Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thông qua tiết ôn tập môn Toán lớp 9 tại trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.09 KB, 53 trang )

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thơng
qua tiết ơn tập mơn Toán lớp 9 tại trường THCS

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những thành tố cơ bản và trọng yếu của đổi mới giáo dục là
công tác đổi mới phương pháp dạy – học. Chỉ có đổi mới phương pháp dạy –
học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục.
Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy – học là hướng tới hoạt động học
tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động , được tổ chức thông qua
phương pháp dạy học tích cực mà đặc trưng của nó là:
- Dạy – học thơng qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Dạy – học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
Trong dạy – học mơn Tốn, việc tổ chức tốt tiết dạy – học ơn tập chương,
hay ơn tập tồn chương trình mơn học của một khối lớp là cực kỳ quan trọng. Tiết
dạy – học ôn tập giúp học sinh hệ thống lại kiến thức của từng phần, từng chương
từ đó vận dụng vào giải quyết các vấn đề tốn học mới được đặt ra. Tiết dạy – học
ơn tập là một mơ hình thể hiện năng lực chun mơn Tốn học.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
1


Việc đổi mới phương pháp dạy - học, phương pháp đánh giá phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay, giáo viên gặp khơng ít khó khăn khi lựa chọn phương
pháp, tình huống thích hợp để giải quyết vấn đề. Với việc giảng dạy mơn Tốn nói
chung và việc dạy một tiết ơn tập nói riêng thì việc lựa chọn phương pháp, tình
huống để giải quyết vấn đề mà một tiết ôn tập yêu cầu không phải là điều đơn
giản.
Với thời đại hiện nay dạy học khơng cịn là q trình truyền thụ, chuyển


giao kiến thức mà phải là một quá trình tổ chức, định hướng giúp người học từng
bước có năng lực tư duy và năng lực hành động nhằm chiếm lĩnh các giá trị tinh
thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa; trên cơ sở đó có khả năng giải
quyết được các bài tốn thực tế trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học. Đó
chính là lí do và cũng là mục đích của quan điểm "Lấy người học làm trung tâm".
Tư tưởng xem người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình học tập đã
được đề xướng từ lâu. Ở thế kỉ XVII A.Kơmenski đã viết: "Giáo dục có mục đích
đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đốn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra
phương pháp cho phép GV dạy ít hơn, HS học nhiều hơn". Cách đây khoảng 30
năm (1991), R.R.Singh cũng đã viết: "Làm thế nào cá thể hóa q trình học tập để
cho tiềm năng của mỗi cá nhân được phát triển đầy đủ đang là một thách thức chủ
yếu đối với giáo dục". Ở nước ta, với khẩu hiệu "Biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo", học sinh là trung tâm đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ
những năm 1960. Tuy nhiên, thuật ngữ "Dạy học lấy người học làm trung tâm"
chỉ mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến trong những năm gần đây. Theo đó,
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
2


bên cạnh xu hướng truyền thống thiết kế chương trình giảng dạy lấy logic nội
dung môn học làm trung tâm đã xuất hiện xu hướng thiết kế chương trình học tập
lấy nhu cầu, lợi ích của người học làm trung tâm.
Phát triển các phương pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác có ý nghĩa
khơng chỉ trong q trình học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho các em tâm
thế tốt để chuẩn bị cho tiền đồ của chính các em và đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng đất nước sau này.
Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản
sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại,
phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi
dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:

hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích
phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hồn
thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó khăn…Tính tích cực
học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tịi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
3


Là giáo viên dạy tốn ở trường THCS tơi nghĩ cần phải nghiên cứu làm thế
nào để học sinh ngày càng phát triển về tư duy logic, tự chủ trong việc ơn tập kiến
thức, kích thích trí tị mị, tính tích cực học tập, óc sáng tạo thơng qua các dạng
bài tập, các câu hỏi trắc nghiệm mà học sinh được tiếp cận, được tìm tịi thơng
qua tiết ơn tập.
Kiến thức trong các tiết ôn tập thường dài và đa dạng nếu giáo viên và học
sinh không chuẩn bị chu đáo các đơn vị kiến thức cần nắm trong một chương,
trong một học kỳ và các phương tiện dạy học phù hợp nhằm giúp tiết kiệm thời
gian thì rất khó có thể hồn thành được nội dung bài ơn tập một cách trọn vẹn.
Trong các tiết ôn tập giáo viên ln đóng vai trị là người tổng hợp kiến thức
đã học thơng qua hình thức vấn đáp hoặc là giải bài tập, học sinh là người lãnh
hội kiến thức và trả lời các câu hỏi, giải các bài tập của giáo viên. Tuy nhiên nếu
học sinh học tập theo hình thức thụ động thì sẽ gây cho học sinh tâm lý nhàm
chán, vậy làm thế nào để học sinh phát huy tích tích cực học tập của bản thân
trong việc lĩnh hội kiến thức, nâng cao chất lượng học tập đối với tất cả các môn
học. Từ thực tế dạy học ở trường THCS Lương Thế Vinh tôi thấy cần bổ sung

thêm một số phương pháp dạy học sáng tạo hơn nữa của giáo viên giúp học sinh
tích cực học tập nâng cao vai trị tự học, thích thú học tập bộ mơn. Vì vậy tơi
mạnh dạn đề xuất “Một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh thơng qua tiết ơn tập mơn Tốn lớp 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh –
Huyện Krông Ana –Tỉnh Đắk Lắk”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
4


2.1. Mục tiêu
- Giúp học sinh có cái nhìn tổng quát hơn trong việc tổng hợp kiến thức của
từng bài, từng chương thơng qua hình thức giao nhiệm vụ.
- Rèn cho học sinh khả năng tư duy, khả năng tự học và tự mình kiểm tra
được mức độ tiếp thu kiến thức thông qua việc trả lời các câu hỏi, các bài tập do
bản thân hoặc các học sinh khác đặt ra. Từ đó giáo viên và học sinh có những điều
chỉnh phù hợp trong việc truyền đạt và lĩnh hội kiến thức của mơn học.
- Mặt khác khuyến khích học sinh phát huy tính tích cực học tập, tìm tòi
các câu hỏi, các bài tập phù hợp cho từng đơn vị kiến thức vừa được lĩnh hội và
các phương án trả lời khác nhau cho các bài tập hoặc cho các câu hỏi được đặt ra
để tổng hợp được kiến thức cơ bản, trọng tâm sau mỗi bài học hoặc mỗi chương
trong chương trình tốn lớp 9 cấp THCS.
2.2. Nhiệm vụ
Đề ra một số giải pháp, biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh qua tiết ơn tập mơn Tốn.
Tăng niềm u thích học tập bộ mơn, kích thích trí tị mị óc sáng tạo của
học sinh thơng qua các hình thức khuyến khích học sinh học tập khác nhau.
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường theo định hướng lấy học
sinh làm trung tâm.


Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
5


Khơi dậy lịng say mê học tập, khơng ngừng phấn đấu vươn lên của học
sinh, để chất lượng giáo dục đại trà cũng như chất lượng giáo dục mũi nhọn được
nâng lên một cách ổn định.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống kiến thức khái quát qua các câu hỏi ôn tập chương, ơn tập học kỳ
của bộ mơn Tốn 9 cấp THCS.
Một số phương pháp dạy học tích cực: phương pháp làm việc theo nhóm,
phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp động
não....
4. Giới hạn của đề tài
Học sinh lớp 9A1, 9A2 năm học 2016 -2017 và học sinh lớp 9A1, 9A3,
9A4 trường THCS Lương Thế Vinh học kỳ I năm học 2017- 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp thuyết trình vấn đáp;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
6


Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
7



II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Theo hướng dẫn triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm học 2016 -2017, 2017
-2018 của PGD đào tạo Krơng Ana:
Triển khai có hiệu quả phương pháp, hình thức và kĩ thuật dạy học tích cực;
đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn góp phần hình
thành và phát triển năng lực học sinh; đa dạng hóa các hình thức học tập.
Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh theo tinh thần Công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 của
Bộ GDĐT về áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy
học tích cực khác.
Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thơng (Dạy học trực tuyến, trường học kết nối...) Ngồi việc tổ
chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp, cần coi trọng giao
nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
8


Kết hợp một cách hợp lí giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan,
giữa kiểm tra lí thuyết và kiểm tra thực hành trong các bài kiểm tra; tiếp tục nâng
cao yêu cầu vận dụng kiến thức liên môn vào thực tiễn; tăng cường ra các câu hỏi
mở, gắn với thời sự quê hương, đất nước đối với các môn khoa học xã hội và

nhân văn để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội.
Để đáp ứng được các nhiệm vụ trọng tâm mà Phòng giáo dục đào tạo triển
khai bản thân tôi thấy rằng trong giảng dạy các tiết học ôn tập, kiến thức cơ bản
đã được giáo viên truyền đạt cung cấp cho học sinh nhưng vấn đề đặt ra là: Chúng
ta phải hệ thống kiến thức cơ bản của chương như thế nào một cách logic, khoa
học và đáp ứng được định hướng dạy học lấy người học làm trung tâm. Các kiến
thức cơ bản của chương có mối liên hệ chặc chẽ trong tổng thể hoàn chỉnh nhằm
giúp học sinh dễ nắm bắt kiến thức, củng cố và khắc sâu kiến thức trong chương.
Từ đó ta có thể thấy cơng việc của hệ thống kiến thức là cần làm nổi bật được
kiến thức trọng tâm của chương, mối liên hệ chặt chẽ giữa các đơn vị kiến thức
xung quanh. Từ đó giáo viên có thể chọn phương pháp hệ thống bằng sơ đồ, bằng
hình vẽ, bằng kiến thức chọn lọc hoặc bằng sơ đồ tư duy.
Trong quá trình hệ thống kiến thức cơ bản, chúng ta cần giúp học sinh nắm
bắt phương pháp nắm kiến thức tức là phương pháp học theo đặc trưng bộ môn,
nếu không chỉ cho học sinh phương pháp nắm kiến thức thì học sinh sẽ lúng túng
và kém hiệu quả.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
9


Do vậy việc hệ thống kiến thức một chương cần chuẩn bị chu đáo: Giáo
viên cần chọn lựa phương pháp hệ thống và chuẩn bị cho học sinh ôn lại kiến thức
của chương, hoàn thành một số biểu bảng, chuẩn bị nội dung trả lời một số câu
hỏi của các học sinh khác đặt ra và các dạng bài tập tổng hợp trong chương trình.
2. Thực trạng
2.1. Thực trạng và ngun nhân
a. Thực trạng
Trong q trình giảng dạy bộ mơn Toán ở các lớp tại trường THCS Lương

Thế Vinh huyện Krông Ana tỉnh Đắk Lắk tôi nhận thấy môn học đã được:
- Lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm thiết thực đến tất cả các bộ môn
trong
nhà trường. Đầu tư phương tiện dạy học cho giáo viên khá đầy đủ nhằm phục vụ
tốt công tác giảng dạy.
- Học sinh đa số có sự đam mê trong học tập, có ý thức tự học khá tốt, một
số học sinh có năng khiếu, tố chất bộ môn rất tốt, lực học giỏi, có thể cùng các
học sinh ở nhiều bộ mơn khác tạo nên chất lượng mũi nhọn của nhà trường.
- Sự phối hợp nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm, ban cán sự các lớp 9A1,
9A2, 9A5 năm học 2016 -2017 và lớp 9A1, 9A3, 9A4 năm học 2017 - 2018 trong
việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
10


- Kiến thức mà học sinh vận dụng để tự ra các câu hỏi và bài tập cho mình
qua mỗi bài học thực ra là các kiến thức mà các em đã được lĩnh hội từ giáo viên,
từ các bài tập tương tự sách giáo khoa và các em làm nhiệm vụ cụ thể hóa các
kiến thức đó thơng qua các câu hỏi tự đặt ra cho mình và phương án trả lời mà
học sinh cần hướng tới là nội dung chính vừa được tiếp thu; tất cả kiến thức đều
nằm trong chương trình học tập và giáo dục.
- Đa số học sinh ngoan, có tinh thần học tập tốt nên dù việc tự đặt câu hỏi
cho bản thân là tương đối mới và bước đầu khó khăn nhưng các em đã chịu khó
tìm tịi qua sách vở, qua các trang thông tin và qua hướng dẫn của bạn bè, cô giáo.
- Trước khi thực hiện đề tài này tôi và hầu hết giáo viên đều tiến hành dạy
tiết ôn tập thường theo một định hướng đó là :
1. Yêu cầu học sinh làm việc ở nhà: trả lời các "câu hỏi tự kiểm tra" và
chuẩn bị các bài tập.
2. Mục "Tóm tắt những kiến thức cần nhớ" trong SGK nhằm mục đích để

cho học sinh tra cứu nếu cần thiết, ít khi giảng lại cho học sinh trong giờ học ôn
tập.
3. Tiết ôn tập không phải là để giáo viên nhắc lại các kiến thức đã học, mà
là để giúp học sinh nhớ lại, làm lại và tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội
dung được học.
4. Thường có các bảng hệ thống kiến thức thể hiện mối liên quan giữa các
kiến thức trong chương.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
11


5. Trong tiết ôn tập trên lớp, giáo viên chọn một vài bài tập có nội dung
tổng hợp liên quan đến nhiều kiến thức cần ôn tập và cùng làm việc với học sinh,
qua đó nhắc lại, khắc sâu, hệ thống và nâng cao các kiến thức cần nhớ và phương
pháp giải. Khơng nên đi sâu vào những tính tốn cụ thể
6. Ln ln thay đổi hình thức ơn tập sao cho phong phú, đa dạng và hiệu
quả cho mỗi hình thức. Trong bất kì hình thức nào học sinh cũng phải được chủ
động tham gia vào q trình ơn tập kiến thức.
Tuy nhiên nếu tiến hành tiết ôn tập rập khn theo cách trên thì học sinh sẽ
rất nhàm chán và việc định hướng cho học sinh tiếp cận với các dạng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan là rất khó vì nội dung được ơn tập mang tính chung chung và
khó khăn hơn nữa là các đối tượng học sinh có lực học yếu sẽ khơng xác định
được nội dung cơ bản cần lưu ý để hoàn thành tốt bài kiểm tra đánh giá sau mỗi
chương, mỗi học kỳ và khơng thể hình dung được cấu trúc đề kiểm tra mà giáo
viên sẽ ra trong bài kiểm tra sắp tới. Dẫn đến kết quả kiểm tra đánh giá không đạt
mục tiêu đề ra.
Do thời gian dành cho các câu trắc nghiệm là ít nên các học sinh thường vội
vàng suy nghĩ chưa kỹ đã vội khoanh vào đáp án sai nên dẫn đến chất lượng bài
kiểm tra không cao.
Vậy làm thế nào để cả giáo viên và học sinh đều có những phương pháp

giảng dạy và học tập bộ môn tốt nhất? Dựa trên thực trạng nghiên cứu của đề tài
kinh nghiệm năm học 2016-2017 của bản thân về việc sử dụng một số phương

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
12


pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập thơng qua tiết ơn tập mơn Tốn
cấp THCS tơi rút ra được một số nhận định cụ thể như sau:
Thứ nhất, khơng có một biện pháp nào là tối ưu trong dạy học để nâng cao
chất lượng bộ môn. Mặt khác, người giáo viên trong giai đoạn hiện tại là người
đóng vai trị hướng dẫn học sinh học tập, cịn các em mới chính là trung tâm của
q trình dạy học, là người trực tiếp phải học, phải lĩnh hội kiến thức tốt nhất. Do
đó, điều này phụ thuộc phần lớn vào học sinh chứ không phải là giáo viên trên
lớp. Từ đó có thể khẳng định khó khăn lớn nhất đòi hỏi người giáo viên muốn
nâng cao chất lượng bộ môn phải luôn tự học, tự rèn, nâng cao kiến thức, kinh
nghiệm từ học hỏi đồng nghiệp, luôn có ý thức phấn đấu khơng tự bằng lịng với
cái mình đã đạt được, ln rút kinh nghiệm, sáng tạo hơn trong dạy học và dần
dần đúc kết lại để trang bị cho mình những bài học cần thiết trong giảng dạy.
Thứ hai, mặc dù giáo viên tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong giảng dạy
song hiệu quả chất lượng lại khơng như mong muốn. Bởi lẽ, theo lối mịn cũ, học
sinh chỉ biết tiếp thu trên lớp mà không có thói quen học bài cũ trước khi đến lớp,
học qua loa, đại khái không khắc sâu kiến thức , học đối phó để lấy điểm kiểm tra.
Mặt bằng chất lượng bộ môn phụ thuộc nhiều vào các em nên càng thấy
nếu học sinh tích cực học tập góp phần rất quan trọng chất lượng bộ mơn. Do đó,
phải làm sao cho các em thích học, học chủ động, sáng tạo, học tự nguyện, học để
nâng cao kiến thức cho bản thân chứ khơng phải học vì điểm, vì để đối phó với
thầy cơ, cha mẹ, mà học vì em muốn được học, được khẳng định ưu thế của mình
trong nhận thức bộ môn.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk

13


Trong quá trình học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tập huấn, trải
nghiệm thêm các phương pháp trong dạy học và xuất phát từ thực tế dạy học tại
trường THCS Lương Thế Vinh, bản thân tôi thấy cần bổ sung thêm một số kinh
nghiệm hướng dẫn của giáo viên giúp các em có thêm một số phương pháp tự học
phát huy tính tích cực học. Chính điều này làm cơ sở cho tôi tiếp tục mở rộng
thêm nội dung đề tài trước đó.
b. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân từ thực trạng nói trên nhưng có thể chia thành hai
nhóm chính đó là ngun nhân khách quan và ngun nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là do Toán học là một mơn học khó, địi hỏi
người học phải có kiến thức xuyên suốt từ lớp dưới lên lớp trên thì mới đáp ứng
được những đòi hỏi cần đạt về kiến thức của bộ mơn. Hồn cảnh gia đình của một
số em học sinh cịn tương đối khó khăn, bố mẹ đi làm xa nên việc giành thời gian
quan tâm nhắc nhở học sinh học tâp nghiên cứu, tìm tịi kiến thức chưa được quan
tâm đúng mức.
Do thời gian dành cho các câu trắc nghiệm là ít nên các học sinh thường vội
vàng suy nghĩ chưa kỹ đã vội khoanh vào đáp án sai nên dẫn đến chất lượng bài
kiểm tra khơng cao.
Ngun nhân chủ quan là cịn một số ít giáo viên tính sáng tạo trong dạy
học chưa nhiều, dạy học còn theo lối mòn cũ, kiểm tra đánh giá còn dễ dãi, chưa
chú ý hướng dẫn cho học sinh thói quen tự học và cách học đối với từng dạng bài,
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
14


từng kiểu bài lên lớp nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng bộ môn. Học sinh
chưa xác định được vai trị của bộ mơn trong học tập cũng như chưa chủ động

trong việc lĩnh hội kiến thức còn học theo lối mòn, học thụ động, dựa dẫm, ỷ lại
và xem nhẹ bộ môn.
Do học sinh chưa quen với cách tự ra đề kiểm tra cho bản thân và vốn từ
của học sinh về bộ mơn chưa nhiều nên tính chính xác khoa học trong bài thu
hoạch ơn tập chương thực sự chưa cao, vẫn có những sai sót.
Tư duy logic của học sinh còn hạn chế nên nhiều khi các em chưa biết vận
dụng những kiến thức đã biết để ra các câu hỏi vận dụng vào những bài tập tương
tự.
Kiến thức của một số học sinh về hình học nói riêng và về Tốn học nói
chung cịn hạn chế nên việc tự ra các câu hỏi kiểm tra và các bài tập vận dụng của
một số học sinh còn nhờ vào sự trợ giúp của các tài liệu tham khảo sẵn có trên thị
trường.
Thời gian dành cho các tiết ôn tập chỉ là hai tiết học nên việc sửa chữa các
sai lầm của học sinh đôi lúc chưa được triệt để.
2.2. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào đều gặp những thuận lợi và khó khăn
nhất định. Với đề tài này, tơi cũng gặp một số khó khăn khi nghiên cứu, tuy nhiên
những khó khăn này có thể khắc phục dần theo thời gian bằng nhiều cách thức
khác nhau:
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
15


Với những học sinh có lực học yếu, học sinh dân tộc thiểu số ta chỉ cần yêu
cầu các em nắm bắt được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa rồi tự đặt
cho mình các câu hỏi vừa với lực học của bản thân và mở rộng hơn nữa là những
bài tập có vận dụng kiến thức lý thuyết cơ bản của chương.
Với những học sinh có lực học khá trở lên thì yêu cầu các em từ kiến thức
cơ bản sách giáo khoa phải tư duy để khái quát hóa trở thành bài tập tổng quát từ
dễ đến khó và khi vận dụng cần nhận biết được đây là dạng bài tập nào để vận

dụng sơ bản vào làm bài tập một cách nhanh chóng, phát triển được trí thơng
minh, khả năng vận dụng kiến thức, óc sáng tạo của học sinh. Đối với các câu hỏi
trắc nghiệm ngoài yêu cầu các học sinh này về độ chính xác khoa học cần khuyến
khích các em xây dựng các câu hỏi mang tính khái quát, vận dụng kiến thức từ
cấp độ thấp đến cao.
Và để khuyến khích học sinh học tập giáo viên có thể chấm điểm các bài thu
hoạch ôn tập chương vào điểm 15 phút hay điểm miệng.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Phát triển năng lực tự học, phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Phát triển kỹ năng ra đề trắc nghiệm khách quan phục vụ cho việc tổng
hợp, khắc sâu kiến thức và xây dựng cho mình một cấu trúc đề kiểm tra đáp ứng
yêu cầu cần đạt của giáo viên.
Giáo dục cho học sinh tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
16


Việc yêu cầu các học sinh hoàn thành bài thu hoạch và đánh giá bài thu
hoạch vào điểm kiểm tra thường xun nhằm kích thích học sinh tìm tịi, sưu tầm
các câu hỏi phù hợp với trình độ của cá nhân, ngồi ra các học sinh cịn phải suy
nghĩ vận dụng kiến thức để đưa ra các phương án trả lời phù hợp.
Hình thức trao đổi giữa các học sinh hoặc nhóm học sinh tạo cho học sinh
lịng tự tin trình bày bài làm của mình và rút ra được các bài học cịn thiếu trong
q trình tiếp thu kiến thức.
Với nội dung bài thu hoạch được chuẩn bị sẵn học sinh thấy thích thú hơn
trong tiết ơn tập, phát huy được năng lực tự học của cá nhân.
Qua bài thu hoạch của học sinh giáo viên định hướng được mức độ tiếp thu
kiến thức của các học sinh để từ đó có phương án ra đề kiểm tra cuối chương,
cuối học kỳ một cách hợp lý phân loại được đối tượng học sinh.

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Đề tài nghiên cứu của tôi tiếp tục hướng cho học sinh phát huy tính tích cực
học tập, nâng cao được sự tự giác, phát huy vai trò tự học môn, nâng cao vốn kiến
thức đã học, hiểu biết thêm về giá trị mơn học trong chương trình cũng như trong
cuộc sống.
Thứ nhất, xác định được tâm lý đối tượng học sinh. Ở độ tuổi cấp THCS từ
11 - 14 các em có nhiều thay đổi về tâm sinh lý. Chính vì vậy, việc xác định tâm
lý thoải mái, ổn định trong học tập là điều rất cần thiết. Từ đây, các em dễ dàng
tiếp thu kiến thức, u thích mơn học hơn, học tập có hiệu quả hơn. Người giáo
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
17


viên phải là người truyền cảm hứng cho học sinh, khơi dậy cho các em niềm đam
mê, yêu thích bộ môn.
Thứ hai, người giáo viên cần phải định hướng cho các em hiểu và xác định
đúng đắn động cơ học tập các mơn học trong chương trình giáo dục.Để tiếp thu
được kiến thức bộ mơn học sinh cần phải có thời gian nghiên cứu, học tập. Tốn
học khơng chỉ là học thuộc lịng, là ghi nhớ máy móc mà là hiểu được nội dung
kiến thức một cách đúng đắn, vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập cụ
thể.
Thứ ba, người giáo viên phải phân loại đối tượng học sinh để hướng các em
đến các cách tự học phù hợp, hiệu quả. Bởi lẽ, một học sinh khá giỏi sẽ không
phải mất nhiều thời gian để học như học sinh trung bình và học sinh yếu. Để phân
loại được đối tượng học sinh chúng ta phải quan sát, thăm dò qua giáo viên chủ
nhiệm, qua kết quả học tập của năm học trước cũng như kết quả kiểm tra thường
xuyên trên lớp để định hướng cho các em cách tự học phù hợp. Trên cơ sở này,
học sinh sẽ biết lựa chọn cho bản thân cách tự học hiệu quả nhất.
Sau khi đã nắm được tâm lý và phân loại được đối tượng học sinh, giáo
viên có thể hướng dẫn cho các em một số cách thức phát huy tính tích cực học tập

tùy theo đối tượng học sinh.
Để đạt được hiệu quả cao trong tiết ôn tập và giải quyết các khó khăn trên
tơi đã tiến hành các biện pháp và giải pháp sau:

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
18


Giải pháp 1: Giáo viên hướng dẫn cách thức ra một câu hỏi trắc
nghiệm.
Do có nhiều đối tượng học sinh tham gia học tập khác nhau nên trong giải
pháp này tôi tiến hành hai bước.
Bước 1: Giáo viên định hướng cách học tập cho tất cả các đối tượng học
sinh.
Để giúp mọi đối tượng học sinh đều có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên
giao phó thì trong q trình dạy học giáo viên cần làm mẫu một vài dạng câu trắc
nghiệm thường gặp khi học xong một đơn vị kiến thức. Làm được điều này giáo
viên cần xây dựng giáo án dạy học phù hợp, có lồng ghép các nội dung cơ bản
cần cung cấp đến học sinh.
Định hướng chung cách học tập cho mọi đối tượng học sinh để đạt hiệu quả
cao trong việc phát huy tính tích cực học tập:
+ Đọc, hiểu nội dung bài học trong sách giáo khoa trước khi soạn bài.
+ Soạn bài theo các câu hỏi ở từng mục trong sách giáo khoa.
+ Xác định và ghi nhớ những kiến thức chính trong từng mục, mục trọng
tâm của toàn bài.
+ Vẽ sơ đồ tư duy cho từng lượng kiến thức cả bài.
+ Ghi chép những kiến thức cơ bản, các công thức quan trọng trong sổ tay.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
19



+Dựa vào các kiến thức cơ bản thu thập được từ đó xây dựng nên câu hỏi
khắc sâu kiến thức bài học
Sau khi định hướng được cho học sinh học tập tôi tiến hành làm mẫu một
vài câu trắc nghiệm thông qua các bài học cụ thể. Trong phân môn đại số để
hướng dẫn học sinh, trước hết tôi chuẩn bị giáo án: trong phần củng cố - luyện tập
của tiết 2- đại số 9: CĂN THỨC BẬC HAI VÀ HẰNG ĐẲNG THỨC

A2 = A .

Giáo viên có thể chuẩn bị thêm nội dung cung cấp cho học sinh câu hỏi trắc
nghiệm để khắc sâu kiến thức và hướng học sinh học tập theo phương pháp dạy
học tích cực:
Câu 1:

−7a có nghĩa khi

A. a ≥ 0
Câu 2:
A. a ≥ 0

B. a ≤ 0
a
5

C. a > 0

D. a < 0


có nghĩa khi
B. a ≤ 0

C. a > 0

D. a < 0

Nội dung hai câu hỏi trên thực ra là tôi đã dựa vào bài tập 6 /10 sách giáo
khoa Toán 9 - Tập 1. Dựa vào các bài tập khác giáo viên có thể xây dựng nhiều
câu hỏi trắc nghiệm khác nhau ( nếu thời gian cho phép).
Học sinh sẽ không mất nhiều thời gian cho việc chọn ra đáp án đúng vì các
em đã biết cách làm từ nội dung bài tập 6/10 sách giáo khoa Toán 9 –Tập 1.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
20


Giáo viên chỉ cần đóng vai trị dẫn dắt học sinh đến nội dung kiến thức cần
có để xây dựng nên câu hỏi trên đó chính là điều kiện để căn thức có nghĩa:

A

có nghĩa khi A lấy giá trị khơng âm.
Hay khi học đến bài “Hệ phương trình bậc nhất hai ẩn”, sau khi học sinh đã
nắm được nội dung bài học giáo viên có thể định hướng cho học sinh đến nội
dung câu trắc nghiệm như là:

x + y = 2
có :
3 x + 3 y = 2


Câu 1: Hệ phương trình 
A.Vơ số nghiệm

B. Vơ nghiệm

C. Có một nghiệm duy nhất

Giáo viên đặt ra một số câu hỏi nhằm khắc sâu kiến thức và định hướng cho
học trả lời:
Câu hỏi 1: Để chọn đáp án đúng em cần làm gì?
Câu hỏi 2: Dựa vào nội dung kiến thức nào để chọn ra đáp án đúng ?
Câu hỏi 3: Có cần giải hệ để chọn được đáp án phù hợp không ?
Sau khi giải quyết câu hỏi trên giáo viên cần hướng cho học sinh hiểu cách
thức để chọn ra hệ phương trình phù hợp với đáp án đưa ra: để chọn được hệ
phương trình phù hợp với đáp án đưa ra cần nắm rõ kiến thức sau

ax + by = c
(a, b, c, a ' , b ' , c ' ≠ 0)
Khi có hệ phương trình  '
'
'
a x + b y = c

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
21


Nếu


a b c
= = thì hệ phương trình có vơ số nghiệm hay hai đồ thị hàm
a ' b' c '

số trùng nhau.
Nếu

a b c
= ' ≠ ' thì hệ phương trình có vơ nghiệm hay hai đồ thị hàm số
'
a b c

song song với nhau
Nếu

a b
≠ thì hệ phương trình có nghiệm duy nhất hay đồ thị hai hàm
a ' b'

số cắt nhau
Sau khi hướng dẫn cho học sinh giáo viên có thể cho học sinh thực hành tự
ra cho mình một câu hỏi phù hợp với nội dung kiến thức vừa học.
Từ định hướng đó học sinh sẽ dễ dàng tự ra cho mình câu hỏi tương tự và
đã định được đáp án trong đầu dựa trên hệ thống kiến thức đã học, ví dụ nội dung
câu hỏi 2: Vị trí tương đối của hai đường thẳng xác định bởi hai phương trình

3x + y = 3
là:
2 x − y = 7


trong hệ phương trình 
A. Song song

B. Cắt nhau

C.Trùng nhau

Để hướng mọi đối tượng học sinh có kỹ năng làm bài trắc nghiệm giáo viên
đặt ra hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh trả lời, ví dụ như:
1. Để chọn được đáp án đúng ta nên làm như thế nào?
2. Có cần vẽ đồ thị hai hàm số để xác định vị trí tương đối của hai đồ thị
hàm số không ? (áp dụng cho câu 2)
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
22


Hay khi dạy xong bài “ Tỷ số lượng giác của góc nhọn” giáo viên định
hướng cho học sinh xây dựng nội dung câu hỏi trắc nghiệm áp dụng
kiến thức vừa học như: Cho hình vẽ, độ dài x trên hình là
A. 4 3

B. 4

C. 8 3

D.

8 3
3


Giáo viên cần định hướng cho học sinh cách thức chọn đáp án phù hợp đó
là áp dụng kiến thức đã học để chọn đáp án đúng, tuyệt đối không sử dụng
phương pháp loại trừ hay đốn mị.
Sau khi học xong các bài học “ Góc ở tâm. Số đo cung”, “Góc nội tiếp”, “
Góc tạo bởi tia tiếp tuyến và dây cung” vì đây là các bài học liên quan đến nhiều
nội dung kiến thức nên khi học xong ba bài này giáo viên có thể định hướng cho
học sinh xây dựng câu trắc nghiệm theo hình thức tổng hợp kiến thức như:
Cho hình vẽ sau (áp dụng từ câu 1 đến câu 3):

A

B

Câu 1.(0,5 điểm) Số đo cung lớn BC là:
O

A. 30

0

B. 60

0

C. 90

0

D. 240


x

0

C

Câu 2.(0,5 điểm): Số đo cung nhỏ AB là:
A. 300

B. 600

C. 900

D. 1200

Câu 3.(0,5 điểm) : Số đo góc ACB bằng:
A. 150

B. 300

C. 450

D. 900

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
23


Tơi tiến hành tổng kết lại tiến trình cụ thể để xây dựng nên nội dung câu
trắc nghiệm cần có sau mỗi bài học:

- Xác định nội dung kiến thức trọng tâm vừa được lĩnh hội là gì ?
- Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cần bám vào nội dung kiến thức đã học từ
đó vận dụng để xây dựng đáp án phù hợp. Giáo viên cần lưu ý học sinh, trong các
đáp án xây dựng để trả lời câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, các đáp án cịn lại có
thể xây dựng dựa trên những sai lầm thường hay mắc phải của học sinh, ví dụ như
điều kiện A có nghĩa là A > 0 hay A < 0....
- Khi hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài tập trắc nghiệm giáo viên
lưu ý học sinh hạn chế ra dạng bài tập trắc nghiệm mà nội dung là để kiểm tra
việc nắm định lý hay các định nghĩa, hướng học sinh đến các dạng câu trắc
nghiệm vận dụng lý thuyết vào giải quyết các bài tập cụ thể.
Qua các phương án xây dựng câu hỏi trắc nghiệm nêu trên, tôi nghĩ học
sinh đã phần nào định hướng được cách thức và nội dung cơ bản cần bám sát để
tạo ra một bài tập trắc nghiệm.
Bước 2: Định hướng cho học sinh xây dựng bài tập vận dụng sau khi học
xong một chương hay một học kỳ.
Nội dung này thường khá khó với học sinh và và được thực hiện vào cuối
mỗi chương. Giáo viên hướng dẫn học sinh cần bám vào nội dung kiến thức vừa
học để ra các bài tập tượng tự như các bài tập sách giáo khoa.

Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
24


Ví dụ sau khi học xong chương 1đại số 9 – Tập : Căn bậc hai. Căn bậc ba
giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tự ra cho mình các bài tập vận dụng sau


1

1 



Bài tập 1: Cho biểu thức : A = 
÷:
 x −2 x−4

1
x −2

a) Rút gọn A.
b) Tìm x để A = 2.
c) Tìm x ∈ Z để A ∈ Z.
d) Tìm GTNN của biểu thức A.

Hệ thống bài tập đa dạng do đó giáo viên không nên yêu cầu học sinh ra bài
tập ở mức độ phức tạp, chỉ cần yêu cầu học sinh tìm tịi ra được bài tập áp dụng
kiến thức vừa học của tồn chương.
Với mơ hình dạy học theo chương trình giáo dục đại trà hiện hành, giáo
viên lựa chọn cách thức phân loại các đối tượng học sinh và vận dụng các phương
pháp hướng dẫn học tập cụ thể như sau:
* Đối với học sinh học trung bình:
+ Ngoài việc tiếp thu kiến thức trên lớp học sinh cần dành một phần thời
gian ở nhà để đọc lại nội dung phần bài học ở trên lớp vài lần trước khi đến lớp.
+ Học sinh phát huy tính tích cực học tự học bằng cách đọc từng mục nội
dung trong sách giáo khoa sau đó xây dựng .
+ Biết cách lập bảng, thống kê nội dung cơ bản của bài học, ghi nhớ nội
dung bài học trước khi đến lớp.
Bùi Thị Ánh Tuyết - Trường THCS Lương Thế Vinh - Krông Ana - Đắk Lắk
25



×