những bất lực, bị động của con người trước

những lực lượng nảy sinh trong lịng xã hội (áp bức chính trị, bất công xã hội, thất vọng
của giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh giai cấp) là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
+ Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Tơn giáo chỉ có thể ra đời khi con người đã đạt tới một trình độ nhận thức nhất định.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của q trình nhận thức. Đó
là một q trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một cách biện chứng giữa nội
dung khách quan và hình thức chủ quan. “Tính phức tạp của q trình nhận thức đã tạo ra
khả năng xuất hiện các quan niệm sai lầm mang tính hư ảo của tơn giáo”34.
“Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm chính là
sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái

Thực hiện:

Trang 6


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

khơng cịn nội dung khách quan, khơng cịn cơ sở “thế gian”, nghĩa là cái siêu nhiên thần
thánh”35.
+ Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
“Vấn đề ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, tình cảm của con người đối với sự ra đời và tồn tại
của tôn giáo đã được các nhà vô thần cổ đại nghiên cứu. Họ thường đưa ra những luận
điểm: “sự sợ hãi sinh ra thần linh”. Lênin tán thành và phân tích thêm: “Sự sợ hãi trước
thế lực mù quáng của tư bản – mù qng vì quần chúng nhân dân khơng thể đốn trước
được nó – là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ,
cũng đe dọa đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”,
“ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần

cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn
giáo hiện đại”36.
“Nhưng không phải chỉ có sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội mới
dẫn con người đến nhờ cậy ở thần linh, mà ngay cả những tình cảm tích cực như lịng biết
ơn, sự kính trọng, tình yêu thương… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và
con người với con người cũng được thể hiện qua các hình thức tín ngưỡng, tơn giáo” 37.
2.3 Chức năng của tơn giáo:
Tơn giáo cũng có những chức năng nhất định đối với đời sống xã hội. Chức năng của tôn
giáo gồm:
+ Chức năng thế giới quan:
“Mỗi tơn giáo, để trở thành một tơn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi: thế giới này
(kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy luật nào? Đằng
sau cái thế giới hữu hình này là cái gì? Có thể nhận thức được không?... Dù phản ánh hư
ảo thế giới khách quan nhưng tơn giáo ln có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của con người về
nhận thức thế giới: tự nhiên, xã hội và chính con người”38.
+ Chức năng đền bù hư ảo:

Thực hiện:

Trang 7


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

Trong thế giới đời thường, khi con người khơng tìm được lời giải thích chính xác về
ngun nhân của một số hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, những bất bình đẳng xã hội
cũng như bất lực trong cuộc đấu tranh giai cấp và chưa tìm được một chân lý – chân lý
cách mạng – có thể tìm thấy trong tôn giáo những giải đáp làm nguôi ngoai đi những khổ

đau và ấp ủ một hi vọng hư ảo. “Đó là sự cứu rỗi của Chúa nhân từ, của Đức Phật từ bi,
sự thưởng phạt công minh đối với hành vi của mỗi người ngay trên trần thế, và khả năng
đến được cõi hạnh phúc, vĩnh hằng (Thiên đường, Niết bàn…). Sự đền bù hư ảo của tôn
giáo lại có tác dụng hiện thực, bởi nhờ có nó mà con người trong những lúc khổ đau tuyệt
vọng nhất vẫn được an ủi và vẫn nuôi một hi vọng vượt qua, hạn chế được những hành vi
vô nghĩa hoặc tai hại cho đồng loại”39.
+ Chức năng điều chỉnh:
“Tôn giáo đã tạo nên hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức” 40. Những chuẩn mực
này khơng chỉ duy trì trong q trình thực hiện các nghi thức tơn giáo mà cịn điều chỉnh
hành vi của mỗi tín đồ trong đời sống gia đình cũng như ngồi xã hội.
+ Chức năng liên kết:
Chức năng liên kết của tôn giáo thể hiện ở khả năng liên kết những người cùng tín
ngưỡng vì họ có chung một niềm tin, cùng bị ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật, nghi thức
tơn giáo. Đó là một sự liên kết rất chặt chẽ và lâu bền. “Tuy nhiên, đôi khi tôn giáo cũng
bị lợi dụng để phục vụ cho âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đồn kết tồn dân tộc. Vì vậy,
bên cạnh chức năng liên kết, tơn giáo cũng có khả năng bị phân ly vì sự khác biệt tín
ngưỡng”41.
3. Tổng quan chung về khoa học
3.1 Khái niệm khoa học:
Thuật ngữ khoa học được sử dụng rất phổ biến trong cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa khoa học.

Thực hiện:

Trang 8


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học


Theo từ điển Larousse (2002) của Pháp định nghĩa: “Khoa học là một tập hợp tri thức đã
được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và hiện tượng tuân theo một
quy luật xác định”42.
Theo từ điển Triết học của Liên Xô (bản tiếng Việt, 1975) định nghĩa: “Khoa học là lĩnh
vực hoạt động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư
duy bao gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất này”43.
Từ điển Bách khoa tồn thư của Liên Xơ (1986) định nghĩa: “Khoa học là lĩnh vực hoạt
động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa về mặt lý thuyết các tri thức
khách quan”, “Là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao gồm trong đó cả những
hoạt động nhằm thu nhận các kiến thức mới, và cả những kết quả của các hoạt động đó”44.
Từ điển MacMillan English Dictionary for Advanced Learners (2006) định nghĩa: “Khoa
học là một hoạt động nghiên cứu và kiến thức về thế giới vật lý và hành vi của nó, dựa
trên các thực nghiệm và các sự kiện được kiểm chứng và được tổ chức thành hệ thống” 45.
Theo điều 2 Luật khoa học công nghệ, thuật ngữ khoa học được định nghĩa như sau:
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Qua các định nghĩa trên, chúng ta thấy, về cơ bản, khoa học có một số đặc trưng sau đây:
+ Khoa học là hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội và con người được
tích lũy trong quá trình lịch sử:
Những hiểu biết ban đầu về thế giới khách quan của con người thường mới chỉ là các kiến
thức dưới dạng kinh nghiệm về từng mặt, từng thuộc tính riêng lẻ của từng sự vật, từng
hiện tượng. Cùng với sự phát triển của lịch sử, khoa học không ngừng được bổ sung, hoàn
chỉnh, dần dần trở thành một hệ thống các tri thức ngày càng chân thực về thế giới khách
quan dưới dạng trừu tượng – logic. Tập hợp các tri thức đó có mối quan hệ mật thiết với
nhau và khoa học với tư cách là một hệ thống chỉnh thể các tri thức của nhân loại đã ra

Thực hiện:

Trang 9



Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

đời. Khoa học được chia làm hai lĩnh vực, đó là khoa học tự nhiên; khoa học xã hội và
nhân văn.
+ Khoa học là một hình thái ý thức xã hội:
Là một hình thái ý thức xã hội, khoa học có quan hệ biện chứng với tồn tại xã hội và với
các hình thái ý thức xã hội khác. Tuy nhiên, điều khác nhau căn bản giữa khoa học và các
hình thái ý thức xã hội khác là ở chỗ: trong các hình thái ý thức xã hội khác, nhận thức lý
tính về sự tồn tại và về thế giới nói chung được sắp xếp một cách có hệ thống là mục đích
thứ yếu, thì trong khoa học đó lại là mục đích chủ yếu. Khoa học đóng vai trị như là tiền
đề, cơ sở cho việc hình thành và phát triển các hình thái ý thức xã hội khác. Các hình thái
ý thức xã hội khác lại có quan trọng ở những mức độ khác nhau đối với việc khám phá,
truyền bá, ứng dụng các tri thức khoa học, nhờ đó mà có tác động đến khoa học nói
chung.
+ Khoa học là một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp xã hội:
Sự phát triển của xã hội đã làm thay đổi hoạt động khoa học từ chỗ đơn lẻ, mang tính cá
biệt của một hay một nhóm các nhà khoa học đến chỗ nó ngày càng trở thành nhu cầu
không thể thiếu được của hoạt động sản xuất nói riêng và của nhân loại nói chung. Lao
động khoa học là sáng tạo, tìm tịi, phát hiện ra các tri thức mới về quy luật của sự vận
động của thế giới, về giải pháp, về những con đường, những biện pháp tác động ngày
càng có hiệu quả vào thế giới khách quan…đã thực sự trở thành nghề nghiệp đặc thù.
Bên cạnh khái niệm khoa học, khái niệm bức tranh khoa học cũng xuất hiện và cũng được
sử dụng nhiều trong thời gian gần đây.
“ Bức tranh khoa học là một mơ hình tư tưởng của khoa học về thế giới mà trong đó,
những đặc trưng về cấu trúc, tính chất và quy luật vận động, phát triển của thế giới được
thể hiện như một chỉnh thể thống nhất”46 .


Thực hiện:
10

Trang


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

“Để xây dựng bức tranh khoa học cần phải tiến hành một q trình hệ thống hóa, tích hợp
tri thức của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội-nhân văn, khoa học về con
người thậm chí cả các ngành khoa học kỹ thuật”47.
3.2 Vai trò của khoa học trong đời sống xã hội:
Khoa học tự nhiên giúp con người nắm bắt được quy luật vận động của tự nhiên, từ đó
khai thác lợi ích và giảm thiểu các thiệt hại do thiên tai gây ra. Bên cạnh đó, khoa học tự
nhiên tạo ra nhu cầu và cung cấp các tri thức, phương tiện làm việc, hậu thuẫn cho sự phát
triển của khoa học xã hội.
Khoa học xã hội chỉ cho con người phương thức hợp tác với nhau để lao động và sinh
sống ngày một tốt hơn. Nó chỉ cho con người cách đấu tranh giành thắng lợi trong các
cuộc đối kháng bao gồm: đấu tranh giai cấp, đấu tranh giành độc lập dân tộc, đấu tranh
địi quyền bình đẳng…
Ngồi ra, khoa học xã hội cịn chỉ cho con người cách cảm thụ cái đẹp, cách thức làm
việc, lao động, giải trí, cảm nhận và hưởng thụ nghệ thuật…
Khoa học xã hội cịn có sức mạnh to lớn, làm thay đổi nhận thức, hành động và ý chí, tình
cảm của con người.
3.3 Lịch s ử phát triển của khoa học
Lịch sử phát triển của khoa học có thể được chia thành ba giai đoạn sau:
- “Giai đoạn một, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thế kỷ XV” 48 . Trong thời kỳ cổ đại,

khoa học rất sơ khai bó hẹp trong một số lĩnh vực như thiên văn, toán học, cơ học.
Thời kỳ phong kiến, khoa học bị cấm đoán bởi thần quyền, vai trò của khoa học
trong xã hội phong kiến khá hạn chế.
- “Giai đoạn hai, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV cho hết thế kỷ XIX” 49 . Giai đoạn này
chia thành hai thời kỳ:
“Thời kỳ thứ nhất, mở đầu bằng học thuyết của Cơpécních và kết thúc bằng định
luật cơ học của Niutơn”

Thực hiện:
11

50

(thế kỷ XV – XVIII). Đặc điểm của thời kỳ này là khoa học

Trang


Đề tài: M

ối quan hệ giữa Triết học và tôn giáo, khoa học

đi sâu vào nguyên cứu từng mặt, từng lĩnh vực cụ thể của hiện thực.Trong giai đoạn này
phương pháp tư duy siêu hình giữ vai trị thống trị. Cơ học cổ điển phát triển rất mạnh,
các khoa học khác đang trong quá trình hình thành.
“Thời kỳ thứ hai, mở đầu bằng học thuyết của Cantơ, kết thúc bởi học thuyết của
Lômônôxốp” 51 (từ nữa sau thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX). Đặc điểm của thời kỳ này
là khoa học phát triển theo hướng phá vỡ quan niệm cô lập bất biến về đối tượng nguyên
cứu của các bộ môn khoa học, gạt bỏ sự sáng tạo của chúa ra khỏi khoa học, khoa học
phát triển trong mối quan hệ chặt chẻ với sản xuất. Trong giai đoạn này, phương pháp tư

duy biện chứng đóng vai trị thống trị.
- “Giai đoạn ba (Thế kỷ XX)” 52 : Đặc điểm của giai đoạn này không chỉ là sự tiến bộ
rất nhanh chóng của khoa học mà cịn là sự gia tăng vai trò xã hội của khoa học.
Lịch sử khoa học, đặc biệt trong khoảng 30 năm gần đây, q trình phân chia các mơn
khoa học về tự nhiên (lý, hóa, sinh, địa chất, thiên văn) đã trở thành một thể tổng hợp của
ngành tri thức phong phú, mà mỗi ngành tri thức đó là một khoa riêng biệt. Do đó, đã
hình thành nên những ngành tri thức tiếp giáp và chúng có vai trị ngày càng quan trọng
(Sinh-hóa học, địa- vật lý, . .. ), q trình này cũng diễn ra trong các môn khoa học xã
hội.

Thực hiện:
12

Trang



×