Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TIỂU LUẬN vận dụng tư tưởng hồ chí minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên tại đảng bộ agribank hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.98 KB, 34 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ GIAO THƠNG VẬN TẢI


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN TẠI
ĐẢNG BỘ AGRIBANK HIỆN NAY

Họ và tên học viên:
Đơn vị cơng tác:
Lớp: Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính K...
Giảng viên hướng dẫn:

Hà Nội, tháng… năm 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức và đạo
1.1.
đức cộng sản
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực cơ bản của
1.2.
đạo đức cách mạng
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục
1.3.


đạo đức cách mạng cho đảng viên
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH
Chương 2.
MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN TẠI ĐẢNG BỘ
AGRIBANK HIỆN NAY
2.1.
Đảng bộ Agribank
2.2.
Những kết quả đạt được
2.3.
Hạn chế, yếu kém
2.4.
Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Chương 3.
CHO ĐẢNG VIÊN TẠI ĐẢNG BỘ AGRIBANK
HIỆN NAY
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ,
3.1.
đảng viên
Phát huy tốt vai trò các tổ chức đảng Đảng bộ
3.2.
Agribank trong quản lý, giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Kết hợp chặt chẽ việc bồi dưỡng, rèn luyện, giáo dục
của tổ chức với việc đề cao trách nhiệm tự tu dưỡng,
3.3.
rèn luyện đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng

viên
Quán triệt Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công
3.4.
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng
3.5.
cho đảng viên tại Đảng bộ Agribank
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1.

1
3
3
3
5
14

16
16
18
22
22

23
23
24

26
27

29
31
32


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Một sự nghiệp cách mạng lớn lao
như vậy muốn giành được thắng lợi hoàn toàn địi hỏi phải có những con người
xã hội chủ nghĩa, những con người đó trước hết phải là những con người có
đạo đức cách mạng như Bác Hồ đã dạy: “đạo đức cách mạng là phải có tinh
thần tận tuỵ hy sinh vì dân, vì nước và quyết tâm một đời đấu tranh cho Đảng,
cho cách mạng. Đạo dức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với
nhân dân… đạo đức cách mạng còn là hết sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu
của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nhân dân lao
động” [5, tr.192].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay trước sự tác động ảnh hưởng của
mặt trái cơ chế thị trường, của tồn cầu hố gây những tổn hại khơng nhỏ đến
việc xây dựng đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ đảng viên, thêm vào đó là
sự chống phá của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội,
làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên nhạt phai lý tưởng chiến đấu, vi phạm
đạo đức nhân cách của người cán bộ, đảng viên, dẫn đến thoái hoá biến chất
làm ảnh hưởng đến uy tính của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên tại
đảng bộ Agribank hiện nay” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

Phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng
cho đảng viên. Trên cơ sở đó chỉ ra thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên tại đảng bộ Agribank. Từ
đó để ra các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
cách mạng cho đảng viên tại đảng bộ Agribank hiện nay.
1


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng.
- Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho đảng viên tại đảng bộ Agribank.
- Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho đảng viên tại đảng bộ Agribank hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
đảng viên tại đảng bộ Agribank hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác kết hợp với các phương
pháp nghiên cứu khác như nghiên cứu lý thuyết, phương pháp logic, phân
tích, tổng hợp, thống kê, mô tả, so sánh...
6. Giá trị của đề tài
Tiểu luận góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên. Tiểu luận
có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đại học, trung tâm bồi dưỡng
chính trị tỉnh... nghiên cứu, vận dụng vào trong q trình giảng dạy, sinh viên
có thể làm tài liệu tham khảo các môn học liên quan đến chủ đề.
7. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận gồm 3 chương (12 tiết).
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
đảng viên
Chương 3. Giải pháp vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức cách mạng cho đảng viên tại đảng bộ agribank hiện nay
Chương 2. Thực trạng vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức cách mạng cho đảng viên tại đảng bộ agribank hiện nay
2


NỘI DUNG
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN
1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức và
đạo đức cộng sản
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi bình minh của
lịch sử xã hội loài người. Những tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, đạo đức học
đã hình thành hơn 26 thế kỉ trước đây trong triết học phương Đông như: Trung
Quốc, Ấn Độ… và triết học phương Tây như: Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại…
Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và
duy vật) đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo
đức. Họ khơng thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận
động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính
cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn
nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà
triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở
ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài
con người, bên ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi
đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực khách quan. Trái với các quan điểm

trên, các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xem xét vấn đề đạo đức và
giáo dục đạo đức dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng thể hiện bản
chất khoa học và cách mạng của nó.
Với việc phát hiện ra tính quy định của phương thức sản xuất đời sống
vật chất đối với đạo đức và các hiện tượng tinh thần khác, C.Mác khẳng định:
Đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy định bởi
tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm, quan điểm, nguyên tắc,
chuẩn mực, lý tưởng, niềm tin và tình cảm đạo đức,… tức tồn bộ ý thức đạo
đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát triển
nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Đạo đức có bản chất
3


xã hội, nó khơng phải là biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngồi xã
hội, bên ngồi các quan hệ người, cũng không phải là sự biểu hiện của những
năng lực thiên nhiên, nhất thành bất biến của con người.
Tiếp tục và cụ thể hóa tư tưởng của C.Mác tính quy định của tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ph.Ăngghen đã luận
chứng cho bản chất xã hội của đạo đức bằng việc chỉ ra tính thời đại, tính dân
tộc và tính giai cấp của đạo đức. Ph.Ăngghen khẳng định về thực chất và xét
đến cùng, các nguyên tắc, chuẩn mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua là
sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Đồng thời, đạo đức còn
bị chi phối bởi những yếu tố mang tính dân tộc, “Từ dân tộc này sang dân tộc
khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện - ác đã
biến đổi nhiều đến mức chúng thường đều ngược hẳn nhau [1, tr.135].
Về giáo dục đạo đức, C.Mác đã nêu ra quan niệm và vai trị của nó đối
với sự hình thành nhân cách và nhân cách đạo đức. Lần đầu tiên trong lịch sử,
C.Mác đã nêu ra khái niệm giáo dục đạo đức một phạm vi khái quát rộng lớn
với tư cách là qúa trình hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm
chất đạo đức của con người; do đó, làm cho nó có nội dung đầy đủ và phong

phú hơn. Giáo dục đạo đức, theo nghĩa rộng là sự hình thành đạo đức, khơng
đơn giản chỉ là việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội,
cách ứng xử giữa người với người theo những yêu cầu nhất định (các hệ
thống giáo dục đạo đức trước Mác chỉ dừng lại ở quá trình này). C.Mác đặc
biệt chú ý đến việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng
đáng nhất, hợp với bản chất người nhất” [2, tr.134], coi đó là cơ sở, đồng thời
là một phương tiện hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện tối hậu quyết
định sự phát triển đạo đức con người. Trong giáo dục đạo đức, C.Mác chủ
trương phải kết hợp hai phương tiện: Truyền đạt và nêu gương. Những tấm
gương đạo đức là hiện thân sinh động của giá trị, các chuẩn mực đạo đức.
Nhờ vậy, chúng có sức cảm hóa, có khả năng thâm nhập một cách tự nhiên
vào ý thức con người. Đòi hỏi nhà giáo dục đạo đức phải là tấm gương về đạo
4


đức. Nhưng để trở thành tấm gương, họ cần phải có những phẩm chất đáp ứng
các yêu cầu của giáo dục. Vì vậy, bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được
giáo dục. Khẳng định tiến bộ của đạo đức, chỉ ra tính quy luật của sự phát
triển đạo đức: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra dự báo về sự xuất
hiện một nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nền đạo đức này là
sự tiếp tục và phát triển của đạo đức vơ sản xuất hiện cùng giai cấp vơ sản
trong lịng xã hội tư bản. Mặc dù vậy, đạo đức vô sản chứa đựng một số lượng
nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài và tiêu biểu cho
tương lai. Cùng với thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, đạo đức cộng sản sẽ
được xác lập như một nền “… đạo đức thực sự có tình người, đứng trên
những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những đối lập ấy” [3, tr.137].
Kế thừa những quan điểm tiến bộ về đạo đức của C.Mác, V.I.Lênin
khẳng định: “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và
hồn thành cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Do đó, đạo đức cộng
sản là “… những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần

đồn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng
tạo ra xã hội mới của người cộng sản” [9, tr.369].
Sự hình thành nền đạo đức mới, suy cho cùng, phải thể hiện ở những
nhân cách đạo đức, là những chủ thể của các quan hệ, các hoạt động người. Vì
thế, giáo dục đạo đức nhằm hình thành và phát triển những năng lực đạo đức
cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội, hơn là quan tâm của các học thuyết về
đạo đức.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực cơ bản của đạo đức
cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một tài sản tinh thần vơ
giá, đó là tư tưởng của Người. Trong đó, nổi bật là tư tưởng đạo đức cách
mạng. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là một tấm gương mẫu mực, sáng
ngời về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan
5


tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác
phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề
quan tâm hàng đầu của Bác trong sự nghiệp cách mạng.
Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là qua các tác phẩm,
bài viết bài nói của người trong thời kỳ 1945-1954, chúng ta thấy Người đề ra
những chuẩn mục đạo đức cụ thể đối với từng đối tượng: cán bộ, đảng viên,
công nhân, nông dân, phụ nữ, thanh niên đó là những lời khen ngợi, biểu
dương hay phê bình nhắc nhở, hay đó là những lời khuyên nên tránh hay nên
làm, cần xây hay cần chống. Bao giờ Người cũng phân biệt mặt tốt với mặt
xấu, cái thiện với cái ác trong động cơ cũng như trong hành động của mỗi con
người, trong mối quan hệ xã hội vô cùng đa dạng, để làm rõ những vấn đề đạo
đức cần phải xây dựng. Người làm công việc ấy rất thường xuyên, gần như

một ngừơi làm vườn cần mẫn, hàng ngày bắt sâu, nhặt cỏ, tỉa lá cắt cành, vun
xới cho những mầm cây.
Người đề ra những chuẩn mực đạo đức cụ thể phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ, trách nhiệm của từng đối tượng người Việt Nam. Với thiếu niên nhi
đồng, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”
[6, tr.133]. Những chuẩn mực đạo đức Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng là:
“Yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật
tốt. Giữ gìn vệ sinh. Thật thà, dũng cảm” [6, tr.135]. Người đánh giá cao vai
trò của thanh niên là người chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định
nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu phần lớn là do các thanh niên. Người
khun thanh niên: “Khơng có việc gì khó, Chỉ sợ lịng khơng bền. Đào núi
và lấp biển, quyết chí ắt làm nên” [6, tr.139]. Người dạy thanh niên phải kiên
quyết làm bằng được những điều sau: “a) Các sự hy sinh khó nhọc thì mình
làm trước người ta, cịn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta
6


hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc)./ b) Các việc đáng làm, thì
khó mấy cũng cố chịu quyết tâm làm cho kỳ được./ c) Ham làm những việc
ích quốc lợi dân, Khơng ham địa vị và cơng danh phú q./ d) Đem lịng chí
cơng vơ tư mà đối với người, đối với việc./ e) Quyết tâm làm gương về mọi
mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch./ f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói
ít làm nhiều, thân ái đoàn kết...” [6, tr.140]. Với quân đội và cơng an, Người
quy định 12 điều kỷ luật, mà địi hỏi những phẩm chất đạo đức của lực lượng
vũ trang là: “Trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ Quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [6, tr.141].
Với đảng viên, Người nhấn mạnh các chuẩn mực: “1. Quyết tâm suốt

đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất./ 2. Ra sức
làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng./ 3. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân. Hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng,
vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc./ 4. Ra sức học tập
chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư
tưởng và cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.” [7,
tr.285]. Với cán bộ cơng chức nhà nước, Người quy định “6 điều không nên
và 6 điều nên làm” [7, tr.286] để cán bộ công chức Nhà nước phải là công bộc
của dân, đầy tớ trung thành của nhân dân. Với giáo viên, Bác dạy phải là tấm
gương 4 mặt. Với đội ngũ y, bác sỹ, Bác dạy “lương y như từ mẫu”...
Những chuẩn mực đạo đức chung, cơ bản và phổ cập đối với mọi
người do Người quy định có thể khái quát lại là:
* Trung với nước, hiếu với dân
Từ xưa đến nay ở Việt Nam, trong quan hệ văn hoá - đạo đức, thì mối
quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân và tổ quốc là mối quan hệ lớn nhất,
có vai trị chi phối mọi quan hệ khác. Do đó, trung với nước, hiếu với dân là
phẩm chất đạo đức hàng đầu. Trung - hiếu là những khái niệm đã có trong đạo
7


đức truyền thống. Trước kia, đạo đức Phong kiến dạy người ta phải “trung với
Vua, hiếu với Cha Mẹ”. Đó là hai điều lớn trong đạo ngũ luân, mà điều lớn
nhất là trung với Vua.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam, Hồ Chí Minh nói: trung với nước, hiếu với dân. Ở đây, Hồ Chí Minh
khơng chỉ dùng từ “trung - hiếu” với ý nghĩa một trách nhiệm, bổn phận của
con người, mà với khái niệm mang tính truyền thống lịch sử, Người đã đưa vào
đó một nội dung, mang tính cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn. Người
viết: “Đạo đức, ngày trước thì trung với Vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời

đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước, phải hiếu với toàn dân,
với đồng bào” [8, tr.320-321]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, trung là trung với
nước, với đảng, với lý tưởng cách mạng, còn hiếu khơng chỉ đối với cha mẹ mà
cịn bao hàm một nội dung sâu rộng hơn là hiếu với dân, với đồng bào.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người viết: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chống lên trời. Đạo đức mới
như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [8, tr.320321]. Theo Hồ Chí Minh, “trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân
với cộng đồng, xã hội, thể hiện trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Ở đây, nước là của nhân dân và
nhân dân là chủ nhân của đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân, cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là cơng việc của dân; chính quyền
từ xã đến chính phủ Trung Ương do dân cử ra: “Đoàn thể từ Trung Ương đến
xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng của dân rất to,
việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém việc gì cũng kém. Dân vận khéo
việc gì cũng thành cơng” [7, tr.323]. Từ đó, Người ln nhắc nhở cán bộ,
đảng viên: “phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, khi sắp tới dân mong,

8


khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân
không ủng hộ” [7, tr.3241].
Mặt khác, ở Hồ Chí Minh, hiếu với dân khơng chỉ thể hiện ở chỗ
thương dân, mà chủ yếu là ở chỗ tin dân dựa vào dân, giúp đỡ dân, lo cho
cuộc sống của nhân dân ngày càng tốt hơn. Người khuyên cán bộ, đảng viên
phải gắn bó với dân, phải gần dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, bởi
có biết làm học trị dân, mới làm được thầy học dân. Người xác định, cán bộ
các cấp đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân. Cán bộ

phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia cơng việc rõ rệt, cùng nhau
đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đạt kế hoạch tổ chức nhân
công, sắp xếp việc làm, khuyến khích theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những
khó khăn.
Cán bộ phải đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân: “việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”. Trong bài
6 điều không nên và 6 điều nên làm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “nước lấy
dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
[6, tr.410]. Đó là một sự tổng kết mang tính chân lý về mối quan hệ giữa nước
với dân.
* Yêu thương đối với con người, sống có nghĩa tình
Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua
nhiều thế kỷ, cùng với việc thể hiện của chính bản thân mình qua thực tiễn
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là
một trong những phẩm chất cao đẹp nhất.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa yêu cầu phải thông cảm với mỗi người lao
động lương thiện, cái gắn bó ta với người này là thái độ yêu lao động, thiện
tâm và tình người. Thái độ tốt và tình u với con người - đó là chủ nghĩa
nhân đạo.

9


Chủ nghĩa Mác hiểu chủ nghĩa nhân đạo là tình yêu thương, đây là tình
yêu đối với người lao động, đối với người lương thiện và chân chính. Chủ
nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa có căn cứ ở sự lương thiện, sự cơng bằng và
lương tâm. Nó u cầu q trọng ở con người tất cả những gì tốt đẹp và lên án
tất cả những gì xấu ở con người.
Tình yêu với con người là tiêu chuẩn cuối cùng là bản chất của đạo

đức. Tất cả vì con người, vì sự no ấm và hạnh phúc của nó, đây là phương
châm được nêu lên trong cương lĩnh đảng cộng sản Liên Xơ.
Nếu như mục đích và ý nghĩa cao nhất của cuộc sống con người là đấu
tranh cho hạnh phúc của con người, thì điều này khơng thể thực hiện bằng
những biện pháp rời rạc, lẽ tẻ, bằng con đường của chủ nghĩa cá nhân và chủ
nghĩa ích kỷ, phải tổ chức bằng sự tổ chức hợp lý, thống nhất và có kế hoạch,
bằng con đường của chủ nghĩa tập thể.
Con người phải yêu những con người - Kalinin nói - nếu nó u những con
người thì nó sẽ sống tốt hơn, cuộc đời phải vui hơn, vì khơng có kẻ nào trên đời
này lại sống khốn khổ như kẻ yếm thế, kẻ có tư tưởng thù ghét con người.
Tình u thương đó là tình cảm rộng lớn. Trước hết dành cho những
người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình u thương đó
đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước
được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương u lẫn
nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ đảng viên phải luôn luôn chú ý đến
phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình yêu trên nguyên tắc tự phê bình
một cách chân thành, nghiêm túc giữa con ngừơi cùng lý tưởng, cùng phấn đấu
cho một sự nghiệp chung. Nó hồn tồn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao che
sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu,
bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.

10


Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống
nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của
nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định
tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu

thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vị rất rộng lớn, đó là
tình thương bao la dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức, bóc lột khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn trên khắp thế giới. Yêu thương
con người là nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác; phải có tình
nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức
những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Người nói “cần làm cho phần tốt trong
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi”. Bác căn dặn,
Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình
và phê bình chân thành, thẳng thắn, khơng “dĩ hồ vi q”, khơng hạ thấp con
người, càng khơng phải vùi dập con người.
* Cần kiên liêm chính, chí cơng vơ tư
Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư là nét đặc trưng của đạo đức theo
quan niệm của Hồ Chí Minh. Đó là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách
mạng, việc tu dưỡng, rèn luyện nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong cơng
tác, sinh hoạt gia đình, xã hội, ở mọi khơng gian, thời gian, và nhìn chung là
lấy chính bản thân mình làm đối tượng. Phẩm chất này là một biểu hiện cụ thể
của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”, bởi vì “cần kiệm liêm chính,
chí cơng vơ tư” sẽ tạo khả năng giữ vững độc lập, xây dựng đất nước.
Đây cũng là những khái niệm đạo đức truyền thống được Hồ Chí
Minh vận dụng, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới, Người viết “bọn
phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ làm,
mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày
nay chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho
nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” [6, tr.421].

11


Ngay trong tác phẩm “Đường kách mệnh” viết năm 1927, “cần kiệm”
đã được Hồ Chí Minh nhắc tới và coi như là yêu cầu số 1 của tư cách một

ngừơi cách mạng. Ngừơi mong mỏi tha thiết mỗi người Việt Nam, nhất là cán
bộ, đảng viên phải lấy “cần kiệm liêm chính” là phương châm sống trong
cuộc sống mới.
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động
có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm là tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản
thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Khơng xa xỉ, khơng hoang phí,
khơng bừa bãi”, nhưng khơng phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng của Người
còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao. Liêm là “luôn ln tơn trọng giữ
gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà
nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh
tiếng, sung sướng. Khơng tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục
khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ
địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy
hiểm, khơng dám làm là tham lạo. Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn
đối với mình, với người, với việc. Đối với mình, khơng tự cao, tự đại, ln
chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa
đổi điều dở. Đối với người, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới;
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc. Đối
với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” khơng thể thiếu
được của con người. Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần
thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh
hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính
12



cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh
của dân tộc. “Nó” là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để
phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân
loại”. Chí cơng vơ tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa
vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ. Thực hành chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến
mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả
giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn
được mọi người u mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa
cá nhân. Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là
để người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang khơng quyến
rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ khơng thể khuất phục”.
* Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tinh thần quốc tế vô sản đó là tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản, mà Hồ
Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vơ sản đều là anh em”. Đó
là tinh thần đoàn kết các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động mà Hồ Chí
Minh đã dày cơng vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân
mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Đó là tinh thần đồn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người
tiến bộ trên thế giới vì hồ bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết ấy là
nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

13



Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa
yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính là chủ nghĩa quốc
tế vô sản trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần
quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, so
sánh biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, như thế
giới thường nói hiện nay. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn
đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân
tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể
đưa đến tình trạng đối đầu, đối địch.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân. Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn
và sâu sắc. Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ
sản tồn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người
tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân
biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơ vanh, chủ nghĩa bành
trướng, bá quyền. Người khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em”;
giúp bạn là tự giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế
giới. Người đã góp phần to lớn, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại
thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hố hồ bình cho nhân loại.
1.3. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho đảng viên
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng là toàn
bộ những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh những hành vi của
con người trong quan hệ với người khác, với cộng đồng và với bản thân mình
theo mục tiêu lý tưởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dựa vào những
chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm
về thiện và ác, về cái không được làm và nghĩa vụ phải làm.


14


Về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
quan tâm chăm lo mọi mặt cho thanh, thiếu niên, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
thành đội hậu bị vững chắc của Đảng. Người luôn nhắc nhở Đảng và Nhà
nước phải giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, văn hóa, khoa học kỹ thuật,
rèn luyện năng lực thực tiễn cho thanh niên… Ngay từ khi hoạt động cách
mạng ở nước ngồi, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn thế hệ trẻ nước
nhà tiếp thu một nền giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa tốt đẹp. Trong đó, giáo dục
đạo đức được đặt lên hàng đầu và để các em trở thành những con người tốt,
những cơng dân tốt, có ích cho bản thân, gia đình và đất nước.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo, nổi bật là
quan điểm giáo dục tồn diện. Trong đó, Người ln coi trọng cả “đức” và
“tài” và thường nhấn mạnh mối quan hệ không thể tách rời của hai mặt đó
trong sự hồn thiện nhân cách con người mới, để có được một người cán bộ
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người nhấn mạnh: “Thanh niên phải có đức có tài.
Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế rất giỏi nhưng lại đi đến
thụt kém thì chẳng những khơng làm được việc gì có ích cho xã hội, mà cịn
có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng bụt khơng làm
hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người” [8, tr.399].
Người chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm về đạo đức của mỗi chế độ,
mỗi thời đại, “Đạo đức ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ.
Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới” [7, tr.149]. Có đạo đức mới
thì có con người mới xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của nhà trường dưới chế độ
mới là đào tạo nên những con người có đạo đức, có kiến thức, có văn hóa, kỹ
năng lao động nghề nghiệp chứ không phải đào tạo ra “một lũ cao bồi”. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục là để hình thành và phát triển nhân cách cho
con người. Do đó, giáo dục bao gồm cả dạy người lẫn dạy chữ, trong đó dạy

người là mục tiêu cao nhất. Giáo dục hình thành nhân cách cho con người có
ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Con người với nhân
cách hoàn thiện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Sự
15


nghiệp cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, suy cho cùng là nhằm mục tiêu giải phóng con người, hướng con
người tới chân, thiện, mỹ, làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Mặt khác, con người có đạo đức, trí tuệ là động lực quan trọng đưa
cách mạng đến thắng lợi. Người cho rằng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã
hội chủ nghĩa… Đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà”
[8, tr.542].
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dành nhiều cơng sức cho việc đào tạo, bồi dưỡng các thế cách mạng Việt
Nam. Với tấm lịng u thương bao la, với trí tuệ sâu sắc và kinh nghiệm
phong phú, Người đã dìu dắt thế hệ trẻ, trực tiếp tổ chức công tác đào tạo thế
hệ trẻ và tự mình nêu gương sáng về mọi mặt cho thanh thiếu niên noi theo.
Trước lúc đi xa người cịn căn dặn tồn Đảng, tồn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [6, tr.622].
Con đường hình thành đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là con đường giáo dục, rèn luyện, kết hợp tự giáo dục, tự rèn luyện thông qua
hoạt động thực tiễn và phải tu dưỡng kiên trì, bền bỉ suốt đời. Bởi vì, “Đạo
đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và cũng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Mặt khác, đạo đức của con người “phần nhiều
do giáo dục mà nên”, vì thế, phải kết hợp việc giáo dục của các tổ chức với
phát huy cao độ vai trò tự giáo dục rèn luyện của mỗi người.
Chương 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ

MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN
TẠI ĐẢNG BỘ AGRIBANK HIỆN NAY
2.1. Đảng bộ Agribank
Đảng bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn Việt Nam
(Đảng bộ Agribank) có 2850 đảng viên, đang tham gia sinh hoạt tại 75 chi,
16


đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Agribank, trong đó có 33 đảng bộ cơ sở, 09 chi
bộ cơ sở và 33 chi bộ trực thuộc, 176 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở. Sau đại
hội lần thứ IX, nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng ủy Agribank đã khẩn trương chỉ
đạo, cụ thể hóa các nội dung cơng tác cho cả nhiệm kỳ (chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại hội; Quy chế làm việc, chương trình cơng tác
tồn khóa của BCH Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy, UBKT Đảng ủy; các
trọng tâm công tác theo năm, quý, tháng). Nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ủy đã
ban hành 17 chương trình/kế hoạch hành động, 43 chương trình cơng tác, 67
nghị quyết/kết luận, 13 quy chế, 12 hướng dẫn, 9 quy định/quy trình, hơn
2.300 quyết định và nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo các mặt hoạt động của
Đảng bộ. Đến 30/6/2020, Ðảng ủy Agribank hoàn thành toàn diện 5/5 chỉ tiêu
theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đề
ra cho khối các ngân hàng thương mại và 12/12 chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ Agribank lần thứ IX đề ra. Ðạt được kết quả trên, Ðảng ủy luôn
chú trọng đến công tác xây dựng tổ chức Ðảng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Ðảng ủy Agribank xác định: Công tác xây dựng tổ chức Ðảng, công tác
cán bộ là then chốt trong các nhiệm vụ then chốt của Ðảng. Trong đó, coi
trọng cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị thơng qua việc tổ chức qn triệt,
học tập và tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Ban
Chấp hành Trung ương Ðảng, của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.
Việc xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chương trình hành động phù

hợp với điều kiện thực tế với trọng tâm là các Nghị quyết hội nghị BCH TW
lần thứ 4, 5, 6, 7, 8 khóa XII; tiếp tục các nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XI, XII gắn với Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ
Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và
các quy định nêu gương đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu trong cơng
tác phịng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.

17


Đảng ủy Agribank lấy kết quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XII) là thước đo đánh giá chất lượng tổ chức đảng
và đảng viên hàng năm. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập các chỉ thị, nghị
quyết đạt từ 85-90%; sau mỗi lần học tập, quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết, Kết
luận của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương, của Đảng ủy Agribank, các chi, đảng bộ đều triển khai tổ chức
sinh hoạt, thảo luận xây dựng chương trình thực hiện và đề ra biện pháp khắc
phục những tồn tại hạn chế của cá nhân phù hợp với tình hình thực tế tại đơn
vị. Ðây là cơ sở để các tổ chức cơ sở đảng tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện, giáo
dục và phân loại đảng viên.
2.2. Những kết quả đạt được
Là một trong các ngân hàng thương mại nhà nước được đánh giá đóng
vai trị chủ lực trong hệ thống ngân hàng, Agribank luôn phát huy vai trò tiên
phong, gương mẫu của một ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước trong
việc thực thi nghiêm túc, có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia và các chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước về tiền tệ, ngân hàng, nhất là chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn, góp phần quan trọng
ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm
an sinh xã hội. Với quy mô, mạng lưới rộng lớn và đội ngũ cán bộ nhân viên

gần 40.000 người, để triển khai hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ủy lãnh đạo triển khai thực hiện Chỉ
thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (Khóa XII) đồng bộ, toàn
diện gắn với các giải pháp xây dựng, thực hiện văn hóa doanh nghiệp
Agribank, đạo đức cơng vụ; cụ thể hóa thành “Tiêu chuẩn đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên và người lao động trong Đảng bộ Agribank theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Cán bộ, đảng viên, người lao động Agribank khắc sâu và thực hiện có
hiệu quả việc Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
18


Minh gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ kinh doanh hiệu quả,
góp phần thực hiện thành cơng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp
Trung ương lần thứ III và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Agribank lần
thứ X, nhiệm kỳ 2020- 2025. Các hoạt động được triển khai gắn với thực hiện
Nghị quyết TW 4 khóa XII về chỉnh đốn, xây dựng Đảng, phong trào thi đua
“Cán bộ ngân hàng rèn đức, luyện nghề, sáng tạo”; triển khai phong trào cán
bộ Agribank là đại sứ thương hiệu, phong trào thi đua yêu nước, gương điển
hình tiên tiến; cam kết về rèn luyện, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống; khơng có biểu hiện suy thối, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” theo
Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư khóa XI về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp, nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn
luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thấm nhuần, tơi luyện các chuẩn
mực đạo đức cách mạng “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư” gắn với
thực hiện văn hóa doanh nghiệp, Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy
tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi
làm việc, tích cực đấu tranh phịng chống thơng tin sai lệch, xấu độc, góp

phần bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ
gìn sự thống nhất ý chí hành động và sự đồn kết trong Đảng.
Để việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực,
cần phải quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhiệm kỳ 2020- 2025, Đảng bộ Agribank
xác định tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh, thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết TW4 khóa XII “Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị
đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội
19


bộ”. Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo, nghiên cứu sâu hơn những
nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên cơ sở
bám sát các chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; Nâng cao chất lượng xây dựng
chương trình, hướng dẫn nội dung học tập, sinh hoạt định kỳ, sinh hoạt
chuyên đề của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể các cấp; định
hướng nội dung, chương trình bồi dưỡng kiến thức về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, cơng tác sơ kết, tổng kết hằng năm và tồn khóa;
Tăng cường các hình thức thơng tin tun truyền về các điển hình tiên tiến,
gương người tốt, việc tốt, những cách làm sáng tạo trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời uốn nắn những biểu
hiện lệch lạc, những cách làm hình thức, kém hiệu quả. Nêu cao tinh thần tự
giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Chú trọng tổ chức
các phong trào thi đua lao động; thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ
sở tại nơi làm việc. Trong đó, chú trọng nâng cao nhận thức của từng cán bộ,
đảng viên, người lao động, từng tổ chức cơ sở đảng, từng đơn vị về tầm quan

trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong tình hình mới là hết sức quan trọng, bởi từ nhận thức đúng đắn,
mỗi cá nhân, tập thể sẽ có những biện pháp, chương trình, kế hoạch triển khai
thực hiện cụ thể, gắn học với hành, đem lại hiệu quả cao.
Agribank kịp thời khuyến khích động viên, khen thưởng đảng viên, cán
bộ, người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh hàng năm và khen
thưởng những cá nhân, đơn vị đạt thành tính xuất sắc trong học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào dịp 19/5/2018. Mới đây, tại Hội nghị biểu
dương cán bộ, công chức, viên chức và người lao động điển hình tiên tiến
ngành Ngân hàng giai đoạn 2014 - 2019 được Cơng đồn Ngân hàng Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội, Agribank có 56 trong 289 gương mặt đồn viên
người lao động tiêu biểu ngành Ngân hàng, có thành tích xuất sắc trong phong
trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” được biểu dương.
20


Những tấm gương về trả lại tiền thừa cho khách hàng luôn được nhân
rộng trong hệ thống Agribank qua nhiều năm, niềm tin yêu của khách hàng
đối với Agribank được gia tăng và củng cố. Từ năm 2015 tới hết quý I năm
2019, Agribank đã trả lại số tiền thừa lên tới 503,761 tỷ đồng với 153.624
món. Niềm tin của khách hàng gửi gắm Agribank luôn được gia tăng và củng
cố. Gần đây nhất, khách hàng Phạm Thị Mười đã gửi thư đến Agribank với lời
cảm ơn chân thành tới Agribank và đặc biệt là các cán bộ nhân viên phịng
giao dịch Minh Khai bởi nhờ có sự nhiệt tình và tâm huyết của các cán bộ
Agribank mà khách hàng đã không bị lừa số tiền rất lớn (200 triệu đồng), số
tiền ấy khách hàng phải chắt chiu nhiều năm mới có được... Cịn nhiều, nhiều
nữa những trường hợp khách hàng cảm kích trước sự trung thực và tâm huyết
của cán bộ Agribank, họ không chỉ làm việc bằng lý trí mà bằng cả trái tim
của mình, hết lịng vì khách hàng, vì nhân dân... Cơng việc lặng thầm của
những cán bộ Agribank trung thực, kỷ cương, sáng tạo... đã được khách hàng

thấu hiểu và tin tưởng.
Thấm nhuần lợi dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng
bộ Agribank đã xây dựng, bồi dưỡng đại bộ phận cán bộ, đảng viên phát huy
được phẩm chất, đạo đức cách mạng. Đa số cán bộ, đảng viên luôn trau dồi và
giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng, yêu nước, u dân, chí cơng, vơ tư,
gương mẫu, có lối sống trong sạch, lành mạnh. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng
viên vững vàng trước những biến động trong nước và thế giới, kiên định mục
tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, hoàn thành các nhiệm vụ
được giao.
Tại Đảng bộ Agribank, nhiều đồng chí đã nêu cao tấm gương về bản
lĩnh chính trị, có ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, hết
lịng, hết sức tận tụy với công việc, được quần chúng yêu mến, tín nhiệm.
Nhiều cán bộ, đảng viên hoạt động trong các mơi trường phức tạp, điều kiện
khó khăn đã năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước dân, trước Đảng, mạnh dạn tìm tịi, thử nghiệm nhiều cách làm mới, đạt
21


hiệu quả cao, được quần chúng tin yêu, ca ngợi, góp phần quan trọng trong
việc tăng cường và củng cố niềm tin của khách hàng vào Agribank. Nhìn
chung số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã cơ bản đáp ứng
được các yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên tham gia công tác
quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, khơng
ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành, góp phần quan trọng
vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.
2.3. Hạn chế, yếu kém
Một bộ phận ít cán bộ, đảng viên Đảng bộ Agribank chưa gương mẫu
rèn luyện về phẩm chất đạo đức. Tự phê bình, phê bình sửa chữa khuyết điểm
chưa nghiêm túc. Đấu tranh chống các tệ nạn chưa quyết liệt, nói mạnh, làm

nhẹ, mạnh với tội nhỏ, nhẹ với tội to, nể nang ô dù bao che cho nhau.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên có biểu hiện nói nhiều làm ít, nói nhưng
khơng làm, nói một đằng làm một nẻo. Những tệ nạn ấy, đã gây nên những
bất bình khi khách hang đến làm việc tại ngân hàng, làm giảm lịng tin của
nhân dân đới với Agribank.
Tình trạng tham nhũng “vặt”. Tình trạng này xuất hiện ở nhiều nơi,
trong nhiều cơ quan, tổ chức và ở những vị trí khác nhau; Tham nhũng vặt tuy
giá trị không lớn nhưng nó kìm hãm sự phát triển của ngân hàng; làm giảm
niềm tin của người dân, doanh nghiệp… Đồng thời nó là nguyên nhân dẫn
đến vi phạm nghiêm trọng đạo đức của cán bộ, đảng viên Đảng bộ Agribank.
Các biểu hiện suy thoái liên quan đến thực thi quyền lực nêu trong Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII của cán bộ, đảng viên rất đa dạng, như nói khơng đi
đơi với làm; nói một đằng, làm một nẻo; tham ơ, tham nhũng, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi; lợi
dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay
cho tham nhũng, tiêu cực…
2.4. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

22


Việc triển khai Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước của các cơ quan, đơn vị trong Đảng bộ Agribank còn chậm, thiếu quyết
liệt nên hiệu quả chưa cao.
Người đứng đầu Đảng bộ Agribank chưa thật sự gương mẫu trong vấn
đề đạo đức lối sống và trách nhiệm trong công việc nên đã tác động tiêu cực
đến tư tưởng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ.
Năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, đảng viên còn rất hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu trong công tác. Một số cán bộ, đảng viên Đảng bộ Agribank
có năng lực cơng tác nhưng phẩm chất đạo đức cịn hạn chế trong việc thực

hiện nhiêm vụ, công vụ gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của ngân hàng.
Đảng bộ Agribank chưa có sự quan tâm đúng mức đối với việc giáo dục
tinh thần trách nhiệm, cũng như việc xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp
vi phạm đạo đức cơng vụ chưa nghiêm nên chưa thật sự có tính răn đe, làm
gương.
Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị về trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên; cơ chế quản lý, kiểm tra giám sát của tổ chức và thủ trưởng
trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, đảng viên còn
hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu đồng bộ.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xun,
và cịn mang tính hình thức. Nhiều cán bộ, đảng viên thiếu nghiêm khắc với
bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức.
Chương 3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN TẠI
ĐẢNG BỘ AGRIBANK HIỆN NAY
3.1. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang lân vào khủng
hoảng, nền kinh tế đất nước phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề xây dựng mục tiêu lý tưởng chính trị làm

23


×