Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN CUỐI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.45 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405_78CLC
NHÓM THỰC HIỆN: Hoa Tulip. Thứ 5 - tiết: 7-8
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2021


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
NĂM HỌC: 2020-2021

Nhóm Hoa Tulip. Thứ 5 tiết 07, 08
Tên đề tài: Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã hội ở Việt Nam
STTHỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
1
2
3
4
5
6
Trưởng nhóm: Nguyễn Trường Phúc

Nhận xét của giáo viên:
.............................................................................................................................


.
.............................................................................................................................
.
.............................................................................................................................
.
.............................................................................................................................
.
...................................................................................................
Ngày………tháng......... năm.......
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
1.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.Tính tất yếu và các loại hình q độ lên CNXH
2.1.Tính tất yếu của q độ lên CNXH
2.2.Các loại hình quá độ lên CNXH
2.3.Những đặc trưng của CNXH
3. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam
3.1.Tính tất yếu của quả độ lên CNXH ở Việt Nam
3.2.Khả năng tiên hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam
3.3.Nhận thức về quá độ lên CNXH bở qua CNTB ở Việt Nam
3.4.Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH
ở Việt Nam
4.

Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA
1. Những thành tựu đã đạt được

1.1.Về kinh tế

1.2.Về xã hội
1.3.Về chính trị
2.

Những hạn chế
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ
2.2.Hạn chế trong quản lỷ của Nhà nước

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT
NAM
1.Giải pháp về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.Phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường

2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần


2.2.Phát triển đồng bộ các loại thị trường
2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quán lý Nhà nước

của Đảng
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Muốn hiểu được rõ thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết ta phải
hiểu được thế nào là thời kỳ quá độ. Theo lý luận Mác-Lênin đã khẳng định muốn tiến
từ một phương thức sản xuất thấp lên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc
phải trải qua thời kì quá độ. Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “Thời kì quá
độ là thời kì cài biến Cách mạng khơng ngừng, triệt để và tồn diện từ phương thức
sản xuất này sang phương thức sản xuất khác. Trong thời kì quá độ xét về mặt kinh tế,
chình trị, xã hội đó là một thời kì có nhiều mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luện phải giải
quyết triệt để”.
Từ khái niệm về thời kì quá độ ở trên ta có cơ sở để tìm hiểu về thời kì quá
độ lên CNXH. Cũng trong di sản lý luận kinh điển Macxit thì quá độ lên CNXH là sự
phát triển trực tiếp từ những luận chứng khoa học về tính tất yếu lịch sử của CNXH về
vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo lý luận này thì: “Quá độ lên
CNXH là sự chuyển tiếp quá độ bằng Cách mạng để phủ định một trật tự của xã hội
cũ sang một trật tự xã hội mới với phương thức sản xuất mới, quan hệ sản xuất và chế
độ sỡ hữu mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới mà chủ thể
quyền lực là giai cấp công nhân và nhân dân lao động”.
2. Tình tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH
2.1. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH
C.Mac cho rằng thời kì mày bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là
tiến trình q độ khơng dễ dàng, nhanh chóng và có thể trải qua nhiều khúc quanh;
những quãng cách mới để đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng được Lênin khẳng
định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp xây dựng CNXH có khi phải “làm lại nhiều
lần” mới xong và trong thực tế diễn biến của tiến trình quá độ trong gần 90 năm qua
với những thất bại thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó.
Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên CNXH là do đặc điêm ra đời phương thức

sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vơ sản quy định, sự hình thành chế độ mới
có thể ví như một cơn đau đẻ kẻo dài do đó nó cần phải cỏ thời gian, có những sự
chuẩn bị và những tích luỹ vật chất cần thiết đủ cho nó lọt lịng và phát triển.
Thứ nhất: Cách mạng vơ sản có điểm khác biệt căn bán so với Cách mạng tư
sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất Tư
bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên quan hệ sản xuất Tư
bản chủ nghĩa có the ra đời từ trong lịng xã hội phong kiến; nhiệm vụ của nó chỉ là
giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước làm kinh tế thị trường thích ứng với cơ sớ hạ
tầng của nó.


Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời
kì lâu dài, khơng thế ngay một lúc có thê hồn thiện được. Đê phát trien lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế đô công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, xây dựng kiếu xã hội mới, cần phải có thời gian, hay tất yếu phải có thời kì
quá độ lên CNXH.
2.2.

Các loại hình quá độ lên CNXH

Lý luận của chủ nghĩa Mac- Lênin chí rõ rằng con đường quá độ của các
quốc gia để đi lên CNXH — giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sàn chủ
nghĩa thì ớ mồi quốc gia khác nhau. Nhưng C.Mac đã khái quát và chỉ ra hai loại hình
quá độ đi lên CNXH.
Thứ nhất là quá độ phát triển trực tiếp: Xuất hiện ở các nước đã trải qua CNTB
phát triển, chưa từng xảy ra trong lịch sử.
Theo C. Mác, q độ chính trị của CNTB khơng phải chỉ là sự thể hiện ra ở một,
hay một số cuộc cách mạng chính trị. Đây là cả một thời kỳ q độ chính trị lâu dài
và khó khăn, từ CNTB phát triển cao trực tiếp lên CNXH. Đây là một q trình cách
mạng khơng ngừng thực hiện khơng chỉ một điểm quá độ, mà là một giai đoạn quá độ

tất yếu. Trong đó, chính trị (chun chính vơ sản- CCVS) là điều kiện tiên quyết để
thực hiện quá độ trong mọi lĩnh vực khác của xã hội.
Theo V. I. Lê-nin, từ xã hội phong kiến lên CNTB, ngay trong giai đoạn quá độ
đã hình thành cả LLSX lẫn những tổ chức kinh tế mới và những hình thức quan hệ
TBCN. Đến giai đoạn quá độ chính trị (cách mạng tư sản), mới sinh thành chế độ
chính trị TBCN. Nhưng ở TKQĐ lên CNXH trước hết sinh thành nhà nước XHCN,
nhờ đó mới phát triển dần LLSX và quan hệ sản xuất (QHSX) XHCN. Cho nên,
TKQĐ không dễ dàng, không chóng vánh. Độ dài của nó có thể được tham chiếu từ
các giai đoạn nhiều trăm năm hình thành các xã hội nô lệ, phong kiến, TBCN.
Bản chất của TKQĐ lên CNXH là sự giao thoa giữa CNTB và CNXH. Đến
CNXH, CNTB chỉ còn lại “những dấu vết về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh
thần”. Đây chính là “giai đoạn đầu” trưởng thành, cùng thuộc về xã hội cộng sản chủ
nghĩa (CSCN) nói chung như “giai đoạn cao” “đã phát triển trên những cơ sở của
chính nó”. Cho nên CNXH cũng mang bản chất CSCN.
Sau khi phân biệt rõ “giai đoạn đầu” và “giai đoạn cao” của CNCS, C. Mác nói
đến TKQĐ ở “giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN”. Tức là nó đã vượt qua giai đoạn
cuối của CNTB, nhưng chưa đi vào “giai đoạn đầu” của CNCS, càng không thể tới
ngay “giai đoạn cao”. Do đó, TKQĐ chỉ có thể là từ CNTB lên “giai đoạn đầu”. V. I.
Lê-nin vào năm 1917 gọi “giai đoạn đầu” là CNXH và xác định, TKQĐ không phải là
CNXH hồn chỉnh. Chúng có bản chất khác nhau rõ rệt: TKQĐ khơng thể có đầy đủ


thuộc tính của CSCN, nhưng CNXH đã thể hiện bản chất này nói chung và phản ánh
xu hướng đi tới CNCS.
Sự phân biệt rõ ràng TKQĐ với CNXH về mặt lý luận, việc nhận thức theo
đúng tư tưởng của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin rằng, TKQĐ khác CNXH, không phải là
vấn đề hàn lâm kinh viện đơn thuần, không thiết thực. Trái lại, nó có ý nghĩa thực tiễn
to lớn, vừa quan trọng, cơ bản, lâu dài, vừa thường xuyên, trực tiếp, cấp bách. Mơ
hình Xơ-viết do đồng nhất TKQĐ với CNXH, hoặc ngộ nhận một xã hội ở TKQĐ là
CNXH, hoặc lầm tưởng TKQĐ ở trình độ thấp (gián tiếp) là TKQĐ ở trình độ cao

(trực tiếp), nên đã xác lập QHSX XHCN một cách hình thức, thiếu cơ sở kinh tế - kỹ
thuật tiên tiến cần thiết, tất yếu, phù hợp tương ứng. Việc vội vã xây dựng QHSX mới
vượt q quy mơ, trình độ thực tế của LLSX cịn thấp, khiến cho chính ở những nơi
có sự bất cập, hụt hẫng, chênh lệch ấy, QHSX này không tránh khỏi bị biến dạng,
biến chất. Ở Liên Xô trước đây, sở hữu tập thể, quốc doanh đã dần bị tha hóa thành
các hình thái trá hình của tư hữu. Tại những vùng có điểm xuất phát thấp, có lúc, có
nơi cịn tái hiện cả kiểu sở hữu nhà nước chuyên chế cổ - trung đại của phương thức
sản xuất (PTSX) châu Á, phương Đơng mà C. Mác từng nói đến.
Thứ hai là quá độ gián tiếp: Xuất hiện ở các nước chưa trải qua CNTB phát
triển, đã từng xuất hiện trong lịch sử gắn với các trình độ phát triển khác nhau.
Thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Cùng với sự phát triển lịch
đại của một xã hội theo chiều dọc thời gian, tuần tự trải qua các hình thái do mâu
thuẫn bên trong, C. Mác còn đề cập đến sự phát triển đồng đại theo chiều ngang
không gian do tương tác qua lại giữa các xã hội. Ông chú ý đến trường hợp đặc biệt
là, hai xã hội thời cổ đại “tác động qua lại làm nảy sinh ra một cái gì mới, một sự tổng
hợp”, “kết hợp cả hai” PTSX và cùng tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Đó là trường hợp người Giéc-manh từ xã hội cơng xã nguyên thủy bỏ qua xã hội nô
lệ, cùng người La Mã đi lên xã hội phong kiến. Từ khi người Giéc-manh bắt đầu lấn
át người La Mã vào thế kỷ thứ II và đánh đổ chế độ nô lệ vào thế kỷ thứ V, họ chỉ mất
300 năm để từ cuối công xã nguyên thủy bỏ qua chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến.
Nếu vẫn tồn tại riêng biệt, thì để có sự phát triển đó, họ phải trải qua xã hội nơ lệ hàng
nghìn năm.
Từ cách tiếp cận này C. Mác cũng chỉ ra, khi một số nước TBCN ở châu Âu có
trình độ cơng nghiệp khác nhau tác động qua lại, thì mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
ở nước có trình độ thấp vẫn có thể gây xung đột chính trị gay gắt, khiến cho cách
mạng vơ sản sớm nổ ra.
Khi quan tâm đến tình hình nước Nga Sa hồng đương thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, không chỉ nước TBCN tiên tiến phương Tây có thể làm cách mạng vơ


sản thành công rồi bước vào TKQĐ, mà nước Nga và các nước tiền TBCN nói chung

cũng có thể thực hiện điều đó. Điều kiện quan trọng ở đây là, các nước này được nước

phương Tây phối hợp cùng làm cách mạng vô sản thành công, tiếp tục giúp đỡ
về vật chất khi bước vào TKQĐ. Lúc ấy nước phương Tây thực hiện TKQĐ trực tiếp.
Nước được giúp đỡ “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”, “rút ngắn tiến
trình đi lên CNXH”, có nghĩa là rút ngắn chính lịch trình vận động, phát triển của xã
hội TBCN. Nhưng nó vẫn phải thực hiện TKQĐ từ tiền đề vật chất không tự tạo ra ở
bên trong, mà được giúp đỡ từ bên ngồi. Chính vì thế, TKQĐ này khơng hoàn toàn
trực tiếp, mà chỉ là nửa trực tiếp.
Thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ TBCN. Theo V. I. Lê-nin, từ cuối thế kỷ XIX,
CNTB có nhiều biến chuyển quan trọng: độc quyền thay thế cạnh tranh, việc mở
mang thị trường thế giới đã đạt đến giới hạn địa lý toàn cầu. Mâu thuẫn giữa các nước
phương Tây trở nên gay gắt. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Xuất hiện cơ hội
cho cách mạng XHCN có thể thắng lợi ở một nước riêng biệt không phải là nước tiên
tiến, và đó chính là nước Nga. Tiếp theo, nước này có thể bước vào TKQĐ gián tiếp
lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Thời kỳ quá độ gián tiếp có một nội dung chủ yếu
là, dưới sự kiểm soát, bảo đảm của nhà nước XHCN, cần sử dụng, phát triển kinh tế
TBCN để xây dựng LLSX. Sau đó, tiếp tục chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của
TKQĐ trực tiếp, là xây dựng cơ sở ban đầu cho CNXH.
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V. I. Lê-nin cho rằng các nước lạc hậu
phụ thuộc, thuộc địa ở phương Đơng cũng có thể thực hiện cách mạng XHCN và
TKQĐ, khi liên minh với nước Nga Xô-viết. Trong tư tưởng của V. I. Lê-nin, đương
nhiên TKQĐ này sẽ khó khăn hơn nếu diễn ra đơn độc. Nhưng dù có thực hiện được
sự liên minh, thì TKQĐ ấy cũng vẫn chỉ là gián tiếp và ở trình độ thấp hơn nhiều so
với TKQĐ gián tiếp ở nước Nga. Ngoài ra, phải phân biệt tư tưởng đó của V. I. Lê-nin
với một ý kiến khác của chính ơng cho rằng, nếu được giai cấp vơ sản các nước tiên
tiến giúp đỡ, thì các nước lạc hậu có thể đi lên CNXH “khơng phải trải qua giai đoạn
phát triển TBCN”. Đây chính là tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về TKQĐ nửa
trực tiếp, không giống TKQĐ gián tiếp mà V. I. Lê-nin mới nêu lên.
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX, khi xem xét tình hình thuộc địa Ai-len

và chính quốc Anh, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã từng nêu khả năng cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra, kết hợp và thúc đẩy cách mạng vơ sản tại chính
quốc. Nhưng trong tư tưởng của các ông, TKQĐ ở Ai-len là nửa trực tiếp. Bởi vì sau
cách mạng vô sản, nước Anh sẽ bước vào TKQĐ trực tiếp, nên nó có đủ điều kiện để
giúp đỡ các nước lạc hậu thực hiện TKQĐ nửa trực tiếp. Chính trên cơ sở những tư
tưởng này của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, từ năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã


chỉ rõ vai trị quan trọng, tích cực chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc, gắn
liền cuộc cách mạng này với cách mạng XHCN.
2.3.

Các đặt trưng của CNXH



Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi nên sản xuất cơng nghiệp hiện đại.



CNXH là từng bước xố bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất.



Tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động với năng xuất cao.



CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, nguyên tác cơ bản

nhất.



Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai
cấp cơng nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao
động.



Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột
về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện.



Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc
tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
3. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Ngay sau khi tiến hành thành cống cuộc Cách mạng dân tộc dàn chủ và cuộc
kháng chiến chổng để quốc xâm lược kết thúc thắng lợi ở Miền Bắc, chính phủ cơng
nơng được dựng lên thi Đảng ta đã có chủ trương quá độ thẳng lên CNXH. Đó là tất
yếu dựa trên cơ sở khả năng nhận thức và nhiệm vụ của thời kì q độ.
3.1.

Tính tất yếu của quả độ lên CNXH ở Việt Nam.

Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH

cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tể phát triển. Con
đường phát triển quá độ lên CNXH bở qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà
chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo
phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy
luật theo tiến trình phát trien lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá
độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẻn CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt
lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sán
chủ nghĩa mà giai đoạn đẩu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, CNTB không phải là


tương lai của lồi người, nó khơng vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản
nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng
ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là
hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con
người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ thăng lên
CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của
lịch sử.
Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra
đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhản dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
đã thành cơng thì chúng ta đã cỏi bỏ được hai vịng xích, đã thốt khỏi cảnh một cỗ
hai trịng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng,
quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cần được giữ vừng, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải
thiện, nàng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh
tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách mạng dân tộc dân
chủ thành cơng. Nhưng điều đó khơng ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc
giải quyết nó chỉ có thế bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bac tiến lên
CNXH có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống

nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị
cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc
cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng
lợi thì nhất định phải xây dựng miên Băc tiến lên CNXII”. Trong thời đại ngày nay
chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc
thực sự cho tồn thê nhân dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yểu lãnh đạo tồn thể nhân dân lao động tiến
thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
3.2.

Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Với những điều kiện để quá độ thẳng lên CNXH mả chủ nghĩa Mac - Lênin
đã chỉ ra, xét trong bối cảnh quốc tế và đất nước chủng ta có đủ khả năng đế đi lên
CNXH khơng qua giai đoạn phát trien TBCN bao gồm cả khả năng khách quan và
khả năng chủ quan.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giủp
chúng ta tiến lên CNXH là Liên Xơ lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng
xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tính thần. Sau đó hệ
thong xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho chúng ta tấm
gương khá sinh động về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và chí tiết đến mức có


thể từ đó đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình
cách mạng. Còn đến ngày nay, xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi tồn thế giới đã
đóng vai trị tích cực, không những làm cho quá độ bỏ qua CNTB lả tất yếu mà còn
đem lại điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tể hoả
sản xuất, tồn cầu hố với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đã tạo khả năng cho những nước kém phát triến đi sau tiếp thu, vận dụng đưa vào
nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi trước cũng

như tạo khả năng khách quan cho việc khan phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật
hiện đại. Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử
dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được đế rút ngắn thời kì quá độ
lên CNXH ớ nước ta.
Về khả năng chù quan: Mọi thành công của chúniỉ ta đạt được phải kể đến yếu
tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và Liên minh công nông vững chắc.
Các nhả kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lênin luôn ln nhấn mạnh vai trị của Đảng vơ
sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá trình phát
triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng thì ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt
Nam là một nhân tố có v trị quyết định đổi với việc đẩy nhanh sự phát trien đất
nước ,Và trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được
những kết quả khả quan như: đã củng cố vả khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua
TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn cửa nhân dân ta. Các tầng lớp lao động
công nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau chiến đấu,
hy sinh đế giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ
sẵn sàng liên minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng đế vượt qua mọi khó khăn,
xây dựng thành cơng CNXH.
Ngồi ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của
thời kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo
léo, dễ đảo tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên
nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện hồn thành sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản
chú nghĩa
3.3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bở qua CNTB ở Việt Nam.
Ngay từ khi thành lập Đảng ta đã khẳng định con đường tiến lên CNXH ở Việt
Nam là “bở qua” CNTB. Nhưng cụm tù" “bở qua” đã đưa ra những nhận thức khác
nhau về quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Từ thời kì đầu của quả độ đến trước đôi mới ( từ 1945 đến 1986) trong một thời
gian dài nước ta có quan điếm đi lên CNXH bỏ qua CNTB là phủ nhận sạch trơn



những gì CNTB có bao gồm cả quan điểm về kinh tế, chính trị cũng như các sản
phẩm do nền kinh té CNTB tạo ra. Trong thời kì đó Việt Nam đã đồng nhất giữa phát
triển rút ngắn và phát triển ngắn lầm tưởng có thể đi nhanh, xây dựng nhanh chóng dễ
dàng CNXH, sớm kết thúc thời kì q độ, dễ dàng đạt tới mục tiêu của CNXH. Nhận
thức này đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Do đó, Đảng ta đã phải thực hiện đổi
mới vào năm ] 986 cá về kinh tế và tư duy. Chúng ta chỉ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa vì nó đẻ ra chế độ bóc lột và bất bình đắng trong xã hội. về chính trị chúng ta bị
qua sự thống trị của giai cấp tư sản và kinh tể thị trường tư bán chủ nghĩa, về kinh tế
chúng ta bỏ qua sự thong trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cịn chúng ta
khơng thế bỏ qua nển kinh tê hàng hoá và các quan hệ kinh tế của sản xuất hàng hoá,
sự rút ngán phải được thông qua việc sử dụng biện pháp kế hoạch đồng thời với biện
pháp thị trường có quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn
thực hiện “rút ngắn” thời kì q độ chúng ta khơng được bỏ qua những thành tựu
khoa học công nghệ mà chủ nghĩa tir bản đã mất hơn một thế kỉ đế nghiên cứu tạo ra.
Muốn phát trien kinh tế thị trường chủng ta phải để cho các quy luật khách quan hoạt
động không thể chỉ sử dụng bàn tay hữu hình mà phải kết họp cả hai bàn tay hữu hình
và vơ hỉnh. Mặt khác nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nhị lẻ nên chưa có được
những kinh nghiệm của sản xuất lớn. Do đỏ, không nên bỏ qua những kinh nghiệm
của tổ chức và sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa
Như vậy, bị qua CNTB khơng đong nghĩa vởi việc chúng ta bỏ qua tất cả những
yếu tố tồn tại trong xã hội tư bản và nền kinh tế tư bản. Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc
xác lập vị tri thong trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa
nhưng tiếp thu, kế thừa thành tựu mà nhân loạỉ đã đạl được dưới ché độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Chúng ta “ bỏ qua” nhưng không thể làm nhanh chóng. Điều đó
được Hồ Chí Minh khẳng định trong tác phấm Hồ Chí Minh tồn tập “tiến lên CNXH
khơng thế một sơm một chiều”, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỉ quá

độ lên CNXH và tại Đại hội Đảng VI Trường Chinh đã khẳng định rằng quá độ lên
CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua những chặng đường đầy
khó khăn.
3.4.

Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ớ
Việt Nam

Việt Nam đi lên CNXH từ một xuất phát điểm rất thấp lúc đó có tới 95% lao
động là nơng dân, tính nơng nghiệp bao trùm tồn bộ nền kinh tế. Để hoàn thảnh được
những mục tiêu của thời kì quá độ là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dàn chủ, vãn minh thì điều quan trọng là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế


xã hội; phải xây dựng một nen kinh tể xã hội chủ nghĩa với công nghiệp vả nông
nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. Muốn vậy, troĩig thời kì quá độ chủng ta
phái thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau.
Thứ nhất: Phải phát triến lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố và hiện đại hố
đất nước.Căn cứ vào thực lực kinh tể và bối cánh kinh tể, hiện nay lực lượng sản xuất
của nước ta có ba yếu tố lao động, tư liệu sản xuất và khoa học công nghệ, Đc phát
triển lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta thì công việc đầu tiên là cần
phải tập trung vào chiến lược phát triến ngn nhân lực với trình độ ngày càng cao.
Đe lảm được điểu đó thỉ phải tập trung phát triển chiến lược giáo dục đào tạo nguồn
nhân lục. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã khăng định: “ giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu” còn theo nghị quyết Đại hội Đảng IX thì “ Trong bổỉ cảnh hiện nay để
tránh nguy cơ tụt hậu, để ứng dụng nhanh thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới
phải đào tạo đội ngũ công nhân, phải nâng cao chất lượng giáo dục”. Hiện nay, đề
giáo dục đào tạo là quốc sách hảng đầu cần phải:
Đào tạo mới phải đáp ứng địi hỏi của q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.

Phải tiến hành đảo tạo lại lực lượng lao động hiện có cho phù hợp với những đòi
hỏi hiện nay
Đào tạo nâng cao: Nhu cầu đào tạo nâng cao vơ cùng lớn vì hiện nay chúng ta đi
theo xu hướng hội nhập kinh tể quốc tế nên phải có một trình độ khoa học của quốc tể.

Để từng bước tạo lập cơ sở vật chất kĩ thuật làm nền tảng cho phát triển kinh tế
thời kì q độ thì ở nước ta cơng nghiệp hố, hiện đại hoá được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm xuyên suốt quá trình quá độ lẽn CNXH ở Việt Nam. Nhiệm vụ


cơng nghiệp hố, hiện đại hố khơng chỉ diễn ra ở trong các trung tâm cơng nghiệp mà
cịn cơng nghiệp hố nơng nghiệp, nơng thơn.
Muốn thực hiện tốt được nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì chúng ta
phải phát triển được lực lượng sản xuất. Đe phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta
bên cạnh thực hiện chiến lược con người và tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá ,Đê xây dựng ca sở vật chất kĩ thuật hay tư liệu sản xuất Đảng và Nhà nưóc đặc
biệt quan tâm đến chiến lược phát triên khoa học cơng nghệ. Nghị quí Đại hội lần
thử IX của Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển khoa học công nghệ phải tập
trung vào những ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn.
Phát triển khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố nơng
nghiệp nơng thơn phải tập trung chế biển sản phâm nơng nghiệp ví dụ như truớc đây
ta xuất khấu gạo với giá 35 - 40 USD/ tấn nhưng hiện nay do áp dụng khoa học công
nghệ, chất lượng gạo xuất khẩu tăng lên do đó giá tăng lên từ 5 đến 7 USD/ tấn. Khoa
học công nghệ phái tập chung vào những ngành kinh tể cỏ sức cạnh tranh với khu vực
và thể giới như dệt may, giày da... Những ngành đem lại lợi thế cho chúng ta.
Về chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam được Đại hội Đảng IX
khắng định: Khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo trở thành quốc sách hàng
đầu ở nước ta hiện nay.
Thứ hai: Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đê phát triến nền kinh tể nước ta trong thời kì quá độ bên cạnh việc phát

triển lực lượng sản xuất đòi hỏi cách mạng nước ta tiến hành đồng thời quá trình vừa
xây dựng vừa hồn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên cá ba mặt là
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong việc tổ chức quàn lý quá trình
sản xuất và quan hệ trong việc phân phối kết quá sản xuất.
Việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện
nay được tiến hành dưới nhiều hình thức như: sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước, cồ phần hoá một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước để chuyến các doanh
nghiệp từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu là các cổ
đông và thực hiện giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai, tài sản, của cải
liên quan đến chủ thể trong nền kính tế.
Việc xây dựng và hồn thiện quan hệ sản xuất trên phương diện sản xuất quản lí
ở nước ta được đặc biệt quan tâm đến việc hỉnh thảnh các loại hình kinh tế, các tổ
chức kinh doanh; điều đó phải căn cứ vảo tình hình thực tiễn trong nước.


Về việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ trong việc phân phoi kết quả sản xuất:
Trước đây phân phôi theo tài sản và phân phơi theo vốn là hình thức phân phối của tư
bản chủ nghĩa vì vốn và tài sản đều lả của giai cấp tư sản còn phân phối theo lao động
mới là phương pháp phân phối của xã hội chủ nghĩa nhưng hiện nay ở nước ta đang
tồn tại ba hình thức phân phối đó là phân phổi theo lao động, phân phổi căn cứ vào tài
sản và von đóng góp và phân phoi thơng qua phúc lợi xã hội. Thứ ba: Mở rộng và
nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.
Hiện nay xu thế tồn cầu hố vả hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương
mại đang là vấn đc nối bật của kinh tế thế giới. Cả thế giới đang chửng kiến sự phát
triển như vũ bào của khoa học công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ, tạo sự thay đổi sâu sắc cơ cẩu sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thúc đẩy quá trình
quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế cũng như q trình tham gia của mỗi quốc gia vào
phân cơng lao động và hợp tác quốc tể.
Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với chiến lược: “Việt
Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”; “Việt Nam sẵn sàng làm

đối tác đáng tin cậy của các quốc gia trên thê giới”. Sách lược tham gia hội nhập của
Việt Nam là “Tạm gác quá khứ hướng tới tương lai, đa phương hoá các quan hệ quổc
tế và đa dạng hoá các hỉnh thức kinh tế nước ngoài. Chủng ta tham gia vào quá trình
đỏ nhằm mục tiêu phát huy nội lực ở bên ngoài để phát triển kinh tế, nội lực là chính,
là chủ yếu nhưng ngoại lực là quan trọng. Một điều đáng chú ý là tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế dựa trên nguyên tắc là phát trien kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc
lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đất nước vả đảm báo an ninh quốc phỏng của quốc gia.
Muốn, tham gia hội nhập kinh tể quốc tế có hiệu quả chủng ta phải nâng cao sức cạnh
tranh, tích cực tham gia khai thác thị trường thể giới, tích cực tham gia họp tác kinh tế
khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương tồn cầu, xử lí mơi quan hệ kinh tế đôi
ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, báo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
4. Một số đặc điểm cơ bán của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam Nước

ta quá độ lên CNXH có những đặc điểm chung của quá độ lên CNXH
của các nước trên thế giới như: Đó là thời kì xét trên mọi lĩnh vực của đời sổng xã hội
đều do nhiều thảnh phần không thuần nhất cấu tạo nên; là thời kì mà sự phát triển cái
cũ của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới cùa trật tự mới.
Thời kì đó có nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua những lần thử nghiệm đế rút ra
những kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn và trong quá trình thử nghiệm.


Bên cạnh những đặc điếm chung đó chúng ta tiến hành q cịn có những đặc điểm
khác biệt với các quốc gia khác như chúng ta bắt đầu tiến hành quá độ khi đất nước
vẫn còn bị chia cắt hai miền với những chiến lược và nhiệm vụ khác nhau (Đại hội
Đảng III năm 1960). Trong quá trình tiến hành quá độ từ Đại hội Đảng III đến Đại hội
Đảng VI chúng ta luôn nhận được sự viện trợ giúp đỡ hợp tác của hệ thong xã hội chủ
nghĩa trên thế giới mà đặc biệt là Liên Xơ thời đó, Nhưng đặc điếm to lớn nhất của
chúng ta trong thời kì q độ là “ từ một nước nơng nghiệp lạc hậu tiến thảng lên
CNXH khống phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó tuy khơng phải
la một quy luật binh thường nhưng rất phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ.



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA
1. Những thành tựu đã đạt được
Trong suốt thời kì q độ nhất là từ khi thực hiện cơng cuộc đổi mới (từ 1986)
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
1.1.

Về kinh tế

Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta phụ
thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, nạn đói
xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới hàng vạn
người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc thắng
lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền
kinh tế đà thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đà xây dựng
được nền kinh tế mang tính độc lập lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thốt khỏi
sự phụ thuộc hồn tồn vào chú nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ i 945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển nhất định
nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi mới).
Sau gần 20 năm đổi mới kinh tê đã có những bước chuyển biến đáng mừng.
Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc độ cao.
Mứt tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004 ,năm 2005 đại
8,4%,nam 2006 tăng 8,17% ,còn năm 2007 GDP ở ViêíNam là 8,3%
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khấu mở rộng, các rào
cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm
2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động họp tác kinh tế, đầu tư, mớ rộng thị trường
xuất khẩu được củng cổ và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lónh đạo

Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tỡnh hỡnh chánh trị
ổn định, an ninh - quốc phũng bảo đảm, đó tạo mụi trường thuận lợi thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ
cấu kinh tế chuyến dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổĩ bật nhất, cơ bản nhất của
nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tồng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế
hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11
năm gần đây.Với tốc độ này Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007
của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ãn Độ (khoảng 9%) và cao nhất
trong các nước ASEAN (6,1%).Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu
đều đạt mức khá:


Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng
kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xảy dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng
10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với
mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và chuyên các
thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyến dịch theo hướng khu vực I (gom nông
nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tẵng trưởng cao liên tục nhưng tỷ
trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây đựng cơ bản)
và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đen năm 2003 tỷ trọng của khu
vực I là 22%, khu vực II là 39%, khu vực III là 39 năm 2004 thì tỷ trọng các khu vực
tương ứng là 21.8%; 40.1%; 32,2% .Năm 2007 cơ cấu kinh tế có bước chuyến dịch
tích cực theo hướng tăng tỷ trọng cơng nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu
vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm
41,5%, dịch vụ 38,1 %.
Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tể mới đã bước đầu được hình thành. Nhà nước
đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị
trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu
sử dụng phương pháp hành chính coi kế hoạch hố vói các chỉ tiêu pháp lệnh là công
cụ đế quản lý, điều hành nền kinh tể sang chủ yểu quản lý bằng pháp luật kết hợp
chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập
và chính sách kinh té đối ngoại.
Thứ tư: Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế và đẩy lùi
lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con sổ (cao nhất là
774,7% năm 1986} nhưng đến năm 1989 lạm phát đà được chặn lại ở hai con số sau
đó giảm xuống một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là 0,8%;
năm 2002 là 4%; năm 2003 là 3% thậm chí cịn có giảm phát vào năm 2000 là - 0.6%.
Năm 2004 vừa qua lạm phát đã tăng lên 9,5%.
Thứ năm: Về kinh tế đối ngoại. Trong thời kì quá độ cũng phát triển mạnh mẽ.
Chúng ta đã tham gia vào các tố chức khu vực cũng như trên thề giới: gia nhập
ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp
định thương mại Việt - Mĩ, . Tháng 10 năm 2004 tổ chức thành công Hội nghị thượng
đinh á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Tháng 11 năm 2006 việt Nam gia nhập WTO và
cũng trong năm này Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị APEC.


Năm 2006 Việt Nam đạt xuất khẩu kỷ lục 39,6 tỉ USD,năm 2007 đạt ngưỡng 47
tỉ USD.Thu hút vốn đầu tư nước ngồi đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và
vốn tăng thêm của các dự án cũ bố sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ
USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt ké hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước
đên nay. Tống số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đẩu tư của 5 năm 1991 –
1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. vốn đầu tư chủ yểu
tập trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy
sản 1,3%. Địa phương thu hút nhiều vốn FDI đăng ký mới trong 2007 là Thành phố
Hồ Chớ Minh 308 dự ỏn với sổ vốn gần 2 tỉ USD; Phỳ Yờn 5 dự ỏn với số vốn trởn
1,7 tỉ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu 1 ti 69 triệu USD;Bỡnh Dương 1 tỉ 20 triệu USD; Hà

Nội 963 triệu USD và Vĩnh Phúc 789 triệu USD. Có 4 quốc gia và vùng lónh thổ đạt
trên 1 ti USD vốn đầu tư mới là: Hàn Quốc 3.686,9 triệu USD; Quần đảo Virgin thuộc
Anh 3.501 triệu USD; Xin-ga-po 1.551,5 triệu USD; Đài Loan 1.141,9 triệu USD.
Trong năm 2007 cả nước đó thu hỳt 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2
tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút von FDI năm
2007 là cơ cấu đầu tư đó chuyển dịch từ cụng nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn,
căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hảng... Địa bàn đầu tư cũng chuyển
mạnh đến các vùng ít dự án như miền Trung, miền Bắc. Năm 2007, cả nước có 52 địa
phương thu hút von FDI. Các tỉnh miền Trung năm 2007 đó thu hút 3,3 tỉ USD vốn
đầu tư đăng ký mới, tăng 264,5% so với năm 2006 và gân bằng số vốn FD1 của 18
năm trước đó cộng lại (3,5 tỉ USD). Nhà máy lọc dầu Vũng Rô do Anh và Nga hợp
tác đầu tư, vốn FDI của tính Phú Yên đạt l ,7 tỉ USD là đứng đầu các tỉnh miền Trung,
vượt qua Đà Nang, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huê.
Tổng số vốn đẩu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ USD là
mức cao nhất từ trước đến nay.
1.2.

Về xả hội

Trong suốt thời kỉ quá độ chủng ta đã đạt được nhùng chuyển biến tốt về mặt xã
hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện một
bước rõ rệt. Sơ hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên ( hiện nay lớn hơn
10%), GDP bình quân đầu người trong cả nước đạt 484,8 USD, khu vực thành thị đạt
tới 794,8%, khu vực Đông Nam Bộ đạt 820,8 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm tù 30% năm
1992 xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03% năm 2004.
Những năm gần đây có 1,5 đến 1,7 triệu lao động được giải quyết việc làm.
Mức tăng hàng năm của số người có việc làm bắt đầu ngang bằng và vượt chút ít so
với lượng tăng thêm trong năm của lực lượng lao động.



Cùng với đời sổng vật chất đời sống tinh thần cũng được nâng lên đáng kể.
Trình độ dân chí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân được cải
thiện. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở lên rộng khắp. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo,các hoạt động văn hố, nghệ thuật, cơng tác kế hoạch hố gia
đình và nhiều hoạt động xã hội khác đều có mặt phát triển và tiến bộ. Các cấp Đảng
bộ ở địa phương thường xuyên chú ý đến các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phục vụ
đồng bào như chiếu phim ảnh, tố chức sinh hoạt tập thế...
Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y tế,
giáo dục. Mạng lưới y tc bây giờ đà rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho
nhân dân. ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y tế
đã được qua đào tạo. Thành công về y tế lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã
nhanh chóng kìm chế, khoanh vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm, rồi
những ca phầu thuật cấy ghép tuỷ, thận...
về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là
quốc sách hàng đầu. Đáng vả Nhà nước ln cỏ những chính sách hỗ trợ và đầu tư
cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh
viên.. .Kết quả là sổ người tham gia xóa mù chữ ở tất cả các cấp tăng lên 12%. Về cơ
bàn nước ta đã phổ cập được tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh trong cả
nước được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trung học năm 2004 đạt
67% Trình độ học vấn ngày càng được nâng cao thể hiện ở sổ hồ sơ đăng kí dự thi vào
đại học và cao đắng ngày càng tăng, Năm 2006 bộ Giáo dục và đào tạo đã kiên quyết
nói khơng với tiêu cực và bệnh thành tích
Tính năng động sáng tạo của người dân được khơi dậy vả phát huy, Người lao
động ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải
thiện đời sống, tham gia ý kiến đỏng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã
hội. Khơng cịn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trơng chờ Nhà nước, dựa dẫm tập
thể.
1.3.

Về chình trị


Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của
Đàng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch
sử và lả tất yếu khách quan. Từ khi giành được thẳng lợi trong cuộc cách mạng Tháng
8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở thành một Đảng cầm
quyền. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo
nhân đân tiến hảnh các cuộc kháng chiến chổng ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây
dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn là lực lượng chính trị duy
nhất lãnh đạo cách mạng vả ỉànb đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối


với Nhả nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng không tự biển minh
thành Nhà nước.
Ngày nay, với yêu cầu mới của công cuộc đổi mới đặc biệt là xây dựng nền kinh
tế định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trị lãnh đạo của Đảng vả quản lý của Nhà
nước được nâng lên. Đáng đã lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thế chê hoá đường lối,
chú trương chính sách của Đảng thành pháp luật. Chủ trương chính sách của Nhà
nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy Nhà nước. Đảng đã lành đạo, chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc
xây dựng Nhà nưởc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân, vỉ dân. Đảng
đã và đang lãnh đạo ngày càng tôt hơn công tác kiêm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền cùng với sự
lãnh đạo của Đảng thì quản Lý Nhà nước cũng được tăng cường.
Nhà nước quán lý kinh tế: trong nền kinh tể thị trường, Nhà nước quán lý kinh
tế thị trường tức là điều khiến kinh te sao cho nó tự vận động đến các mục tiêu mong
muốn bằng cách sử dụng các công cụ điều tiết và can thiệp mỗi khi cần thiết. Nhà
nước chỉ quản lý vĩ mô nền kinh tế chứ không hề “làm kinh tế” như doanh nghiệp
đang làm tức là Nhà nước lựa chọn phương án phát triến kinh tế, xã hội. Can thiệp
điều khiển mồi khi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế,
chính trị xã hội bên trong, bên ngồi.

Đối với việc quản lý xã hội thì Nhả nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, coi
trọng giáo dục nâng cao đạo đức kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng,
nâng cao dân chí. Đã kết hợp được sức mạnh pháp luật với sức mạnh quân chúng.
Đây là nét đặc sắc và cũng là thành công của Đảng và Nhà nước trong việc kết hợp
pháp lý và văn hoá truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được đúc kết Irong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai: Trong suốt thời kì q độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ quyền đất
nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng trong nước, mặc
dù xảy ra khủng hoáng kinh tế, xã hội vào thời ki nhùng năm 1996 — 2000 nhưng
chính trị của nước ta vẫn được ồn định. Thành quả này lả kết quả tống hợp của cơng
cuộc đối mới trong đó quốc phòng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu
cầu củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan
tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên, Thế trận quốc
phịng tồn dân ln được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước càng được khẳng
định rõ ràng, Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết hợp kinh tế và an ninh
quốc phịng.


Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống chính
trị về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bố sung, cụ thể hoá
đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ờ nước ta, củng cố về chính
trị, lư tướng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng trong xã hội.
về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta lả Nhà nước pháp quyền dân chủ, do dân và vì
dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các
cấp theo chế độ phố thông đẩu phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi
bầu người đại diện cho mình - những người sè thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp
trên có thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt họ

đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họ được hướng, Bên cạnh đó, đời sống của
nhân dân các vùng dân tộc cùng được đặc biệt chú ý quan tâm, Đảng vả Nhà nước đã
tạo mọi điều kiện đổ các dân tộc phát ừiển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó
mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam . Đảng ln ln tơn
trọng lợi ích, truyền thống, văn hố, tập qn, tín ngưỡng tơn giáo của các dân tộc,
ln thực hiện nhất qn chính sácầ tơn trọng và đám bảo quyền tụ - do tín ngưỡng tôn
giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi ích
quốc gia dân tộc.
Thứ ba: trong thời gian qua chủng ta đã sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi và ban hành
nhiều văn bản Pháp luật quan trọng, trong đó có nhùng luật vồ tố chức bộ máy Nhà
nước, luật dân sự, luật đất đai, ỉuậí lao động, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật đầu tư
nước ngoài, luật đầu tư trong nước... Qua việc sửa đối, bô sung, thay đổi các văn bản
luật chúng ta đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, xây dựng và
tùng bước hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tư: chúng ta phát trien mạnh mẽ quan hệ đổi ngoại, phả vỡ thế bao vây, cơ
lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực
và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá,
Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ với các nước cơng nghiệp phát trien
như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan bệ Việt — Mỹ, mờ rộng quan hệ vói các nước
Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đơng, với các tố chức quốc tế, khu vực, đã tham
gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA, APEC...và sắp tới đây sẽ gia nhập WTO . Chúng
ta đã nối lại quan hệ với các quỹ tiền tệ như IMF, ODA... nên chúng ta đã được ho trợ
rất nhiều về vốn - một yếu to đầu vào quan trọng của sản xuất.


Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì phát trien quan hệ đoàn kết hữu nghị với các
Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập, các tô chúc và phong trào cách
mạng tiến bộ trên thc giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền.
Thành tựu trên lĩnh vực đổi ngoại là một nhân tổ quan trọng góp phần giữ vững hồ
bình, phá bỏ thể bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng cao vị thế

nước ta trên trường quốc tế.
2. Những hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì q độ và trong
cơng cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã cịn mắc khơng ít khuyết điếm và yếu kém.
2.1.

Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ.

Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đấy phát triển cơ chế thị trường
nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lỷ kinh tế nước
ta cịn đang trong q trình chun đối, luật pháp, cơ chê, chính sách chua đồng bộ,
nhất quán vả tác đông cùng chiều đế thúc đây nền kinh tế phát triến mạnh mẽ, nâng
cao hiệu quá và đúng hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy
hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên..., thủ lục hành
chính có nhiều tiến bộ nhưntí cịn chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa đối bố sung
chứ chưa đưa ra được từ khi ban hành nên cịn nhiều bất cập trong hệ thống hành
chính qc gia. về thương nghiệp thì Nhà nước cịn “bỏ trơng” một số “trận địa” quan
trọng, chưa phát huy tốt được vai trị chủ đạo trong lưu thơng hàng hố, ổn định giá cả
thị trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả năm vừa qua tăng lên tới
9,5%, xảy ra cả ngộ độc thực phẩm, người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng kém
chất lượng, Khâu quản lý xuất nhập khấu còn nhiều sơ hở, tiêu cực như nhập lậu, trốn
thuế, nhận hối lộ... gây ra những tác động xấu không nhỏ cho đối với sản xuất trong
nước.
Giá cả tăng cao, không đạt được mục tiêu đề ra. Chí số giá tiêu dùng ước tăng
2,4% so với tháng 2-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần đây,
vượt qua tốc độ tăng GDP và khơng đạt mục tiêu đề ra. Nhóm hàng tăng giá cao nhất
trong năm qua là hàng ăn và dịch vụ ăn uổng tăng 18,92%, riêng lương thực tăng
15,4%, giá thực phâm tăng 21,16%, thử 2 là nhà ở và vật liệu xây dựng tâng 17,12%,
thứ 3 là đồ dùng và dịch vụ khác tăng 9,02%, thử 4 là dược phẩm, y tế tăng 7,05% và
thứ 5 là may mặc, mũ nón, giày dép tăng 5,47%. ở Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số

giá cả ư. ớc cả năm tăng trên 12%.
Nhập siêu lớn. Chung cả năm, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng
27,5% kim ngạch xuất khẩu. Điều này thể hiện rõ nhất trong 2 tháng cuổi năm.


Đáng chú ý là 3 mặt hảng nhập khau tăng gẩp hơn 2 lần so năm 2006 là ô-tô
nguyên chiếc xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không cỏ mặt hàng nào
giảm so với năm 2006 về kim ngạch.
Ba là: Kinh té tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu q cịn thấp. Nhìn
chung tốc độ tăng trướng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp hon so
với kể hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyến dịch còn
chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá xong tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu
GDP thậm chí năm 2004 cịn giảm so với năm 2003 là 6,8%. Hệ thống dịch vụ hồ trợ
sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm
khôniỉ tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong khu vực nông nghiệp
nông thơn ( năm 2003 cịn chiếm lớn hơn 60% lao động).
Tuy việc phát huy được nguồn nhân lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ,
vốn trong nước chiếm trên 70% nhưng lại có sự giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) năm 2002 vốn đầu tư suy giam chỉ còn bằng 60% so với cùng
kì năm 2001, Điểu này cho thấy mơi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều vướng
mẳc nhất là thú tục hành chính, lĩnh vực và phạm vi đẩu tu' chưa hẩp dẫn so với các
nước khác trong khu vực.
Bổn là cạnh tranh cịn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và năng lực
quản lý của các doanh nghiệp còn yểu, thiếu sự chuẩn bị đé ứng phó hiệu q với q
trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng (the hiện rõ ở việc các doanh nghiệp
chưa thực sự chú ý đến việc đăng kí nhãn hiệu cho sản phấm của mình), Xét về tiêu
chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tố chức tiêu thụ thì
hàng hố của Việt Nam cũng có sức cạnh tranh yếu. Những mặt hàng xuất khấu chưa
có được hàm lượng cơng nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thơ
hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than... và chất lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng

và sử dụng các biện pháp báo vệ thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân
khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng cơng nghệ trong sán phẩm, trình độ lao động
của Việt Nam còn thấp. Theo con số thổng kê Việt Nam có gần 40 triệu ỉao động thì
cỏ tới 83% lao động khơng có trình độ chun mơn kĩ thuật, sổ lượng công nhân được
đào tạo nghề chiêm chưa tới 26 %.
2.2.

Hạn chế trong quản lý của Nhà nước.

Nhà nước quản lý mọi mật của đời sổng kinh tế, xã hội nhưng nhìn chung bộ
máy quán lý, hệ thống công cụ quản lý cũng như cơ chế quản lý của Nhà nước vần
còn cỏ những hạn chế, thiếu sót.


Với bộ máy quản lý: Bộ máy Nhà nước cồng kềnh, hiệu lực chưa cao. Bộ máy
Nhà nước TW chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức năng nhiệm vụ, cịn ở thế bị
động “có người mới đẻ ra nhiệm vụ”, nhiều người chưa đại diện cho nhân dân, cho trí
tuệ của cơ quan đó. Việc đãi ngộ cho công chức Nhà nước chưa xứng đáng là một
nguyên nhân của tham nhũng, hối lộ - một quốc nạn hiện nay. Tuy những năm qua
luôn thực hiện cải tố bộ máy Nhà nước đê gọn nhẹ, năng động nhưng số lượng viên
chức nhà nước không ngừng tăng lên.
Về hệ thống cơng cụ quản lý: Bao gồm ba cơng cụ chính là kế hoạch hoá định
hướng, pháp luật và hệ thống chính sách và hệ thống cơng cụ kinh tế.
Kế hoạch hố định hướng là cơng cụ có nội dung là kế hoạch mang tính định
hướng và kể hoạch khơng chỉ giao nhiệm vụ mà còn điều phối thực hiện nhưng thực
tế thỉ Nhà nước vẫn chưa bỏ được chính sách quản lý kinh tế trực tiếp đế quản lý gián
tiếp mà còn đan xen cả hai. ở một số địa phương Nhà nước còn can thiệp vào sán xuất
của gia đình và của doanh nghiệp như sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cung cấp
cho ai? Và còn giao kế hoạch sản xuất kế hoạch giao nộp. Pháp luật ở Việt Nam đã có
sự chuyển biến trong việc dùng pháp luật đế quản lý đầu tư, luật doanh nghiệp Nhà

nirớc. Nhưng nhiều luật quan trọng như luật phá sản, luật cạnh tranh... thì chưa có nên
cịn lúng túng trong quản lý cả tầm vi mô và vĩ mô. Cũng do đó mà các doanh nghiệp
kinh doanh phi pháp hoạt động gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống chính sách cơng cụ kinh tế của nước ta cịn tồn tại nhiều hạn chế.
Chính sách quản lý nền kinh tế còn lhiếu đồng bộ, hay thay đổi. Hệ thống chính sách,
cơ chế quản lý của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự. Mơi trường
kinh doanh vẫn cịn một số bất cập về khuôn khố pháp lý nên chưa thu hút được đầu
tư trong nước cũng như nước ngoài. Thủ tục hành chính cịn rườm rà, chưa có chính
sách phát triển các vùng kinh tế trọng điếm, các ngành kinh tể mũi nhọn cho phù hợp,
chưa đưa ra được chiến lược phát triến kinh tế, xã hội lâu dài.
Cơ chế quản lỷ kinh tế trong nước cũng cịn tồn tại khơng ít hạn chế thể hiện ở
vai trị quản lý vĩ mơ cịn kém, lỏng lẻo. Các cơng cụ quản lý vĩ mơ như chính sách tài
khố, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đổi ngoại được thừa
nhận nhưng chưa được ứng dạng vào việc đổi mới hồn thiện mục tiêu và cơng cụ
qn lý nền kinh tể. Chưa phát huy yếu tổ tích cực của nền kinh tế thị trường nhưng
đã nảy sinh nhiều tiêu cực, hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới. Hệ thống tài chính tiền tệ của nước ta vẫn là khâu yếu nhất của nền kinh tế, nó
cịn mang đậm tính chất của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp nên cịn gây cản trở
q trình chuyển đối sang cơ chế thị trường.


×