Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ đề tài thực trạng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.72 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN
MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Họ và tên:
Mã SV:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:
Hà Nội, tháng 11 năm 2021

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN
MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài:
Thực trạng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

2


MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU.......................................................................................................4
1.


Kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.......................4

2.

Lý do viết đề tài..........................................................................................4

LÝ LUẬN CHUNG...................................................................................................5
I – Thực trạng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam...............................5
II – Những thành tựu và hạn chế phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa..................6
1.

Thành tựu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa..........................................6

2.

Những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp nhỏ và vừa......................8

III – Sự cần thiết khách quan để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...................9
1.

Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ..............................................9

2.

Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của DNNVV.......................................9

IV – Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới.............11
PHẦN KẾT..............................................................................................................14
Tài liệu tham khảo:...............................................................................................15


3


LỜI GIỚI THIỆU
1. Kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay vấn đề phát triển kinh tế là một vấn đề rất cần thiết, tất yếu đối với mọi
quốc gia. Nhưng ở mỗi nuốc khác nhau thì đi bằng các con đường khác nhau do
dựa vào các tiềm lực của chính mình. Đối với Việt Nam, từ khi xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường thì Đảng và nhà nước ta đã xác định
rằng: phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một tất yếu để phát triển nền kinh
tế. Do nước ta có xuất phát thấp và đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, người
dân có trình độ kĩ thuật thấp do đó phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là thực
tiễn khách quan mà cần phải thực hiện theo nó.
2. Lý do viết đề tài
a) Tầm quan trọng của đề tài
Với Việt Nam thì việc phát triển kinh tế gắn liền với việc phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, do đó đề tài sẽ cho ta thấy những thực trạng (thời cơ, tồn đọng)
của doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó rút ra được các hướng đi đúng nhất, các giải
pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng và
nền kinh tế nói chung.
b) Nâng cao nhận thức của sinh viên
Sinh viên là những người chủ thực sự của đất nước sau này, là người có khả năng
làm thay đổi cục diện của đất nước. Khi đó đề tài sẽ giúp sinh viên nhận biết và có
ý thức hơn tới sự phát triển kinh tế đất nước. Nó cũng là cầu nối giữa lý thuyết và
thực tại, giữa sự phát triển kinh tế với nhiệm vụ của sinh viên. Là một sinh viên, em
xin cảm ơn cô Mai Lan Hương đã hướng dẫn em hồn thành bài tập lớn này, qua đó
giúp em hiểu sâu sắc hơn về nền kinh tế đất nước, nâng cao năng lực và trách
nhiệm của bản thân.

4



LÝ LUẬN CHUNG
I – Thực trạng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Do khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trị quan trọng, nên những năm qua,
Việt Nam đã và đang nỗ lực tháo gỡ rào cản nhằm thúc đẩy khu vực doanh nghiệp
này phát triển. Chính phủ tập trung các chính sách hỗ trợ những nội dung cụ thể:
Phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp đổi mới sáng tạo; Hỗ trợ đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp quốc gia; Tạo
thuận lợi để các hộ và cá nhân tự nguyện liên kết hình thành doanh nghiệp hoặc các
hình thức tổ chức hợp tác khác; Hỗ trợ và khuyến khích hình thành các tập đồn
kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước;
Hỗ trợ đổi mới, sáng tạo, hiện đại hố cơng nghệ và phát triển nguồn nhân lực có
đủ khả năng tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; Cải cách
mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân
phát triển... Chính phủ cịn ban hành nhiều chính sách về ưu đãi về thuế, tín dụng
cho doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tạo nguồn vốn và
mặt bằng sản xuất kinh doanh; cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương
mại, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, đào tạo nghề cho lao động...
Tuy nhiên, trong thực tế, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Theo Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố hàng năm, trong giai đoạn 20132015, chi phí vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường cao hơn so
với của doanh nghiệp lớn, khoảng 1-2%/năm; tỷ lệ chi phí khơng chính thức chiếm
64% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, 56% doanh nghiệp nhỏ và 49% doanh nghiệp
vừa, trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp lớn chỉ là 30%. Chi phí khơng chính
thức này có thể chiếm tới hơn 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, các rào cản về thể chế, liên quan đến nhiều vấn đề như: Thừa nhận vai trị
DNTN nói chung, pháp lý tài sản, TTHC, mơi trường cạnh tranh bất bình đẳng,
chất lượng đội ngũ cơng vụ, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của Nhà
nước... là những rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.


So với các quốc gia trong khu vực và thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
còn tồn tại nhiều hạn chế như: doanh nghiệp vừa và nhỏ đa phần làm dịch vụ, chỉ
khoảng 20% là hoạt động sản xuất; có tới 42% doanh nghiệp có doanh thu hàng
năm dưới 1 tỷ đồng và 85% doanh nghiệp hoạt động chính thức có doanh thu dưới
2 tỷ đồng; số lượng doanh nghiệp tư nhân tuy tăng hàng năm nhưng quy mơ bình
5


quân của mỗi doanh nghiệp là không lớn. Tỷ lệ trung bình người dân/ doanh nghiệp
vẫn ở mức thấp, hiện nay tỷ lệ này ở khối các nước ASEAN là 80-100 dân, trong
khi đó, ở Việt Nam bình qn 256 người dân mới có một doanh nghiệp.
Năng suất lao động thấp, việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã
hội (BHXH), bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công
việc trong khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, do vậy, các doanh nghiệp này càng
rơi vào vị thế bất lợi.
Theo Báo cáo PCI 2018, có 15,8% doanh nghiệp cho biết, họ phải chờ hơn 1 tháng
hoàn thành đầy đủ các thủ tục và giấy phép cần thiết mới có thể đi vào hoạt động.
Con số này sau khi đã giảm tương đối mạnh từ 27,2% năm 2007 xuống 9,8% năm
2014, nhưng có xu hướng gia tăng trong 5 năm trở lại đây. Một chỉ tiêu khác như tỷ
lệ doanh nghiệp phải chờ đợi trên 3 tháng mới có đủ giấy phép cần thiết đi vào hoạt
động vào năm 2018 là 3%, sau khi giảm từ 6,8% xuống còn 1,92% năm 2014 và
cũng đang có dấu hiệu tăng trở lại. Những TTHC trong lĩnh vực đất đai (30%),
BHXH (25%), quản lý thị trường (16%)... tiếp tục là vướng mắc lớn của doanh
nghiệp.
Ở Việt Nam, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn chủ đạo của các doanh
nghiệp (kể cả vốn ngắn hạn và dài hạn). Thị trường chứng khoán đang từng bước là
kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng nhất của nền kinh tế song vẫn chưa như kỳ vọng,
bởi tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng cung cấp nguồn lực tài chính
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường cổ phiếu mặc dù cải thiện về quy mô

nhưng nguồn vốn đi vào khu vực kinh tế thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu
ra công chúng chưa lớn; Thị trường TPDN phát triển nhanh, nhưng cịn hạn chế về
quy mơ và thiếu bền vững, chủ yếu phát hành qua kênh riêng lẻ và có quy mô nhỏ,
khoảng 0,71% GDP so với mức 21,7% GDP của ASEAN-5...

II – Những thành tựu và hạn chế phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Thành tựu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm vừa qua, nhờ có việc ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách và
triển khai nhiều giải pháp tích cực, mơi trường kinh doanh của Việt Nam đã có sự
chuyển biến tích cực; khơi dậy tinh thần doanh nhân và sự đăng ký quay trở lại
hoạt động mạnh mẽ của các DNNVV. Số lượng DN thành lập mới và số lượng DN
tạm ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động tăng lên. Từ năm 2016, mỗi năm có
thêm hơn 100 nghìn DN thành lập mới. Trong hai năm 2017-2018, cả nước có
258.134 DN đăng ký thành lập mới và 60.458 DN tạm ngừng hoạt động quay trở
lại nhờ môi trường kinh doanh được cải thiện và các chính sách của Nhà nước hỗ
trợ, phát triển DN. Sự gia tăng trở lại này trùng với thời điểm Luật DN 2014 và
6


Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2015. Thực tế, các lt• này tạo
cơ chế thơng thoáng, tác động trực tiếp, thuận lợi cho DN trong q trình kinh
doanh, khi DN có quyền tự quyết về số lượng, hình thức, nội dung của con dấu;
được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; đồng
thời, thời gian đăng ký thành lập DN đã được rút ngắn cịn 03 ngày. Tính chung
trong 9 tháng năm 2018, cả nước có 96.611 DN thành lập mới với số vốn đăng ký
là 963.411 tỷ đồng, tăng 2,8% về số DN và tăng 6,7% về số vốn đăng ký. Riêng
trong quý III/2018, cả nước có 32.080 DN thành lập mới, giảm 15% so với quý
II/2018 và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2017. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân
trên một DN đạt 10,0 tỷ đồng, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017. Số lao động
đăng ký của các DN thành lập mới là 819.742 lao động, giảm 7,5% so với cùng kỳ

năm 2017. Số DN quay trở lại hoạt động là 22.897 DN, tăng 8,5% so với cùng kỳ
năm 2017. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế là 2.845.331 tỷ đồng, tăng
32,7% so với cùng kỳ năm 2017, bao gồm: 936.411 tỷ đồng của DN đăng ký thành
lập mới (tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2017) và 1.881.920 tỷ đồng (tăng 51,6%)
thông qua 32.144 lượt đăng ký tăng vốn của các DN đang hoạt động (tăng 16,6%).
Trong một vài năm gần đây, xu hướng phát triển các mơ hình kinh doanh khởi
nghiệp sáng tạo (startup) diễn ra sôi động, tập trung vào một số lĩnh vực như: xây
dựng, chế biến, chế tạo, công nghiệp ô tô, vận tải hàng khơng, tài chính, ngân hàng.
Hiện nay, có hơn 3.000 cơng ty khởi nghiệp sáng tạo đang hoạt động, trong đó có
nhiều DNNVV hành cơng.
Cùng với sự bùng nổ về số lượng, DNNVV đã góp phần quan trọng trong chuyển
dịch về cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao động từ lĩnh vực
nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, thúc đẩy phát triển sản xuất
kinh doanh. Bình quân mỗi năm (giai đoạn 2016-2017), khối DNNVV thu hút
nhiều lao động nhất với 8,69 triệu lao động (chiếm 60,9% tổng lao động toàn bộ
khu vực DN trong nền kinh tế). Trong hai năm 2017-2018, số DNNVV thành lập
mới cũng đã tạo gần 2,3 triệu việc làm mới.
Khu vực DNNVV đã thể hiện vai trò và những đóng góp quan trọng thúc đẩy sự
chuyển mình và cất cánh của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2015-2017, khu vực kinh
tế tư nhân (trong đó DNNVV là bộ phận quan trọng) đóng góp khoảng 50% GDP,
trên 30% thu ngân sách nhà nước, 45% vốn đầu tư thực hiện tồn xã hội. Năm
2018, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 42,1% GDP của nền kinh tế và có dấu hiệu
tăng lên. Thu ngân sách nhà nước từ các DN tư nhân liên tục tăng lên trên 16%.
Thu ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân vượt
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực DN nhà nước. Những tín hiệu
này phản ánh sự lớn mạnh về quy mơ, số lượng chủ thể và sự cải thiện về hiệu quả
của kinh tế tư nhân. Tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực này
7



tương đối ổn định. Mặc dù những năm gần đây, tốc độ tăng NSLĐ của cả nước liên
tục có những biến động thì tốc độ tăng NSLĐ của khu vực kinh tế tư nhân, trong đó
chủ yếu là DNNVV vẫn ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà nước và khu
vực FDI, xung quanh mức 4,8%-5,8%. Tính chung trong 2 năm 2016-2017, các
DNNVV tạo ra doanh thu chiếm tỷ lệ chi phối trong toàn bộ khu vực DN, bình
quân mỗi năm các DNNVV tạo ra 10,8 triệu tỷ đồng, chiếm 56,4% doanh thu toàn
bộ khu vực DN, tăng 64,4% so với bình quân giai đoạn 2011-2015.
2. Những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mặc dù các năm gần đây, số lượng DNNVV thành lập mới nhiều, nhưng cũng có
một bộ phận khơng nhỏ DN khơng có khả năng tồn tại, đứng vững trong cạnh tranh
hoặc hoạt động kém hiệu quả. Hiện nay, các DNNVV vẫn rất khó tiếp cận các
nguồn lực của xã hội để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh như: việc tuyển dụng lực
lượng lao động có trình độ tay nghề cao, về tiếp cận đất đai, về vốn tín dụng từ các
ngân hàng, nguồn vốn từ các quỹ, về ứng dụng khoa học và công nghệ. Theo Báo
cáo đánh giá môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, chỉ số tiếp
cận tín dụng của Việt Nam năm 2018 được xếp hạng 29/190 nền kinh tế. Trong 6
tháng đầu năm 2018, dư nợ tín dụng đối với DNNVV chiếm khoảng 21% dư nợ
toàn nền kinh tế. Đến nay vẫn có khoảng 60% DNNVV chưa tiếp cận được nguồn
vốn tín dụng của ngân hàng. Việc tiếp cận đất đai cịn nhiều khó khăn chưa đáp ứng
được u cầu (thủ tục xin cấp đất rất chậm và chi phí quá cao làm mất đi cơ hội
kinh doanh của DN). Các DNNVV thiếu thông tin thị trường cũng như cổng đối
thoại với các bộ, ngành để tìm kiếm sự hỗ trợ và sự bảo vệ, đặc biệt là các thông tin
về giá cả hàng hóa, thủ tục mua bán, xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như quy trình
sản xuất và chất lượng yêu cầu.
Điểm nổi bật hiện nay là, sự liên kết của các DNNVV Việt Nam yếu kém, có rất ít
mối liên kết giữa các DN nhỏ và DN có quy mơ lớn hơn. Theo báo cáo triển vọng
phát triển Châu Á của Ngân hàng Phát triển Châu Á, hiện nay mới chỉ có 21% các
DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái
Lan và 46% của Malaysia.
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu là

sau một giai đoạn tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có và ít được Nhà nước hỗ trợ. Q
trình phát triển theo mơ hình tập đồn của nhóm các tập đồn kinh tế tư nhân hiện
gặp phải một số khó khăn về quản trị, mơ hình, do phần lớn phát triển từ quy mơ
DN gia đình. Các liên kết trong mơ hình tập đồn cịn khá đơn giản, chưa triển khai
được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng
thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học, cơng nghệ
chung trong tập đồn theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập
đoàn kinh tế và DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh
8


vực như dịch vụ, bất động sản… Vì vậy, cịn thiếu vắng một lực lượng DN “đầu
tàu” đủ mạnh để có thể dẫn dắt “đồn tàu” DN Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất,
chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Do phần lớn DN Việt Nam hiện có quy mơ nhỏ nên rất khó tăng NSLĐ nhờ chun
mơn hóa hay tận dụng lợi thế quy mơ được. Mặt khác, vì quy mơ nhỏ nên khả năng
tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mơ sản xuất
hầu như khơng có. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
DNNVV, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rô •ng hiện nay.

III – Sự cần thiết khách quan để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Chúng gắn liền với công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền
thống và cơng nghệ hiện đại.
- DNNVV có tính năng động, linh hoạt, tự do, sáng tạo trong kinh doanh.
- Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị cơng nghệ, thích ứng
với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại.
- DNNVV cần vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh.
- DNNVV có tỷ suất đầu tư trên lao động thấp so với doanh nghiệp lớn, vì vậy
nó có hiệu suất tạo việc làm cao.

- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt, cơng
tác điều hành mang tính trực tiếp.
- Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ - thợ) trong các
DNNVV khá chặt chẽ.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hướng rất ít hoặc khơng
gây khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng dây chuyền.
2. Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của DNNVV
Thứ nhất: các DNNVV có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số
lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ở
hầu hết các nước d DNNVV chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh
nghiệp lớn. Hiện nay, chưa có số liệu thống kê về DNNVV một cách chính thức,
nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các DNNVV Việt Nam cũng chiếm
khoảng 80-90% tổng số các doanh nghiệp
Thứ hai: các DNNVV có vai trị quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước
trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Theo đánh giá của
Viện Nghiên cứu quản lý TW, thì hiện nay DNNVV chiếm khoảng 24% GDP.
9


Thứ ba: tác động lớn nhất của DNNVV là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm
việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm
nghèo. Xét theo luận điểm tạo cơng ăn việc làm cho người lao động thì khu vực
này vượt trội hơn hẳn so với khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội
bức xúc. Ở hầu hết các nước DNNVV tạo việc làm cho khoảng từ 50-80% lao động
trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh
nghiệp lớn sa thải cơng nhân thì khu vực DNNVV lại thu hút thêm nhiều lao động
hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Ở Việt
Nam cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế TW, thì số lao động

của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8
triệu người, chiến tới 72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng
22,5% lực lượng lao động của cả nước.
Thứ tư: các DNNVV góp phần làm năng động nền kinh tế cơ chế thị trường, do lợi
thế quy mô vừa và nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, cùng với
hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chun mơn hoaas và đa dạng hóa mềm
dẻo, hịa nhịp được với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm: khu vực DNNVV thu hút được khá nhiều vốn ở trong dân. Do tính chất
nhỉ lẻ, dễ phân tấn đi sâu vào dân cư và yêu cầu về số lượng vốn ban đầu khơng
nhiều, cho nên các DNNVV có tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn
nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng
tạo dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành các khu vực để thực
hiện có kết quả vấn đề huy động vốn dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong
nước.
Thứ sáu:các DNNVV có vai trị to lớn đối với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh
tế, đặc bieejt đối với khu vực nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, làm cho cơng nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành
thương mại – dịch vụ phát triển. Sự phát triển DNNVV cũng góp phần làm tăng tỷ
trọng cơng nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân. Các DNNVV cịn góp phần đa dạng hóa cơ cấu cơng nghiệp.
Thứ bảy: các DNNVV góp phần vào đơ thị hóa phi tập trung và thực hiện phương
châm “ly nông bất ly hương”. Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút
những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao
động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất – kinh doqanh, rút dần
lao động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, nhưng vẫn sống tại
quê hương bản quán, không phải di chuyển di xa, thực hiện phương châm “ly nơng
bất ly hương”. Đồng hành với nó là hình thành những khu vực khác tập trung các
cơ sở công nghiệp và dịch vụ ngay tại nông thôn, tiến dần lên hình thành những thị
10



xã, thị trấn, là hình thành các đơ thị nhỏ đan xen giữa những làng q, là q trình
đơ thị hóa phi tập trun.
Thứ tám: các DNNVV là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo
các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà
doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô
nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô nhỏ và vừa, một số nhà
doanh nghiệp sẽ trưởng thành nên những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết đa
doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển.

IV – Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới
Thứ nhất, hồn thiện thể chế, chính sách, hệ thống pháp luật về kinh doanh minh
bạch, công bằng, lành mạnh nhằm mục đích tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh cho DN, tạo thuận lợi tối đa cho các DN khi tham gia vào thị trường trong
nước và ngồi nước. Ban hành hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định lâu dài đối với
hoạt động của khu vực DNNVV. Phát triển đa dạng các thị trường tài chính và thị
trường chứng khốn để hỗ trợ cho DN huy động vốn trên thị trường chứng khoán,
vay vốn trên thị trường trái phiếu DN. Đồng thời, hỗ trợ DNNVV bằng cách giải
đáp các vấn đề vướng mắc về luật pháp, đăng ký kinh doanh; cũng có thể mở thêm
hoạt động tư vấn kinh doanh cho DN hoặc thành lập riêng một cơ quan chuyên
trách giúp cho sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam.
Hoàn thiện khung pháp lý và phạm vi hỗ trợ DNNVV phát triển trong nước, hội
nhập quốc tế (xác định rõ khuôn khổ về gia nhập, hoạt động và giải thể, phá sản
của DN Việt Nam); hỗ trợ công nghệ, khoa học kỹ thuật cho DN Việt Nam; phát
triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị;
đẩy mạnh hình thành nhóm DN Việt Nam; cung cấp thơng tin hỗ trợ DNNVV và
xúc tiến mở rộng thị trường; xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển; tổ chức
thực hiện các chương trình liên quan đến sự phát triển DN Việt Nam.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách của Chính phủ trong việc cải
cách các mức thuế quan, cắt giảm các thủ tục đăng ký DN cùng với các “chi phí

khơng chính thức”. Các bộ, ngành cần giảm bớt các cuộc thanh, kiểm tra không cần
thiết với DNNVV, nhất là phải quyết liệt trong công tác xóa bỏ tệ nạn tham nhũng,
nhũng nhiễu DN. Có cơ chế cắt giảm thuế thu nhập DN để hỗ trợ DNNVV giải
quyết bài toán tạo việc làm cho xã hội, với quy định cụ thể về sử dụng phần ưu đãi
thuế thu nhập DN đó để tái đầu tư, tạo công ăn việc làm mới. Hỗ trợ và tạo điều
kiện thuận lợi cho các DNNVV được tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tài chính, lao
động, khoa học cơng nghệ…). Xây dựng và phát triển hạ tầng thông tin dữ liệu về
11


DN hoạt động cùng ngành hàng về thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường
khoa học công nghệ…
Thứ ba, phát huy vai trị của xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp thúc đẩy sự phát triển của DNNVV, nâng cao ý thức của cộng đồng xã hội
đối với sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam. Theo đó, cần nâng cao vai trò,
năng lực của các Hiệp hội nhằm hỗ trợ DNNVV và tăng cường chức năng tham
vấn và phản biện xã hội. Mặt khác, tăng cường tiếp nhận các phản hồi, ý kiến, nhu
cầu từ người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của DNNVV để tự hoàn thiện DN trong
hoạt động kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng bằng các giải
pháp như: nâng cao trách nhiệm xã hội, trách nhiệm kinh doanh của DN đối với
người tiêu dùng; cân bằng lợi ích của thương nhân và người tiêu dùng.
Thứ tư, bản thân mỗi DNNVV phải nêu cao ý thức vươn lên, phát huy lợi thế,
nâng cao sức cạnh tranh của mình. DNNVV Việt Nam có nhiều lợi thế về kinh
doanh, phạm vi thị trường, khách hàng để tham gia vào hoạt động thương mại trong
nước, khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thì việc tận dụng những lợi thế vốn có của
DNNVV sẽ thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh về kinh tế đất nước trong khu vực
Đông Nam Á.
Việc nắm bắt nhu cầu, tâm lý của khách hàng hoặc nhóm khách hàng phù hợp với
loại hình, ngành nghề kinh doanh của mỗi DN cũng là một giải pháp mà các

DNNVV có thể thực hiện được và tạo ra những kết quả khả quan. Bên cạnh đó, DN
cần có chiến lược phát triển thơng qua các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn, sứ mệnh
hoạt động cụ thể. Một giải pháp cũng được áp dụng đối với DNNVV, đó là xây
dựng tầm nhìn trong sự phát triển của DN mình bằng việc xác định rõ các vấn đề về
kinh tế, khách hàng, sự cạnh tranh, định hướng tương lai, triển vọng của DN, tính
chuyên mơn hóa cao trong tiếp xúc với khách hàng, uy tín, thương hiệu và giá trị
cốt lõi mà mỗi DN cung cấp cho thị trường, xã hội...
Để hạn chế tối đa các thất bại như buộc phải giải thể, tự giải thế, tình trạng kinh
doanh bị trì trệ, tạm ngưng hoạt động, các DNNVV cần phải xác định được phạm
vi và đối tượng mà mình hướng tới. Nói cách khác, trên cơ sở quy mơ, tiềm lực,
loại hình hoạt động, các DNNVV cần có chiến lược phù hợp trong việc lựa chọn thị
trường, phân khúc thị trường để khai thác, kinh doanh. Chọn lựa phân khúc thị
trường phù hợp là một giải pháp và đồng thời cũng là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, an toàn
cho sự phát triển ổn định của mỗi DN. Mặt khác, mỗi DN cần khai thác hiệu quả
các nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển như: các giải pháp hỗ trợ từ nhà
đầu tư trong và ngồi nước; các chính sách, kế hoạch hỗ trợ của Nhà nước về
nguồn vốn, tài chính, cơng nghệ, quản trị, kinh doanh... Đồng thời, sự liên minh,
12


liên kết của nhóm DN kinh doanh, hoạt động cùng ngành nghề dưới các hình thức
như hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên danh... cũng là một giải pháp phù hợp
nhằm phát huy vai trị, thế mạnh của mình.
Thứ năm, trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã ký kết
hàng loạt các FTA thế hệ mới, để nâng cao năng lực cạnh tranh, DNNVV cần biết
tận dụng tối đa những tiềm lực về vốn, nhân lực, thị trường, văn hóa, kinh nghiệm
kinh doanh của các DN... Đây chính là sự tự thân vận động quan trọng của mỗi
DNNVV trong kế hoạch thực hiện các chiến lược, mục tiêu kinh doanh của mình
cùng với các đối thủ nặng ký trên thị trường. Hiểu về đối thủ và cân bằng hài hịa
được các lợi ích với đối thủ trong kinh doanh sẽ tạo những cơ hội phát triển ổn định

cho các DNNVV. Điều đó đồng nghĩa rằng, các DNNVV cần biết cách giữ mối
quan hệ tốt đẹp với các DN lớn trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt. Đặc
biệt, các DNNVV cần minh bạch hoạt động và báo cáo tài chính, nâng cao chất
lượng quản trị DN, quản lý rủi ro.

13


PHẦN KẾT
Nghiên cứu giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là chủ đề thu
hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, Chính
phủ và dư luận, bởi vai trị và đóng góp to lớn của đối tượng này đối với nền kinh
tế, cũng như giải quyết các vấn đề xã hội - an sinh xã hội là rất lớn. Ở Việt Nam,
trong giai đoạn 2010-2017, khu vực DN đóng góp bình quân cho ngân sách nhà
nước (NSNN) khoảng 12,4%/năm, tương đương trên 60% GDP. Trong đó,
DNNVV chiếm đến 98,1% tổng số DN đang hoạt động, đóng góp khoảng 45%
GDP, 31% tổng thu NSNN và tạo công ăn việc làm cho hơn 5 triệu lao động. Bình
quân năm giai đoạn 2012-2017, số DNNVV tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình
quân của DN lớn là 5,4%.
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu của Ban Kinh tế Trung ương và Cơ quan Phát
triển quốc tế Hoa Kỳ (năm 2017) cho rằng, qua 30 năm đổi mới, quy mô của phần
lớn các DN tư nhân (DNTN) Việt Nam vẫn chỉ là nhỏ và siêu nhỏ; hiệu suất của
khu vực kinh tế này còn thấp và có sự suy giảm. Chỉ số tỷ suất hồn vốn của các
DNTN rất thấp, chỉ bằng 1/5 của DN FDI và gần 1/2 của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN). Chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNTN bình quân chỉ đạt 4% so
với 16,3% của DN FDI và 11% của DNNN.
Về liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cũng chỉ ở mức 21%, trong khi
tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia là 46%. Chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học
cơng nghệ của DN Việt Nam chưa đến 0,3% doanh thu, trong khi tại Ấn Độ tỷ lệ
này là 5%, Hàn Quốc là 10%, Nhật Bản là 50%... Như vậy, viê •c nghiên cứu thực

trạng phát triển của DNNVV Viê •t Nam, từ đó đề xuất giải pháp phát triển là việc
làm cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

14


Tài liệu tham khảo:
1. Ban Kinh tế Trung ương (2019), Báo cáo 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, tháng
4.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Phát triển doanh nghiệp (2017), Sách
trắng Doanh nghiêpDnhỏ và vừa Việt Nam, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiêpDViệt Nam năm
2019, Nxb Thống kê, Hà Nội.
4. Nguyễn Trường Sơn (2014), Phát triển Doanh nghiêpDnhỏ và vừa ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ninh Thị Minh Tâm, Lê Ngự Bình (2017), Hiệu quả kinh doanh của các
Doanh nghiêpDnhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2018), Đổi mới phương thức
hỗ trợ tín dụng cho Doanh nghiêpDnhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và một
số kiến nghị cho Việt Nam, Hà Nội.

15



×