Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận lịch sử đảng cộng sản việt nam QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM từ đại hội v đến đại hội XIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.72 KB, 19 trang )

TRƯỜNG
KHOA

BÀI THẢO LUẬN

TÊN MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM TỪ ĐẠI HỘI V ĐẾN ĐẠI HỘI XIII

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG

1
1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH MƠ HÌNH
Chương 1. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ

1.1.
1.2.

Chương 2.

2.1.
2.2.



NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1
1
5

Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Sự phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở

6

Việt Nam từ Đại hội Đảng lần thứ VII đến nay
Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

6

Nam hiện nay

13
16
17

PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
Phần 1. MỞ ĐẦU
Mùa xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là, sự kiện có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, chấm dứt
những năm tháng khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, tỏ rõ tính ưu việt và tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã gặp khơng ít khó khăn, thử
thách. Vì vậy, để tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, cải
thiện đời sống của nhân dân, đưa đất nước thốt khỏi đói nghèo và lạc hậu là
vấn đề then chốt của Đảng ta lúc bấy giờ.
Hơn một phần tư thế kỷ đổi mới (Đại hội lần thứ VI của Đảng 12-1986)
và sau này Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển đường lối, đề ra
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc
biệt, từ Đại hội VII (tháng 6-1991) cho đến nay. Với Cương lĩnh đúng đắn,
cùng hoạt động thực tiễn sôi động, phong phú, sáng tạo của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Một
trong những thành tựu đó là nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã
hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam không những được nhân dân ta ghi
nhận, mà còn được cộng động quốc tế đánh giá cao.


2

Phần 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH MƠ

HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ C.Mác, Ph.Ăngghen, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đang trên đà phát triển, giai cấp tư sản mặc dù đã bộc lộ đầy đủ bản chất tàn
bạo và phản động, nhưng về cơ bản vẫn còn đang đóng vai trị trung tâm của
lịch sử; giai cấp vô sản ngày một trưởng thành thông qua các cuộc đấu tranh
cách mạng ở châu Âu, nhưng vẫn còn non yếu về mọi mặt. Trong điều kiện lịch
sử đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu rõ sự vận động của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để có những dự báo thiên tài về
sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Từ đó, các ơng đã đi đến
khẳng định: Tơi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa tất yếu sẽ
ra đời để thay thế cho hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.
Dựa trên những quan niệm về lịch sử xã hội, C.Mác đã đề cập đến lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và các giai đoạn phát
triển của nó trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô Ta” C.Mác đã chỉ rõ
những đặc trưng cơ bản của từng giai đoạn, nhất là những đặc trưng trong
giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa
xã hội). Trong đó, C.Mác đã chỉ rõ: “Một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa
thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lịng ra” [6, tr.33].
Mác đã phân tích sâu sắc đặc điểm của giai đoạn này về mặt kinh tế,
tập trung quan hệ sở hữu. Theo C.Mác sau khi chế độ tư bản chủ nghĩa sụp
đổ, chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại, cho nên việc cải tạo để đi đến xoá bỏ chế độ
tư hữu là một quá trình dần dần. Mác đã khẳng định “Giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lịng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra,
sau những cơn đau đẻ dài. Chính quyền khơng bao giờ ở một mức cao hơn

chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế quyết


3

định” [6, tr.36]. Vì vậy, đặc trưng cơ bản về kinh tế của giai đoạn này về phân
phối là làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
Về phương diện chính trị - xã hội đó là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa
chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội đang được hình thành. Nên mục đích của
chủ nghĩa cộng sản về chính trị là xố bỏ nhà nước, mà cơ sở xã hội của nó
chính là chế độ tư hữu. C.Mác cũng đã chỉ ra sau khi giành chính quyền, giai
cấp vơ sản phải dùng chế độ dân chủ làm phương tiện để thi hành các biện
pháp đánh vào chế độ tư hữu, cải tạo, thủ tiêu các quan hệ bóc lột, thiết lập các
quan hệ sản xuất mới cơng bằng. Và đó là một q trình dần dần, khơng thể
nóng vội. Mặt khác sau khi giành chính quyền giai cấp vơ sản phải sử dụng
quyền lực chính trị một cách triệt để vừa cưỡng bức, tước đoạt bọn áp bức, bóc
lột, nhưng vừa phải nêu gương giúp đỡ nhân dân xây dựng xã hội mới.
C.Mác cũng đã chỉ ra để tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị. Và
nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính
cách mạng của giai cấp vơ sản” [6, tr.47]. Xã hội của thời kỳ quá độ là một xã
hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản mà ra; là thời kỳ cải biến cách mạng, do
vậy về kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ.
Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chun chính vơ sản.
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin đã đưa ra nhiều luận điểm mới để bảo vệ, phát triển sáng và làm
phong phú chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Điểm nổi bật là
nhận thức mới của Người về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

một nước tư bản kém phát triển. Người cho rằng: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi
lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc
đều tiến tới chủ nghĩa xã hội khơng phải một cách hồn tồn giống nhau; mỗi
dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế
độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào nhịp độ này
hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau
của đời sống xã hội” [12, tr.160].
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về lý luận phân
kỳ của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, V.I.Lênin đã tiếp tục


4

khẳng định sự phân kỳ gồm: 1. Những cơn đau đẻ kéo dài; 2. Chủ nghĩa xã
hội; 3. Xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, V.I.Lênin đã khẳng định trong
giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư
bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài nên pháp quyền khơng bao giờ
có thể cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hố của xã hội.
Bên cạnh đó, V.I.Lênin cịn phát triển sâu sắc lý luận về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I.Lênin đã chỉ ra các hình thức quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ hình thức quá độ bỏ qua đối với các nước lạc hậu,
kém phát triển. Trong đó, V.I.Lênin đã khẳng định tính tất yếu phải trải qua
một thời kỳ quá độ, chỉ rõ tính chất, đặc điểm của thời kỳ q độ đó là thời kỳ
không thể không bao gồm những đặc điểm, đặc trưng của hai kết cấu kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ giai đoạn ấy không thể
nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy
chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh. Hay nói một cách khác, giữa chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản
đã phát sinh nhưng còn non yếu về mọi mặt.
Đây là những luận điểm rất quan trọng, không những phù hợp với đặc
điểm, điều kiện lịch sử lúc đó ở nước Nga, mà cịn với cả các nước lạc hậu chậm

phát triển khác trên thế giới. Từ đó, V.I.Lênin cho rằng việc chuyển từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh vơ cùng khó khăn, nên phải
sẵn sàng chịu đựng những thử thách, thậm chí có những thất bại tạm thời.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội
tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các chế độ xã hội trước đó xét trên tổng thể các đặc
trưng chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Nhưng, để xây dựng chủ nghĩa xã hội,
những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ
bản nhất của mơ hình chủ nghĩa xã hội để biến chủ nghĩa xã hội trở thành hiện
thực. Đây là địi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong
quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam,
Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước
mạnh” [9, tr.226.], “mục đích của chủ nghĩa xã hội là khơng ngừng nâng cao


5

mức sống của nhân dân” [11, tr.159], “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra
sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ” [11,
tr.258]. Người khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là “một thế giới khơng có
người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng
đáng là thế giới của loài người” [10, tr. 324]. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội
theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có
cơng ăn, việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được
phát triển tồn diện.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa luôn là sự thống
nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói:
“xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là

chủ nghĩa xã hội” [11, tr.591]. Cụ thể hơn, Bác cho rằng chủ nghĩa xã hội phải
“có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”
[11, tr.14]. Cịn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều là công
bộc của dân.
Những điều kiện đảm bảo cách mạng thành công, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, truớc hết phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu
Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa
xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
để mỗi cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây dựng, tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo cho thực hiện thắng
lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác nói: “Nếu khơng
có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ, thì
nhân dân khơng ai dẫn đường”.


6

Theo Bác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của tồn
dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của tồn dân, của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong cơng

cuộc xây dựng đất nuớc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc biệt quan tâm tới việc tuyên
truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người một cách toàn diện: đức, trí,
thể, mỹ; đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức.
Nhìn lại chặng đường hơn 91 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục
tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành đuợc những thắng
lợi hết sức to lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ
đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
CHƯƠNG 2. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam từ Đại hội Đảng lần thứ VII đến nay
Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhận
thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội Đảng lần thứ VI
đến nay ngày càng sáng tỏ. Điều này thể hiện ở những nội dung sau:
* Sự phát triển nhận thức của Đảng về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận
dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ.
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta
phác thảo ban đầu trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986.



7

Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ này, chúng ta chưa xác định được mơ hình và
những đặc trưng cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội VI đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của
Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng về
chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc cải biến
cách mạng lâu dài, toàn diện, sâu sắc và triệt để, có kế thừa và có phát triển.
Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mơ
hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được Đảng ta chỉ ra
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định: Xã hội xã hội chủ
nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới [1, tr.8-9].
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong
Cương lĩnh năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa
xã hội. Những đặc trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động
lực và mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức
mới sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác
định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ

bản: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của


8

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới” [3, tr.68].
So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu chung “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác định là đặc trưng
thứ nhất trong 8 đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội được xác định rõ
nét, cụ thể hơn. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù có những thay đổi
về mặt ngôn từ nhưng về bản chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung
thêm một đặc trưng mới. Đây là một bổ sung quan trọng về đặc trưng bản
chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. So với
Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn

trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [4, tr.70].
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn đề về
nội dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội phải là dân
giàu, nước mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước mạnh tạo điều kiện cho
dân giàu có chính đáng. Dân giàu không chỉ giàu về của cải vật chất mà giàu
cả về trí tuệ, văn hóa, tinh thần, đạo đức. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ
sức mạnh của nhân dân. Nước mạnh dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao,
chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn định quốc phịng, an ninh vững mạnh, xã
hội đồn kết, đồng thuận, trong ấm ngồi êm, khơng gây thù oán trong quan
hệ quốc tế. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc lập, tự lực, tự cường, ở bản
lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức.


9

Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công
bằng, văn minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Dân chủ là bước tiến, là khát vọng của con
người, của mỗi dân tộc. Dân chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong
kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phát triển chưa từng có, giải phóng triệt
để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nói quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất. Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp đặt ra nhiệm vụ phải khơng ngừng
hồn thiện quan hệ sản xuất với sự đồng bộ của tất cả các yếu tố (chế độ sở
hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản
phẩm), chứ không chỉ về chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất cơng
chỉ là giải pháp để đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người. Mục
tiêu xây dựng, phát triển con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa cần xác
định con người, nhân dân Việt Nam là chủ thể xây dựng, tạo dựng xã hội tốt
đẹp và được hưởng chính những thành quả đó. Con người trong xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam phải là những người năng động, có trí tuệ, học vấn cao,
vươn tới đỉnh cao của tri thức nhân loại.
Để làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi
mới: Thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước tồn diện, đồng bộ hơn
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng
văn hóa, con người là nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật là: Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng khơng chỉ xác định xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần mà cả xây
dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính là mục tiêu, bản chất chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.


10

* Sự phát triển nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của
thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi
nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời
kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ
với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước đi thích
hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất, ln ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”
[4, tr.70]. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam
đưa ra đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng - tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng
vai trị chủ đạo và chi phối các thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi
mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh tế, lực lượng sản xuất được giải
phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát triển quan trọng, có
những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên
sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển
kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua
các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn
bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư
tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương
diện: Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai
là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện

đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm


11

phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo
điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội
mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I. Lênin: “chủ nghĩa
cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại”
[14, tr.360].
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những
vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình
xây dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực
hiện Cương lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát
triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương
hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời
kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội
và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để
đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc [4, tr.71-72].
Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trị chủ yếu
trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và
hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo
vệ mơi trường. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, được

bổ sung mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đại hội XIII của
Đảng làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ:
“Con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” [5,
tr.16]. Điểm mới của Đại hội XIII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, xác định mục tiêu và tầm nhìn phát triển.


12

Nghị quyết nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: Nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đồn
kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025: là nước đang phát triển, có cơng
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm
2030: là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao. Đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Hai là, xác định nhiệm vụ trọng tâm.
Đại hội XII của Đảng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Đại hội XIII của
Đảng cũng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, so với Đại hội XII, nội
dung từng nhiệm vụ trọng tâm có những điểm mới. Về xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị, Báo cáo chính trị bổ sung yêu cầu đổi mới phương thức lãnh

đạo, cầm quyền của Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lịng tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Về phát triển kinh tế, bổ sung, nhấn mạnh
xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị
trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa
các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số… Về
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Giữ vững độc
lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phịng, an ninh, kiên quyết, kiên trì
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo, vùng trời; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Về văn hóa, xã hội, bổ sung, nhấn mạnh: Khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con


13

người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc
tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của Nhân dân. Về dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc: hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền Mặt
trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên. Về
tài ngun, mơi trường, biến đổi khí hậu: quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý,
hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực

triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
2.2. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Hiện nay, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh thững
thuận lợi là cơ bản thì chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách
thức to lớn, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trong bối cảnh đó, việc kiên định
và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
địi hỏi tồn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải thực hiện tốt các phương
hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để
từng buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc
lập, tự chủ của nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát
triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là
những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển
nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng
tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối tồn
cầu. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; phát
triển nơng - lâm – ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với
giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các
ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch,


14

các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng giao thông, điện, nuớc, các cơng trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường,

đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa
giữa các vùng đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo,
thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế…
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng
bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng,
văn hố hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phịng
tồn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và cơng an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên,
dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền cơng nghiệp
quốc phịng, an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày
càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn

xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.


15

Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi
cho sự phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực
tế cuộc sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền
lực đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ
chế, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, cơng
chức đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập
hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước
thực sự là của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời
sống xã hội, thực hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã
hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và

tổ chức; kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc; có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt
đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực,


16

có sức chiến đấu cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
KẾT LUẬN
Sự phát triển tư duy của Đảng trong việc xác định mơ hình chủ nghĩa
xã hội từ Đại hội VI đến nay vừa là sự trung thành và vận dụng sáng tạo
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Mơ hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn
định tương đối, nó khơng phải là một mơ hình khép kín và cứng nhắc mà nó
chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết
quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn
phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái
đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình có tên gọi: mơ hình
chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình
phát triển của chủ nghĩa xã hội với sự vận động khơng ngừng của nhân loại đi

lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, trên cương vị chức trách
nhiệm vự được giao, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần nhận
thức sâu sắc và có những hành động thiết thực, hiệu quả, góp phần hiện thực
hóa mơ hình đó trong cuộc sống.


17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần tồn quốc
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập (1995), tập19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995), tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh tồn tập (2011), tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh tồn tập (2011), tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10.Hồ Chí Minh tồn tập (2011), tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11.Hồ Chí Minh tồn tập (2011), tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12.V.I.Lênin toàn tập (2005), tập 30, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
13.V.I.Lênin tồn tập (2005), tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14.V.I.Lênin tồn tập (2005), tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.




×