Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

MỐI LIÊN HỆ GIỮA X QUANG SỌ NGHIÊNG THƯỜNG QUY VÀ CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN CHÙM TIA HÌNH NÓN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.98 MB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐIỆN TỬ - VIỄN THƠNG
*************

BÀI TẬP LỚN
CƠNG NGHỆ CHẨN ĐỐN HÌNH ẢNH I
ĐỀ TÀI: MỐI LIÊN HỆ GIỮA X QUANG SỌ NGHIÊNG THƯỜNG
QUY VÀ CẮT LỚP ĐIỆN TỐN CHÙM TIA HÌNH NĨN

Giáo viên hướng dẫn:

TS. Nguyễn Thái Hà

Sinh viên thực hiện:

Nghiêm Xuân Văn

Mssv:

20134557

Lớp:

ĐTTT-07 – K58

Hà Nội,ngày 2 tháng 1 năm 2017


Mục lục
Tóm tắt..................................................................................................................................................2
Lời giới thiệu.........................................................................................................................................3


Nguồn gốc của chụp cắt lớp vi tính.......................................................................................................4
Bức xạ Ion hóa với chụp CT.................................................................................................................7
Những dụng cụ được lưu ý trong chụp CT...........................................................................................9
TIêu chuẩn DICOM cho việc giao tiếp và dự trữ dữ liệu CT.............................................................11
Chuyển đổi từ quan sát X quang 2D sang X quang không gian 3D...................................................12
Máy X quang sọ nghiêng nối tiếp trong phạm vi của CBCT.............................................................28
Cửa sổ CBCT cơ sở hoặc ngang..........................................................................................................34
Kết luận...............................................................................................................................................40
Tài liệu tham khảo..............................................................................................................................41

Page 1


Mối liên hệ giữa X quang sọ nghiêng thường quy và
cắt lớp điện tốn chùm tia hình nón
C. Brian Preston and Guoqiang Guan
Department of Orthodontics, School of Dental Medicine,
University at Buffalo, Buffalo, NY, US
Tóm tắt
Phân tích chụp hộp sọ bằng tia X quang, cái mà miêu tả một trong số cơng cụ chẩn
đốn chính trong khoa chỉnh hình răng hàm mặt, đã được sử dụng cuối những năm
1930. Sự xuất hiện của chụp cắt lớp vi tính, và kết quả của sự phát triển 1 dạng chụp
cắt lớp vi tính (CBCT) cho phép sử dụng các tia X-quang kết hợp với chương trình
máy tính để tạo ra hình ảnh ba chiều ( 3-D ) của cơ thể, nó đã hứa hẹn loại bỏ những
hạn chế vốn có trong những chiếc phim chụp sọ nghiêng X quang 2 chiều (2D) truyền
thống.
Đề tài này trình bày một đánh giá ngắn gọn về nguồn gốc, các ứng dụng, các vấn đề
kết hợp với việc sử dụng cắt lớp theo trục (CAT) và CBCT trong khoa răng hàm mặt.
Những nét nổi bật trong thực tế, cái mà không thể là phương pháp dễ dàng để giải
thích sự hiểu biết của chúng tơi về sự phân tích chụp hộp sọ đối xứng dọc 2D trong

lĩnh vực chụp x quang thể tích.
CBCT đã giúp cho những bác sĩ chỉnh răng một sự hiểu biết tốt hơn về những kích
thước của sọ và mặt trong mặt phẳng đứng ngang, trong vấn đề này, một vài nghiên
cứu mới về kích thước ngang của miệng được trình bày, các nhà nghiên cứu đã tìm ra
những điểm nổi bật, CBCT có hứa hẹn lớn đối với khoa chỉnh hình răng hàm mặt về sự
quan sát cơ sở của hộp sọ. Nó là có thể, quan sát, chụp hộp sọ cơ sở của hộp sọ, từ đó
có thể tìm được rất sớm hướng giải quyết phẫu thuật chỉnh răng đối với những răng
mọc không đối xứng phát triển.
Page 2


Từ khóa:
Cone-beam computed tomography : 1 dạng chụp cắt lớp điện tốn với chùm tia hình
nón (Computed tomography-CT) , cho phép sử dụng các tia X-quang kết hợp với
chương trình máy tính để tạo ra hình ảnh ba chiều ( 3-D ) của cơ thể, cung cấp hình ảnh
rõ nét cấu trúc răng, mô mềm , thần kinh và xương ở vùng sọ mặt chỉ trong một lần
quét với cường độ tia X thấp hơn nhiều lần so với CT thông thường.
Cephalometrics: phim chụp sọ nghiêng
Jaw widths :bề rộng quai hàm, hàm
Transverse window: cửa sổ ngang
Early treatment : hướng điều trị sớm
Lời giới thiệu
Chụp cắt lớp theo trục (CAT) được giới thiệu tới nghiệp vụ y tế vào năm 1979 khi 2
công nhân nghiên cứu đã được tặng thưởng giải Nobel cho công việc của họ trong lĩnh
vực nghiên cứu . Do mức tương đối cao của sự bức xạ ion hóa và những giới hạn của
ứng dụng trong ngành nha khoa. CAT không thấy được sự chấp thuận một cách sẵn
sàng trong chỉnh nha. Với sự xuất hiện của chụp cắt lớp điện tốn CBCT, nó tạo ra bức
xạ ion hóa thấp hơn, có sự đốn trước rằng cơng nghệ này sẽ cung cấp những câu trả
lời tới một vài giới hạn liên quan với phim chụp sọ nghiêngX quang 2D thường quy.
Nhiều điểm khác nhau với phim sọ nghiêng 2D, suy xét những câu hỏi xung quanh về

kết quả của chiều thứ 4, thời gian , trên những vấn đề thuộc sọ và mặt. Có một nhu cầu
hiển nhiên cho bác sĩ nha khoa để định lượng hiệu quả điều trị của hướng giải quyết
của họ trên những cấu trúc sọ và mặt, trong khi cũng có thể đánh giá sự phát triển trên
khuôn mặt và sự phát triển đã có ảnh hưởng trên sự dự đốn và kết quả của hướng giải
quyết chỉnh răng của họ.

Page 3


Đó là mục đích của đề tài này, để đem lại một khái quát ngắn về sự phát triển của
CBCT và của những cố gắng đã đạt được, cái mà đã thực hiện chuyển đổi 2D vào
trong phân tích phim sọ nghiêng thể tích. Trong ví dụ đầu, các vấn đề hướng tới một
nhu cầu về việc xác định những ranh giới sọ và mặt CBCT, cái mà sẽ chú ý đến
phương pháp đo lường có sẵn với những kích thước của sọ mặt trong một sự cân bằng,
cũng như trong một chức năng, trong những giới hạn của sự phát triển và giải pháp
chỉnh nha.Vì vậy nhiều sự phân tích phim sọ nghiêng CBCT được đề xuất đã gặp rắc
rối, phức tạp và họ không giữ được hứa hẹn sự chấp thuận bởi nghiệp vụ nha khoa.
Mặc dù CBCT có thể cung cấp một số lượng khơng giới hạn của những cửa sổ của
giải phẫu hộp sọ, nó là giống như rằng , khác so với khi nghiên cứu những khác thường
của hộp sọ và mặt với những công nghệ mới hiện nay; những phim chụp hộp sọ bằng
x quang thông thường sẽ vẫn cung cấp cơ sở trong chẩn đốn chỉnh nha. Mục đích của
đề tài này lúc ấy là nhấn mạnh cái mà đã có thể thu được trong khả năng của chụp hộp
sọ qua quá trình sử dụng CBCT trong kĩ thuật chỉnh nha.
Nguồn gốc của chụp cắt lớp vi tính
Từ khóa “ tomography” được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tomos” ( một phần hoặc một
mặt cắt, lát cắt) và “graphein” ( để viết). [1] chụp cắt lớp vi tính được biết đến đầu tiên
là quét “EMI” nó được phát triển từ một hướng nghiên cứu của EMI , 1 công ty tốt
được biết đến hiện nay cho kinh doanh âm nhạc và ghi hình. [1,2] Vào năm 1979 giải
Nobel trong lĩnh vực sinh lý học hay y khoa đã cùng được trao cho Allan M.
Cormack, and the Brit, Godfrey N. Hounsfield ở Nam Phi về sự phát triển của máy tính

hỗ trợ trong việc chụp cắt lớp. [3] Kỹ thuật X quang họ sử dụng sau này được trục cắt
lớp vi tính theo trục (CAT or CT scan) và chụp x quang từng phần cơ thể.
Với chụp cắt lớp vi tính sọ , nó có thể có được bức ảnh rõ ràng của những cấu trúc giải
phẫu như là các xương, các cơ quan, và những mạch máu liên kết với hệ thống thần
kinh trung ương (Hình 1). Những bức ảnh được nhận qua những thao tác trên máy tính,
có thể là ý nghĩa đáng kể trong chẩn đốn các bệnh và các tình trạng cái mà bao gồm
Page 4


các khối u hay các vùng chấn thương. Trong khi máy X quang thường quy bị giới hạn
2 chiều, chụp CT có thể cung cấp nhiều sự quan sát khác nhau trong những hướng khác
nhau của các cơ quan, hệ thống cơ quan với 1 mức yêu cầu chi tiết để làm căn cứ xác
thực cho việc chẩn đốn.

Hình 1: Ảnh bên trái cho thấy 1 lát cắt ngang 5mm qua 1 cái đầu . Phù hợp với ảnh X quang thường quy của một
miếng cắt giống ở hình bên phải. Kỹ thuật này đã sử dụng để nghiên cứu giải phẫu X quang cũng như độ chính
xác của phương pháp đo lường được thực hiện trên các màn chụp X quang của các cấu trúc giải phẫu.

Nhiều mặt phẳng x quang làm cho nó có thể thu được thơng tin thể tích về vùng giải
phẫu được nghiên cứu. hầu hết máy chụp cắt lớp CT bao gồm một cấu trúc hình trịn
cái mà giống với 1 vịng lớn với với môt cái giường, sử dụng để phù hợp với những
bệnh nhân, tại hình 2 [4] Trong suốt thời gian tiếp xúc, máy chụp quay 1 nguồn tia x
quang vòng quanh bệnh nhân được chụp khi phát ra tia X quang cái mà có thể tạo
những ảnh ( cửa sổ) của cấu trúc giải phẫu đã được kiểm tra. Phần lớn những máy chụp
cắt lớp CT gần đây (năm 1974 đến 1987) xoay tròn 360O theo hướng khác để thực hiện
1 tấm cắt thứ 2. Giữa các tấm cắt máy được dừng lại một cách hoàn toàn và đổi chiều
khi bàn bệnh nhân di chuyển tiến lên phía trước bởi bề dày của phần cắt được tăng lên.

Page 5



Hình 2: Bệnh nhân trên giường sẵn sàng cho chụp CAT

Hình 3: Những máy chụp CT ban đầu được sản xuất chỉ với những cửa sổ dạng vòng được đặt ở giữa trên một
trục dài của máy. Để mà có được những phần ngang của đầu, nó cần thiết để cố định đầu của bệnh nhân (bên
trái) như trong hình trên. Một trong những kết quả của những cửa sổ dạng vịng được thể hiện ở hình bên phải.

Trong giữa năm 1980, 1 sự đổi mới được gọi là "power slip ring," cho phép chụp và
xoay một cách liên tiếp . Một vịng trượt là mơt sự kết hợp quay được sử dụng chuyển
dịng điện từ một đơn vị khơng thay đổi sang một đơn vị thay đổi luân phiên. Những
cái chổi qt hay những vịng trịn khơng di chuyển và những thành phần khác xoay
Page 6


quanh. [5] Những máy chụp CT được trang bị với những power slip rings thấy như là
những chiếc máy chụp theo đường xoắn ốc hay đinh ốc. Máy chụp cắt lớp vi tính xoắn
ốc mơ tả hồn tồn một vùng giải phẫu trong vòng 20 đến 30 giây trong khi thời gian
hầu hết những bệnh nhân có thể vẫn ko cử động. Bởi vì máy chụp xoắn ốc vận hành
một cách liên tục, Khơng có một kẽ hở giữa phần cắt và dữ liệu được đưa ra, có thể sử
dụng tái tạo lại hình ảnh 3 chiều. Những máy chụp hình xoắn ốc nhiều phần gần đây
có thể 4 phần trong một vịng quay và có thể thu thập nhiều hơn 8 lần dữ liệu so với
các phiên bản trước.
Khi hệ thống những máy tính tiên tiến và phần mềm máy tính mới nhất đã sử dụng
trong sự phối hợp với máy chụp CT xoắn ốc, chúng có thể tạo ra ảnh 3 chiều cái mà
cho phép những bác sĩ lâm sàng thực hiện đo không xâm lấn “ nội soi 3 chiều” những
vùng giải phẫu như là đường hô hấp trên. Cắt lớp CT của những cấu trúc sọ và mặt
thường được sử dụng để phát hiện những khu vực bất thường do vơi hóa, tai biến mạch
máu, tổn thương xương do chấn thương (hình 3).
Chứng nhồi máu cơ tim và những khối u có khuynh hướng xuất hiện ở các vùng tối
hơn trên máy cụp CT, trong khi những vùng sang hơn đã được phối hợp bởi sự hóa vơi

và sự xuất huyết. Trong máy Chụp CT những chỗ gãy của xương sẽ xuất hiện tách rời
trong những xương bị tổn thương.
Bức xạ Ion hóa với chụp CT
Tồn thế giới sử dụng CT để đánh giá chẩn đoán đã được tăng lên một cách đột ngột
trong khắp gần 2 thập kỷ . [6] Ước lượng khoảng 72 triệu lần chụp được thực hiện ở
Hoa Kỳ trong năm 2007. [7] Nó đã được đưa ra rằng 0,4% ung thư hiện nay ở Hoa Kỳ
là do sử dụng những máy CT trong thời gian trước và có thể tăng lên cao 1,5-2% với
năm 2007 tỷ lệ với sử dụng CT; [8] tuy nhiên, những đánh giá vẫn được tranh luận; [9]
những tình trạng khó xử phát sinh trong thực tế trong q trình điều tra nghiên cứu CT,
có một mối quan hệ trái ngược giữa chất lượng của ảnh được tạo ra và liều lượng bức
xạ được thực hiện. Trong khi đang sử dụng CT, có một lời đề nghị rõ ràng là để giảm
Page 7


lượng bức xạ trong cùng một thời gian giống như vậy, mà không muốn giảm chất
lượng ảnh được tạo ra. Như một quy tắc chung, được hiểu rằng lượng bức xạ cao hơn,
chất lượng ảnh tốt hơn, bao gồm độ phân giải của các hình ảnh CT được tạo ra. Cũng
không may rằng, khi thực hiện chụp CT, bức xạ mức thấp hơn thường liên quan tới sự
tăng nhiễu của ảnh. Sẽ có một tác động tiêu cực đến chất lượng của tấm ảnh. Nhiều
nhân tố sẽ xác định liều bức xạ ảnh hưởng cho một cuộc điều tra nghiên cứu CT chi tiết
bao gồm các giải phẫu cụ thể của khu vực đang được nghiên cứu, những sự thay đổi
trong hình thái của người đang được chụp và độ phân giải ảnh cần thiết. toàn bộ mức
của bức xạ ion hóa đã phân tán sẽ phụ thuộc vào số lượng và bề dày của những phần
được cắt cần được cung cấp thông tin đầy đủ những vùng đang được nghiên cứu. Hai
thông số máy chụp CT xoắn ốc , cái mà có thể được điều chỉnh và có ảnh hưởng hồn
tồn tới liều lượng bức xạ là dịng ống tia điện tử và góc, bề rộng của những phần riêng
lẻ. [11] Nó đã được đánh giá rằng 1 trong 270 người phụ nữ , người mà trải qua chụp
động mạch vành CT lúc 40 tuổi sẽ phát triển bệnh ung thư từ máy chụp (1 trong 600
người đàn ông), so sánh với 1 trong 8100 người phụ nữ đã thường chụp CT đầu cùng
một độ tuổi ( 1 trong 11080 người đàn ông) . [11] Đối với những bệnh nhân 20 tuổi ,

nguy cơ của ung thư phát triển tăng gần gấp đôi, và đối với những bệnh nhân 60 tuổi ,
họ được dự đoán là thấp hơn khoảng 50% [11].
Những bệnh nhân trẻ hơn , như là những người thường thấy bởi các bác sĩ nha khoa,
những máy chụp CT đã được đánh giá tăng đáng kể khả năng tử vong do ung thư, dẫn
tới các yêu cầu khi sử dụng, giảm dòng của máy chụp CT khi sử dụng cho trẻ em. [10]
Ở Hoa Kỳ, Khoảng 600000 sự khảo sát chụp CT ở bụng và ở đầu đã được thực hiện
hằng năm ở trẻ em dưới 15 tuổi . Một ước tính gần đúng là 500 trong số những em bé
đó có thể phát triển sau cùng và chết do những ung thư cái mà được cho là do những
bức xạ với những máy chụp CT. Nó nên, tuy nhiên, đã chú ý rằng những tình huống
như vậy như đã gặp phải trong những điều tra nghiên cứu bao gồm những ảnh hưởng
tới sự sinh trưởng và điều trị có thể u cầu trẻ em khơng tiếp xúc một cách liên tục với
máy chụp CT. [10]
Page 8


Những dụng cụ được lưu ý trong chụp CT
Một số dụng cụ được dùng theo dõi một cách thông thường trong chụp CT và 2 trong
số đó là quan tâm của các nha sĩ và những có thể đặc biệt hơn tới những bác sĩ chỉnh
nha. Những tránh vệt sọc thường thấy ở những chất xung quanh như là mê tal hoặc
xương cái mà ngăn chặn phần lớn tia X. Những dải có thể bị làm tăng quá mức bởi kĩ
thuật lấy mẫu và cử động trong suốt quá trình chiếu tia. Những hình tái tạo kiểu này
một cách thơng thường được tìm thấy ở bệnh nhân với việc phục hồi răng với diện
rộng, được các bác sĩ áp dụng và/hoặc những phương pháp cấy ghép răng (Hình 4).
Trước sự sử dụng kĩ thuật máy tính gần đây nhất , nó có thể làm giảm hoặc loại ra,
những vệt sọc trong q trình tạo ảnh CT. Mơt dải thứ 2 được kết hợp với ảnh CT
được biết đến như một phần ảnh hưởng cái mà hiện ra như 1 “ vết mờ” trong một vùng
ở những sự chuyển tiếp đột ngột giữa sự tái tạo mức thấp và mức cao. Khi những điều
này xảy ra, giá trị dữ liệu có thể làm phóng đại phạm vi hoạt động của các quá trình
điện tử tới phạm vi, cái mà hình dạng của xương có thể ở trên hoặc ở dưới sự đánh giá.
Vấn đề này có thể được khắc phục đến một vài phạm vi bởi sự tăng thêm mức độ của

chụp CT. Với công nghệ mới nhất , những máy CT với những bộ xử lý nhanh hơn và
những phiên bản phần mềm mới nhất có thể xử lý với những cửa sổ riêng biệt trong khi
cũng tạo báo cáo sự thay đổi liên tiếp các mặt cắt ngang. Những mặt cắt ngang thay đổi
như là dá đối với bệnh nhân để tạo ảnh di chuyển liên tiếp thông qua chu trình của tia
X. Máy CT, cái mà có thể chấp thuận và thao tác dữ liệu trong một chuỗi thao tác liên
tiếp bao gồm những máy CT đường đinh ốc và xoắn ốc mới nhất . Những bộ xử lý của
chúng tích hợp dữ liệu của những mặt cắt riêng biệt đã di chuyển tới thơng tin thể tích
3D được tạo ra, cái mà có thể được quan sát từ nhiều sự khác nhau của mặt phẳng cắt.
Hoàn toàn có triển vọng , thể loại này dữ liệu thu được địi hỏi nguồn xử lý lớn bởi vì
dữ liệu đang đưa tới trong một quá trình liên tiếp và nên được xử lý trong thời gian
hợp lý. Những tấm ảnh đã thu được bởi máy chụp CT gồm có những phần tử ảnh hay
điểm màu, cái mà được hiển thị thêm mối liên hệ mật độ tương đối của chúng. Mật độ
Radio là phương pháp đo trong những đơn vị Hounsfield(HU) trên một đô chia tùy ý
được đặt tên sau Sir God frey Hounsfield. [2,3] Độ chia tùy ý được xác định bởi
Page 9


khơng khí, cái mà có một CT trong số 1000HU và nước, cái mà có một số CT của 0
HU. Mỗi điểm ảnh của nó được hiển thị thêm theo ý nghĩa là sự suy giảm của các mơ,
nó tương ứng với tỉ lệ từ +3071 ( phần lớn sự suy giảm) tới – 1024 ( sự suy giảm tối
thiểu) trên tỉ lệ Hounsfield. Trong mỗi phần của máy x quang số , một điểm màu là 2
đơn vị thuộc về kích thước cái mà tượng trưng cho yếu tố riêng lẻ nhỏ nhất hoặc một
tấm ảnh số. Nó là một đơn vị nhỏ nhất tại thời gian giống nhau của một bức ảnh có thể
được hiển thị hoặc được điều khiển. Nhiều những điểm ảnh của khu vực mặt , phần
lớn sự rõ nét có thể đạt được. Khi một trong 3 kích thước, độ dày, được thêm vào điểm
ảnh, đơn vị trở lên biết đến như một điểm ảnh 3 chiều mà sau đó có 3 kích thước . Như
đã đề cập trước đó các ảnh hưởng một phần khối lượng đã gặp phải khi phát hiện trong
một máy CT không thể phân biệt sự khác nhau giữa các mơ.

Hình 4: một cửa sổ CT được hiển thị cái mà là kết quả từ việc áp dụng thuật chỉnh răng


Điều đó có nghĩa rằng một số lượng lớn sụn và sương nhỏ mỏng có thể là nguyên
nhân làm giảm trong điểm ảnh ba chiều như sự tăng tỉ trọng của sụn . Trong sự quan
tâm này, xương có cơ cấu kiểu lưới xốp thường có một giá trị suy giảm +400 HU trong
Page 10


khi phần cứng của xương thái dương có thể đạt giá trị suy hao là 2000 HU. Giá trị HU
mới nhất là đủ cao để gây ra các dòng phát sinh từ các kim loại như Titanium (HU
+1000) (Hình 4)
Tiêu chuẩn DICOM cho việc giao tiếp và lưu trữ dữ liệu CT
CT và CBCT đã tạo ra số lượng lớn các dữ liệu, cái mà được lưu trữ một cách thường
xuyên nhất như là tiêu chuẩn để xử lý, lưu trữ , in ấn và thu nhận hình ảnh trong y tế
(DICOM)..DICOM 3.0 đại diện cho tiêu chuẩn công nghiệp cho việc liên lạc hình ảnh
x quang và các thơng tin y tế giữa các máy tính. Phần lớn độ bền của các dòng hệ
thống trong thực tế cái mà nó cho phép sẵn sàng liên lạc thơng tin số giữa cơng việc
chẩn đốn và trang thiết bị phục vụ chữa bệnh và cũng như giữa hệ thống từ những đơn
vị khác nhau. [11] DICOM có thê được cân nhắc như là một tiêu chuẩn cho ranh giới
thông tin liên lạc giữa những ứng dụng, thiết bị và những hệ thống khác loại hay khơng
đồng nhất. [11] Một nhóm đặc biệt , nhóm làm việc 22 của Ủy Ban tiêu chuẩn DICOM
cho những ứng dụng thuộc về răng hàm mặt. Chúng có rất nhiều loại và bao gồm các
chức năng như việc sử dụng các hình ảnh chẩn đốn , mô phỏng điều trị, hướng dẫn
điều trị, phục hồi mô sử dụng CAD/CAM. [11] Một trong số sự ưu tiên của nhóm
cơng việc này là sự hỗ trợ việc khởi động cái mà có quan hệ với quét bề mặt quang
học, và đã được tìm ra một mức độ to lớn của sự chấp thuận trong việc quét những
khuôn răng, những mơ hình đa thể tích được sử dụng trong khoa răng hàm mặt và gần
đây nhất, biểu diễn ảnh ba chiều của mô mềm ở khuôn mặt . [12] Dữ liệu đã thu được
từ những thiết bị khác nhau được giữ lại trong tệp DICOM, và điều này làm cho nó có
thể kết hợp nhiều tệp tin tạo ra một hình ảnh khơng gian đầy đủ cái mà miêu tả một sự
tái tạo hoàn toàn của phép giải phẫu toàn thể hộp sọ và mặt. Những bác sĩ nha khoa có

thể, với sự giúp đỡ từ cơng nghệ mới nhất, có thể thấy được kết quả, cái mà những yêu
cầu của họ đối với những vị trí của những chân răng đang được di chuyển.

Page 11


Chuyển đổi từ quan sát X quang 2D sang X quang khơng gian 3D
Bởi vì những điểm ảnh 3 chiều cung cấp những giá trị tương ứng, Khi phép đo được
kéo dài trên những trục trong tất cả các mặt, những máy quét CT hiện đại cung cấp độ
phân giải đẳng hướng và vì thế, sự hiển thị của những hình ảnh khơng cần thiết để bị
giới hạn tới các sự quan sát qua trục thông thường (x,y,z). Thời gian tương tự, nó có thể
cho những chương trình phần mềm riêng biệt sắp xếp những miền cắt lát mỏng CT
riêng biệt, một trong những giải pháp hàng đầu để tạo ra dữ liệu, có tính thể tích hay
khơng gian. Với những hỗ trợ của những thao tác bằng tay trên phần mềm , sau đó nó
trở lên có thể hiển thị dữ liệu không gian trong những thao tác khác nhau. Sự tái tạo lai
đa chiều (MPR) trong đó một khối được xây dựng bởi các lát cắt quanh trục, đó là
phương pháp đơn giản cho việc tái tạo lại ảnh 3D (hình 1). Một ảnh 3D trơng giống đã
được tạo ra, nó trở lên tiện lợi để cắt ra những thể tích trong các thứ khác nhau của
những mặt phẳng cái mà cần thiết khơng bị vng góc tại những điểm của những chỗ
giao nhau cùng với sự hỗ trợ của phần mềm. Những công cụ xử lý ảnh trên cơ sở máy
tính mới có thể làm cho thuận tiện đầy đủ sử dụng tập hợp dữ liệu thể tích lớn. [13]
Những phương pháp cụ thể đặc biệt cũng như là hình ảnh tái tạo tương phản tối đa
(MIP) hoặc là hình ảnh tái tạo tương phản tối thiểu (mIP) làm cho nó có thể xác định
rõ tốt hơn những cấu trúc, với những phương pháp cụ thể thông thường, có thể bị lỗi
hay nhầm lẫn. [13] Những cơng nghệ này hứa hẹn được sử dụng trong phân tích và
xác định những cấu trúc thuộc sọ và mặt,… những tấm vỏ xương hàm cái mà khó để
thấy được những lớp cắt của CBCT hay CT thông thường. CT làm cho nó có thể xây
dựng thực tế hay những mơ hình thực, cái mà có giá trị riêng biệt trong kế hoạch của
khoa phẫu thuật răng hàm mặt của các thành phần xương sọ (hình 5). Để mà chia ra
các cấu trúc xương của sọ từ những mô mềm bao quanh , nó cần thiết để đặt một

ngưỡng giá trị của mật độ phổ cái mà phù hợp với xương. Sự thích hợp của mức độ
phổ trong sự kết hợp với thuật tốn xử lý ảnh làm có thể xác định những giới hạn của
các xương sọ. Những giới hạn xương đã được xác định trên những lớp riêng lẻ, nó trở
lên tiện lợi để phối hợp những lớp riêng lẻ để mà tạo ra cấu trúc xương. Trước những
sự khác nhau của mức độ chắn bức xạ và sự khác nhau của màu sắc tới mức độ khác
Page 12


nhau, nó trở lên có thể để thêm vào các kết cấu của khoa giải phẫu trong trương lai
chẳng hạn như cơ bắp tới mơ hình gốc. Có những hạn chế tới cơng nghệ này trong đó
những chi tiết ở bên trong của các cấu trúc được mơ hình khơng được phát hiện và biểu
thị ra bên ngoài sẽ được hiển thị các mặt, đáp ứng mức độ ngưỡng theo lý thuyết. Khi
đưa ra thể tích thực hiện, độ trong suốt và các màu đã được sử dụng để cho phép sự
hiển thị tốt hơn của khối thể tích để đưa ra một hình ảnh duy nhất. Những cơng nghệ
này cho phép những chiếc xương sọ được hiển thị như gần như trong suốt, để thậm chí
một góc xiên chéo, một phần của ảnh không bị che một cách đầy đủ. Một sự phát triển
trong tương lai của CT được đưa ra bởi CBCT, là được mở rộng như một chi nhánh
của CT y tế, và từ nhu cầu cho các nha sĩ và có thể cho các bác sĩ răng hàm mặt và
bác sĩ phẫu thuật trực tiếp một cách đặc biệt hơn, để quan sát và đánh giá cấu trúc sọ và
mặt dưới dạng 3D. Gần đây những lời khuyên trong CT y tế đã có một ảnh hưởng tích
cực trên CBCT và họ điểm tới những khả năng cho sự phát triển quan trọng trong
tương lai ở hình ảnh sọ não và mặt. [14]

Hình 5: Một phim X quang sọ nghiêng mặt phẳng sau trước thông thường của một bệnh nhân với một sự không
đối xứng trên khuôn mặt một cách nghiêm trọng. Những cửa sổ CBCT vòng đầu là một giá trị cần xem xét khi

Page 13


lên kế hoạch điều trị ở bệnh nhân cũng như một hiển thị ở đây trong một máy X quang PA truyền thống. Hình

3(bên phải) đưa ra một máy quét CT cũ hơn với một sự không đối xứng trên khuôn mặt tương tự để mà làm sáng
tỏ vấn đề ở đây

Ngồi những tác động có lợi ra, có một sự quan trọng được thêm vào lợi ích trong đó
các máy quét CBCT có thể đã tạo ra những lượng tán xạ thấp hơn đáng kể so với liều
lượng gặp phải với những máy quét CT y tế thông thường đối với từng người. Mức độ
thành công trong chữa bênh đã đạt được với sự điều trị chỉnh răng một cách thường
xuyên phụ thuộc vào một sự am hiểu sâu của loại kích thước 3 chiều một cách cơ bản
của thuyết nguyên nhân, cái mà đáng tin cậy cho việc chỉnh sửa tật răng so le. Nó
khơng trùng khớp ngẫu nhiên, cái mà sự chẩn đoán của việc chữa răng có một cơ sở
trong nhân loại vật lý học và vì vậy nhiều người đi đầu trong lĩnh vực chỉnh răng đã
ham mê quan tâm trong xương sọ và những cách tạo răng của những người có học thức
(Hình 6).
Phim sọ nghiêng được chụp tia X trong chỉnh răng được thừa hưởng của những bước
ngoạt và những tài liệu tham khảo cái mà đã có nguồn gốc trong nhân loại học. Thực tế
này cung cấp một lý do tại sao phim chiếu X quang sọ nghiêng đối xứng mặt 2D đã
khơng tìm ra sự chấp thuận hồn tồn với số lượng lớn thầy thuốc lâm sàng và những
nhà nghiên cứu trong răng hàm mặt. [15-17] Trong sự chú ý gần đây, một loạt vấn đề
trong thực tế nhiều bước ngoặt của mặt cắt thẳng đứng bởi chụp tia X đã được sử dụng
trong những trường hợp điều chỉnh răng, cái mà trong thực tế khơng phải là bước ngoặt
có tính trung bình, họ cũng khơng dễ dàng tìm vị trí cho máy X quang khi trên một sọ
bị khô nứt.
Trong thực tế, chụp sọ nghiêng X quang răng thông thường đã cố gắng để chuyển một
kỹ thuật 3 chiều tinh vi thành một hệ thống đo 2D. Vấn đề này càng làm xấu đi khi cố
gắng tạo ra để so sánh với những máy chụp X quang sọ nghiêng từng thời kỳ.

Page 14


Hình 6: Angle đã sử dụng một hộp sọ cổ xưa cái mà ông ấy đã gọi là “ Old Glory” để giải thích một “ ideal

occlusion” như đã đưa ra trong ảnh hộp sọ ở đây. Hộp sọ “ Old Glory” đã được đưa ra tới Angle bởi Richard
Summa, một trong số học sinh đầu tiên của Angle và nhà khảo cổ học nghiệp dư. [14]

Hình 7: Giá các công cụ (Ortho-Gnathostat) được sử dụng bởi Simon [19] để liên kết “hàm răng giả” tới mặt
phẳng Frankfort . Những kim chỉ đã được sử dụng để xác định quỹ đạo, điểm trước nhất của ụ cằm và đường
giữa xương vòm miệng.

Page 15


Các bác sĩ răng hàm mặt hướng tới phương pháp chỉnh răng hàm mặt được bao gồm
những sự thay đổi của sọ và mặt và sự tiến triển theo đường thẳng khi những thay đổi
này thường là đường cong và xảy ra trong mặt phẳng cái mà thường xuyên không
trùng khớp với măt phẳng đối xứng của sọ. Với phương pháp chụp sọ nghiêng X quang
thường quy , có một vấn đề được thêm trong sự cố gắng để bảo đảm cho những bệnh
nhân, những người được giữ những địa vị có thể sinh sản. Những vấn đề cịn lại CBCT
có thể đáp ứng những câu trả lời tới những vấn đề được khuyến khích với phương
pháp chụp sọ nghiêng X quang thường quy.
Như đã đề cập bởi Baurmid, [14] một số những cố gắng đã được tạo ra bởi những bác
sĩ nha khoa đầu tiên để tạo sự liên kết cho răng và quai hàm để làm giá đỡ của sọ.
Trong một cuốn sách được tặng tới những người bác sĩ nha khoa ở Mỹ và được dịch từ
người Đức là Lischer, Simon [19] đưa ra hệ thống máy móc liên hợp có thể được sử
dụng để tạo mối liên kết của những bố trí răng để có mặt và sọ (như hình 7).
Cơng việc của Simon là đã hướng dẫn sản xuất một hệ thống phân loại mới cho
những loại khuyết điểm về răng để thay thế sự phân loại của Angle khá phổ biến của
những tật về răng .[20] Simon [19] chú ý, “ Nếu chúng tôi gọi ông ấy (Angle) là người
thầy của những thuật chỉnh răng hiện đại, sau đó ơng ấy xứng đáng với cái tên này chỉ
bởi những phương pháp giám sát của ông ấy trong điều trị , do vẫn chưa có ai vượt
qua” Angle đã tin tưởng rằng hàm trên là được gắn cố định tới sọ và cái mà sau đó ít
dễ bị ảnh hưởng tới những khuyết điểm của răng trên phương diện chính giữa và răng

hàm thứ nhất ở trên là một trong những vị trí được sửa. Theo như Simon , nó hồn tồn
đúng, 2 sự tin tưởng này cái mà được tạo ra một cách dễ dàng để tìm ra những ý kiến
sai lầm của Angle . Ơng ấy ghi chú lại rằng vị trí cân đối của hàm trên có thể được xác
định bởi những phương pháp đo sọ thích hợp , theo như ơng ấy, “ Angle đã không thử
đúng”. Căn cứ từ những mẫu quan sát cho hệ thống đo sọ được đề xuất và phát triển
bởi Symon. [19] Sự phát hiện ra những tia X vào năm 1885 tìm ra sự ảnh hưởng to lớn
trên y khoa đã có kinh nghiệm và như sự tách ra trực tiếp theo nha khoa đã hướng dẫn.
Cho những đề xuất của đề tài này, nó là thích hợp để đề cập tới cơng việc của
Page 16


Broadbent, [21] người mà ngay trước khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ 2 là một
trong số những mở đường trong việc sử dụng chụp x quang sọ nghiêng trong mặt
phẳng dọc và ngang. Nó thích hợp, mặc dù cồng kềnh, với vài phương pháp đo, thao
tác bằng tay chính xác trong mặt ngang có thể đã thu được nếu có liên quan tới mặt
phẳng đứng và mặt phẳng ngang, từ đó có thể dùng được. Theo như Simon , [19] Hàm
răng của “ một xác định sọ của người đàn ơng” có thể chỉ thu được nếu chúng tôi xây
dựng 3 chiều của sọ trong sự tuân thủ với ngun tắc chính xác. Về phương diện hình
học, Mơt mặt phẳng phải được đi ngang qua ít nhất 3 điểm cái mà không phải là một
đường thẳng hàng và do đó chúng tơi phải chọn 3 điểm của đầu cho từng ba mặt được
yêu cầu. 3 mặt của sọ phải có mối liên hệ chính xác rất rõ ràng tới lẫn nhau, và trong sự
chú ý, tính vng góc là đơn giản nhất và thường xuyên nhất để làm việc và trình
bày trong chỉnh nha. Khi sử dụng máy quét CBCT cho sọ, nó là có thể để đưa ra một
số lượng vô hạn của những mặt phẳng cắt sọ khác nhau, và mặc dù những lát cắt có
thể có giá trị trong việc xác định các mối quan hệ trong giải phẫu, họ sẽ phải làm theo
vài hệ thống xác định một cách cứng nhắc để mà có được giá trị.
Những nhu cầu hệ thống mặt phẳng cho mỗi mặt phẳng được lựa chọn tại ít nhất 3
tiêu chuẩn phải đáp ứng :
1. 3 điểm được xác định trên mỗi mặt phẳng phải được dễ dàng để xác định vị trí
một cách đúng và chính xác.

2. 3 điểm phải có mối liên hệ “ cố định” , chúng phải nằm trong một khu vực cái
mà không làm ảnh hưởng tới sự tiến triển, và những việc quan trọng trong điều
trị chỉnh răng.
3. Những mặt phẳng nên được trong mối liên hệ có thể xác định . Simon[19] yêu
cầu những mặt phẳng của ông ấy cắt nhau của hàm răng tại các điểm.
Cho những đề xuất thực tế mặt phẳng nằm ở giữa của sọ não cung cấp một điểm bắt
đầu tốt trong sự lựa chọn và xây dựng 3 mặt phẳng được yêu cầu để xác định hình
thái học của sọ và mặt một cách tương thích cho một vấn đề. Nó nên được chú ý
rằng, nó là một đề nghị để sử dụng 2 điểm trên đường giữa vòm miệng như một phần
Page 17


của sự xác định mặt phẳng ở giữa. Cho hầu hết các đề xuất , Măt phẳng Franksoft sẽ
dường như một sự lựa chọn có tính logic cho những mặt phẳng ngang của sọ. Như
chúng tôi sẽ quan sát sau đó, mặt phẳng franksort (“ sự thỏa thuận franksort”, Hội nghị
quốc tế của các nhà nhân loại học, Franksort là chủ yếu, 1884 ) có thể khơng là lý
tưởng như 1 mặt phẳng ngang khi thỏa thuận với sự điều trị chỉnh nha trong những
bệnh nhân trẻ. Nó thường để xác định đường Franksort ở bên trái của bệnh nhân nhưng
khi đang xác định mặt phẳng Franksort nó thường sử dụng ít nhất 3 trong 4 điểm là
những điểm trái và phải của obitan và những điểm trước nhất của ụ cằm bên trái và
bên phải. Nó nên được chú ý rằng những phân tích phim sọ nghiêng để đo thể tích xu
hướng bao gồm ít nhất của 3 điểm trong sự xác định của mặt phẳng nằm ngang của họ.
Simon [19] tạo ra một sự lựa chọn đáng chú ý cho mặt phẳng đứng ngang cái mà ông
ấy gọi là mặt phẳng obitan. Mặt phẳng này qua đi qua cả những điểm obitan trái và
obitan phải và hướng về góc phải tới 2 mặt phẳng khác. Simon đã đề nghị rằng mặt
phẳng obitan “ trùng hợp với hàm răng trong vùng của răng nanh hàm trên, và nó làm
ở bất kỳ lứa tuổi – từ 5 tới 40 tuổi trong răng tạm thời cũng như răng vĩnh viễn”. Việc
làm của Simon tạo ra tiếng vang trong sự muộn hơn “ chi tiết 1” của Andrew [22] và
cũng trong vài sự phân tích sọ nghiêng của CBCT muoonh nhất . Với sự ra đời của sự
phân tích phim sọ nghiêng để đo thể tích đã có, và vẫn cịn một xu hướng ở lại, cái mà

quen thuộc. Điều này sẽ dẫn đến sự nỗ lực cho việc chuyển giao công nghệ được sử
dụng trong phép chụp x quang sọ nghiêng mặt phặt đơn thông thường tới phạm vị
hoạt động của phương pháp đo bằng X quang 3 chiều. Nó thỉnh thoảng dường như rằng
nhiều hơn mọi thứ thay đổi so với những cái giống. Nó là lý thú, CBCT đáp ứng ý
nghĩa cho việc kiểm tra lý thuyết cái mà đã được tìm kiếm sự hỗ trợ rõ ràng của gần
một thể kỷ [19,23,24]

Page 18


Hình 8: Ảnh x quang sọ nghiêng theo mặt phẳng ngang và mặt phẳng đứng được ghi lại cùng một lúc với thiết
lập X quang sọ nghiêng Broadbent [21]. Mặc dù điều này đã được thực hiện ở sự phân tích sọ nghiêng X quang ,
Broadbent đã đưa ra theo hàng cái mà được kết hợp những điểm giải phẫu ngang qua những ảnh sọ nghiêng
được lưu lại trong mặt phẳng giải phẫu 3 chiều. S, tuyến yên; P, điểm cao nhất của bờ trên ống tai ngồi; G, điểm
góc dưới hàm; GN, đỉnh cằm; O, điểm obitan; M, mặt phẳng giữa.

Nhiều vấn đề làm nổi làn sóng cái mà cần thiết để được trả lời là có cơ sở trong sự
tiến triển và phát triển của những cấu trúc sọ và mặt, những kết quả của việc điều trị
chỉnh nha và ứng dụng và có thể quan trọng hơn, giá trị của những phân tích phim sọ
nghiêng X quang mặt phẳng đơn. Ở giai đoan này, nó thích hợp để để câp sau đó, tệp
dữ liệu (DICOM) đã thu được từ cửa sổ mặt phẳng đơn của một sọ đầu.
Bởi vì Broadbent [21] thu được những giá trị một cách cùng lúc được làm từ 2 mặt
phẳng ( mặt phẳng ngang và mặt phẳng thẳng đứng) X quang sọ nghiêng (hình 7) được
đặt ở một góc bên phải. Nó là có lẽ Rickket, người mà có nhiều hơn bất kỳ bác sĩ nha
khoa khác, tạo ra một thực tế cho việc sử dụng X quang sọ nghiêng PA (hình 8) trong
việc chẩn đốn chỉnh nha. [25.26] Sự phân tích phim sọ nghiêng X quang đã được sử
dụng để nghiên cứu hình thái học của sọ và mặt qua việc sử dụng trạng thái khác nhau
của thơng số hình học. Tuy nhiên, một số hạn chế cái mà là cố hữu vốn có trong việc sử
dụng X quang sọ nghiêng trong việc thiết lập lâm sàng.
Page 19



Như những giới hạn được gắn kết một cách thường xuyên để thực tế cái mà nó có thể
nhiều hơn hoặc ít hơn để xác định, được yêu cầu một cách chính xác, nhiều giới hạn
tạo thành một sự phân tích phim sọ nghiêng mơt cách đặc biệt. [27-30] Những bác sĩ
răng hàm măt có khuynh hướng dựa vào x quang sọ nghiêng phần bên để xác định thực
thể và mức độ của những sự khác thường của sọ mặt cái mà đã đưa ra cho những bệnh
nhân của họ. [31-33] Mặc dù những ảnh sọ nghiêng PA và sự phân tích mặt phẳng
ngang thích hợp là giá trị trong những phân tích sọ mặt 3 chiều đang phát triển.[36]
Những vấn đề theo chiều ngang, vấn đề khớp cắn ngược là một sự quan tâm thực sự
của những bác sĩ nha khoa và đã được đề cập như là một khả năng lớn cho sự tái phát
của sự điều trị tiếp theo.
[31] Một vết cắn về một bên thường được xảy ra như một kết quả của hàm trên hẹp
tương đối.
Vì thế, mối quan hệ giữa bề rộng của chân răng hàm trên và hàm dưới cho là thơng tin
có tính quyết định nhất mà đã tìm thấy từ những tài liệu phim sọ nghiêng PA. [37,38]
Ricketts đã đề xuất những phương pháp đo và giới hạn của phương pháp chụp tia X
đặc biệt để đánh giá sự khác nhau theo chiều ngang cái mà có thể tồn tại giữa hàm trên
và hàm dưới (hình 9). [37.38] Theo như những giới hạn từ những phân tích trong phim
sọ nghiêng PA của Ricketts thì thường được sử dụng với sự phân tích phim sọ
nghiêng PA. [39] Jugale (J) là một điểm 2 bề được đặt ở nơi giao nhau bên ngoài của
mấu lồi hàm trên và cung gò má tương ứng ( JL: jugale left; JR: jugale right). Jugale
được miêu tả là giới hạn phần bên của xương cơ bản của xương hàm trên. Antegonion
(Ag): đỉnh góc của xương hàm dưới là điểm nằm trên đường phía dưới của hàm dưới ở
phần sâu của chỗ lõm đằng trước từ góc của hàm dưới (RAg: right antegonio; Lag: left
antegonio). Những phương pháp đo sau đây thường sử dụng khi thực hiện xác định
kích thước của xương của hàm trên và hàm dưới:

Page 20



 Bề rộng của hàm trên (JR-JL): phương pháp đo lường tuyến tính giữa JR
và JL
 Bề rộng của hàm dưới (RAg-LAg): phương pháp đo lường tuyến tính
giữa 2 điểm RAg và LAg.
Để đánh giá cơ khít của bộ xương, tỉ lệ (JR-JL/RAg-LAg) giữa bề rộng của hàm trên
và hàm dưới có thể được tính (thơng thường JR-JL/RAg-LAg x100= 80%).[32-37]

Hình 9: Hình vẽ của phim sọ nghiêng PA như được đưa ra bởi Ricketts. [18] Cho thấy những giới hạn quan trọng
là jugale(J) và antegonion (Ag) (trái) . Một vài mặt phẳng có liên quan được gợi ý bởi Rickkets cho sự phân tích
phim sọ nghiên PA(bên phải)

Để đồng nhất và xác định số lượng của những không đồng nhất của bộ xương và tính
khơng đối xứng của khn mặt trong mặt phẳng đứng từ ảnh chụp sọ nghiêng PA, đã
có sự cố gắng để phát triển và sử dụng những phân tích trong phim sọ nghiêng để đo
lường sọ và mặt theo bề ngang (Hình 10). [31,37-39] Vì thế, hình dạng của một hàm
trên nhỏ tới bề rộng xương của hàm dưới tỉ lệ (Khoảng cách interjugale và khoảng
cách interantegonion) có thể được cân nhắc để cho thấy sự tồn tại của một thành phần
của bộ xương trong sự biểu hiện của một hiện tượng khớp cắn ngược của răng. Sự tìm
ra này có thể có những gợi ý lâm sàng quan trọng đối với việc chống lại sớm sau khi
Page 21


điều trị muộn. Mặt khác , nếu một sự quan sát cho thấy lớn so với tỉ lệ bề ngang của
hàm trên và hàm dưới là thông thường , Việc khớp cắn ngược xảy ra sau sẽ có thể
nhiều hơn chiếc răng tự nhiên.[32,37,40] Pancko đã theo dõi những phương pháp hiện
tại được sử dụng trong nghiên cứu hình thái học của sọ và mặt trong mặt phẳng đứng
từ những ảnh x quang 2 chiều được giới hạn trong mối quan hệ theo chiều ngang đang
đánh giá của những cấu trúc bộ xương. [27] Những kết quả nghiên cứu của cô ấy đã
đưa ra trong những bệnh nhân mẫu của cô ấy, việc khớp cắn ngược của răng xảy ra sau

đang đưa ra có mức độ giống nhau về tính không đối xứng của xương sọ và mặt như
là vấn đề trong nhóm kiểm tra của cơ ấy. Sự tìm ra này có thể điểm tới vài sự hạn chế
vốn có của cơng nghệ 2 D cái mà đã được sử dụng thường xuyên để xác định tinh
không đối xứng của mặt.
Một sự yêu cầu cái mà những bác sĩ nha khoa cần để hiểu và phối hợp những phương
pháp đo lường phim sọ nghiêng 2D với môi trường thể tích của chụp CBCT. Theo như
Vlijmen et al. [41] sự lựa chọn của những giới hạn trong giải phẫu được sử dụng
trong việc phân tích phim sọ nghiên 3 chiều có khuynh hướng theo những định nghĩa
cái mà áp dụng tới những giới hạn giải phẫu riêng biệt được sử dụng trong những phân
tích phim sọ nghiêng X quang 2D thường quy. Trong một vài thí dụ, nó có thể khó
khăn để đồng nhất những giới hạn của phim sọ nghiêng truyền thống, như là điểm J
(jugale) trên ảnh phim sọ nghiêng 2D đã xây dựng từ X quang một khối thể tích. [37]
Trong trường hợp này, nó đã gợi ra một điểm trên bề ngoài má của xương sống hàm,
tương ứng với mesiobuccal root răng hàm trên thứ nhất, cho thấy giới hạn tốt nhất đã
phù hợp để đánh giá sự phát triển của hàm trên. [29]

Page 22


Hình 10: Ricketts đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mặt phẳng nằm ngang Frankfort khi đưa ra một X quang PA.
Chỉ rõ mặt của ông ấy [38,40] đã xác định bởi bề rộng khn mặt đang chia bởi kích thước khn mặt.

Gần đây, Andrews cho rằng một làn sóng nổi lên của giải phẫu trên việc xử lý răng
hàm dưới cái mà phù hợp vị trí tới các dải mô mềm. cái mà thường xuyên được định vị
tốt hơn một cách trực tiếp tới đường nối niêm mạc miệng (hình 11). [22] Cấu trúc của
những mơ mềm này được gọi là cung WALA sau khi Will và Larry Andrews người mà
cùng nhau đề xuất những ý kiến này, mặc dù nó đưa ra trong cả quai hàm như một
đường tham khảo cho sự xác định hình thái học của vòm răng hàm dưới.
WALA đưa ra giống như những vị trí trên dưới của trung tâm của sự xoay vịng của
răng hàm dưới và nó đã được gợi ý rằng việc đưa ra nét đặc trưng của giải phẫu này là

hướng dẫn hữu ích như là bề rộng thích hợp của xương cơ sở của hàm dưới. [22]
Cung WALA là dễ dàng để đồng nhất chụp CBCT đã định hướng trong mặt phẳng
thằng đứng của sọ và nó có thể cung cấp hữu ích trong sự xác định của bề rộng quai
hàm đã yêu cầu cho những bệnh nhân chỉnh răng.

Page 23


Khi so sánh tỉ lệ giữa 2D và 3D giống như như những vấn đề trong và ngoài của vấn đề
khớp cắn ngược, nó được chú ý rằng tỉ lệ 3D lớn hơn một cách đáng kể (p<0.001) so
với tỉ lệ 2D (khác nhau = -0.25). [42] Sự tương quan giữa phương pháp đo 2D và 3D
trong vấn đề này là một mức độ 0.450. Khi sự so sánh tỉ lệ 2D và 3D cho một nhóm
của những vấn đề bên ngồi của việc răng cắn ngược, nó được quan sát cái mà tỉ lệ 3D
lớn hơn một cách đáng kể (p<0.001) so với tỉ lệ 2D( khác nhau = -0.29).
Khi so sánh tỉ lệ giữa 2D và 3D cho những vấn đề về khớp cắn ngược, nó được lưu ý
rằng tỉ lệ 3D lớn hơn một cách đáng kể (p = 0.002) so với tỉ lệ 2D ( khác nhau = -0.19).
[42] Dữ liệu ở trên là từ những nghiên cứu đầu được phác thảo để so sánh bề rộng của
hàm trên và hàm dưới như được xác định từ X quang 2D thơng thường và chụp CBCT
thể tích 3D riêng từng người. [42] Những phương pháp đo này tạo ra trên máy x quang
được dùng cho những giới hạn thông thường như đã đề xuất bởi Ricketts cho những đề
xuất của sự so sánh kích thước ngang của hàm. [43-46] Tỉ lệ của hàm trền tới hàm
dưới , độ rộng (tỉ lệ = JL-JR/RAg-LAgx100) đưa ra một trong số những quyết định
quan trọng, cái mà chuyển giao từ ảnh X quang sọ nghiêng PA của việc xây dựng hình
ảnh sọ và mặt

Hình 11: Cung WALA như đã được định nghĩa và minh họa bởi Will Andrews và Larry Andrews. [15]

Trong khi những phương pháp đo khác đã được đề xuất để nghiên cứu kích thước của
hàm, những phương pháp đo kích thước của hàm một cách riêng biệt và tỉ lệ kích thước
của hàm được sử dụng trong nghiên cứu hiện nay và đứng trước thử thách của thời

Page 24


×