Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN thực trạng và những định hướng chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp ở việt nam theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.79 KB, 22 trang )

TRƯỜNG

TIỂU LUẬN
MÔN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM
THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

Người thực hiện:
Mã học viên:
Lớp:

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT
ĐỘNG LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM THEO YÊU CẦU
I.
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1.1.

Hoạt động lập pháp ở Việt Nam
Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
1.2.


hội chủ nghĩa Việt Nam
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ
YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP
II.
PHÁP Ở VIỆT NAM THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thực trạng hoạt động lập pháp ở Việt Nam theo yêu cầu
2.1.
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Những định hướng chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động
2.2.
lập pháp ở Việt Nam theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Liên hệ với cương vị bản thân (Chủ tịch Hội Nông dân
2.3.
huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
6
9
9
13
15
19
20



MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật vào xây dựng
nhà nước công nông đầu tiên ở đông Nam Á - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, nay là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời, biết tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo những hạt nhân hợp lý trong tư
tưởng nhân loại tiến bộ về nhà nước pháp quyền vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong
thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng
đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ,
hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư
pháp tiếp tục được hoàn thiện” [4, tr.71]. Đồng thời, với quan điểm nhìn thẳng
sự thật đánh giá đúng sự thật, Đại hội của thẳng thắn chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm nổi bật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp
ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình
mới” [4, tr.89].
Quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước là địi hỏi khách quan, trong đó
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến hoạt động lập pháp. Do đó, nghiên
cứu vấn đề “Thực trạng và những định hướng chủ yếu nâng cao hiệu quả
hoạt động lập pháp ở Việt Nam theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1



NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẬP
PHÁP Ở VIỆT NAM THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Hoạt động lập pháp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, “lập pháp” được định ngĩa trong Từ điển Luật học như sau:
“Lập pháp - một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với với quyền hành
pháp và quyenf tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước. Lập pháp được hiểu theo
nghĩa rộng hơn, trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, bao gồm vừa làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật, nhưng xét trong
khuôn khổ, phạm vị của ngành luật hiến pháp, tức hiểu theo nghĩa hẹp, thì quyền
quyền lập pháp chỉ bao gồm “làm luật và sửa đổi luật”, còn làm Hiến pháp và
sửa đổi Hiến pháp thuộc quyền lập pháp” [1, tr.459].
Một nhà nước để thực hiện được những chính sách mình đề ra, thực hiện
duy trì trật tự xã hội theo khn mẫu định sẵn, thì cần có hệ thống luật pháp
thống nhất, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước.
Lập pháp là một trong những chức năng vô cùng quan trọng của nhà
nước, lập pháp được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách, thực hiện nghiên
cứu soạn thảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với chủ trương
hoạt động của nhà nước.
Lập pháp được hiểu là việc các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, thực
hiện nghiên cứu soạn thảo ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, các văn bản quy
phạm pháp luật và sửa đổi văn bản pháp luật.
Việc thực hiện soạn thảo và ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật
phải tuân theo trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ, đảm bảo các đạo luật trong Hiến
pháp có thể thực thi trong thực tế.
Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, là văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất, là khuôn mẫu quy định những vấn đề cơ bản của đất nước như chế độ kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bản chất nhà nước,… Các văn bản luật dưới Hiến
2



pháp chỉ quy định cụ thể trong các lĩnh vực, tuân theo tinh thần của Hiến pháp
không được trái với quy định của Hiến pháp.
Các nhà làm luật sẽ tuân theo tinh thần trên để thực hiện soạn thảo sao cho
phù hợp với cơ chế hoạt động của nhà nước, mục tiêu nhà nước muốn hướng tới,
đảm bảo cho việc thực thi pháp luật.
Lập pháp còn được hiểu theo nghĩa là việc các cơ quan thực hiện nghiên
cứu soạn thảo và ban hành ra văn bản pháp luật, thực hiện sửa đổi luật.
Theo khái niệm này lập pháp được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, không bao
gồm việc soạn thảo ban hành ra Hiếp pháp mà chỉ thực hiện soạn thảo ban hành
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp. Ví dụ điển hình các văn bản pháp luật:
Bộ luật dân sự, bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật tố tụng dân sự,
luật đất đai, luật hơn nhân và gia đình, bộ luật lao động…
1.2. Q trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời. Đó là một nhà nước kiểu mới, nhà nước cơng nông đầu tiên ở Đông
Nam Á. “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền lại cho
nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập,
tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước
nhà…” [7, tr.178].
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiến quốc gia
trên nền tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng về Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá
trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Với Hiến pháp 1946, Đảng ta
chủ trương thực hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” nhằm
đồn kết tồn dân, khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giai cấp, tôn giáo, đảm

bảo các quyền tự do dân chủ. Hiến pháp 1959 đã thể chế hoá quan điểm Đảng ta
về “sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
3


chính vơ sản” [8, tr.127], Đảng ta cho rằng “khi nào cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì chun chính dân chủ
nhân dân sẽ trở thành chun chính vơ sản… Hình thức Nhà nước cộng hồ dân
chủ nhân dân vẫn có thể tồn tại khi nội dung của nó đã chuyển đổi thành chun
chính vơ sản. Nhưng nếu nhiệm vụ và yêu cầu là cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì về thực chất chế độ dân chủ nhân dân sẽ trở thành
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa …” [9, tr.167].
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: “Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là Nhà nước chun chính vơ sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ
tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thơng qua đó
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội…”.
Quan điểm của Đảng về Nhà nước chun chính vơ sản đã được thể chế hoá
trong Hiến pháp 1980 “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước chun chính vơ sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng khoa học kỹ
thuật là then chốt, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đập tan mọi sự chống đối
của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoại của
kẻ thù bên ngoài, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa, tiến tới chủ nghĩa cộng
sản; góp phần củng cố hồ bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân
thế giới” (Điều 2 - Hiến pháp 1980). Phát triển quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về chun chính vơ sản trong thời kỳ quá độ lên chủ chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta xác định “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà nịng cốt là
liên minh cơng nơng, thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên
phong của giai cấp cơng nhân, đó là chun chính vơ sản. Nhà nước ta, vì vậy, là

nhà nước chun chính vơ sản” [9, tr.191].
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới đã
đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây dựng
nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Đảng ta khẳng định
4


“Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, do giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị.
Trong thời kỳ q độ, đó là Nhà nước chun chính vơ sản thực hiện chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa …”. Mặc dù vẫn dùng khái niệm “Nhà nước chun chính
vơ sản”, nhưng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam tại Đại hội VI đã có đổi mới: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chức năng của Nhà nước là thể chế hoá bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa
vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta
phải bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên
quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân…”. Với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra
nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng,
nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn cán bộ
chưa được xác định rõ ràng”. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là cơ sở
để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, cải cách bộ máy
nhà nước sẽ thúc đẩy việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp,
tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của cải cách kinh tế.
Để thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trương “… Để thiết lập cơ chế quản lý
mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan
nhà nước theo phương hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà
nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp.
Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một

hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản
lý - hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo
ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình
hình kinh tế, xã hội…” [9, tr.125].
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục
5


tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, việc đổi mới và kiện tồn
hệ thống chính trị được Đảng ta đặt ra như một tất yếu để thực hiện và phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để đổi mới, kiện tồn hệ thống chính trị, Đảng chủ
trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thực
sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự
lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy
tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý…” [9, tr.145].
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà
nước được xác định tại Đại hội VI, VII tiếp tục được Đảng ta phát triển trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” là “tổ
chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân.
Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ chức nhà
nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tồn các cơ quan luật pháp để thực hiện
có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước. Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên
và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị
tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ

của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân cơng, phân cấp, đồng
thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương. Nhà nước Việt Nam thống
nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân cơng rành mạch ba
quyền đó…”. Quan điểm của Đảng về Nhà nước trong Cương lĩnh 1991 đã nhấn
mạnh đến những vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước trong một chế độ dân chủ - pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ
khả năng định ra luật pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật; thống nhất quyền lực
(thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) với sự phân công rành
mạch ba quyền đó. Tuy chưa đề cập trực tiếp đến phạm trù nhà nước pháp
6


quyền, nhưng sự thể hiện các vấn đề cơ bản có tính pháp quyền trong tổ chức
nhà nước ở tầm cương lĩnh chính trị cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng ta
trong đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh cụ thể nước ta.
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994) là
mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển nhận thức của Đảng ta về Nhà nước
pháp quyền. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà
nước pháp quyền” và nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc,
nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân với nội dung cơ bản là: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hồn thiện nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng
trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết tồn dân, lấy liên minh giai cấp
cơng nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”
[6, tr.412]. Với cách thể hiện trong văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, những quan điểm cơ bản về các nội dung chủ yếu của phạm

trù Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã được xác
lập, đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2002), Đảng ta khẳng
định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật” [2, tr.131]. Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Quyền
7


lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) Đảng ta đã chỉ rõ phương hướng
xây dựng, cơ chế vận hành, đồng thời xác định nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trong đó tiếp tục
khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền” [3, tr.40].
Đại hội XIII (2021) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự
là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức
năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà nước
với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường”. Báo
cáo chính trị đã xã định một trong những phương hướng quan trọng của việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Nghiên cứu xây
dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế, vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý kinh tế của nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết
quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” [5, tr.182].
8


Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Đại hội Đảng VI,
Đảng Cộng sản Việt Nam chưa sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền, tuy
nhiên xét theo nội dung và yêu cầu khách quan của Nhà nước pháp quyền thì đã
được Đảng ta nhận thức và diễn đạt ngày càng rõ nét. Từ Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ khố VII (1994) lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng
thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và từ đó đến nay, tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền tiếp tục được xây dựng và từng bước hồn thiện, phản ánh q trình nhận
thức ngày càng đúng đắn, sâu sắc và hoàn thiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trong quan
điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước kiểu mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là những quan
điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt
đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
II. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM THEO YÊU
CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Thực trạng hoạt động lập pháp ở Việt Nam theo yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật nói
chung, pháp luật về kinh tế - dân sự - lao động nói riêng đã tương đối hoàn
thiện. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, mở cửa và hội nhập sâu rộng vào các quan hệ
kinh tế - quốc tế, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện về chất lượng, đồng
bộ về hình thức để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau.
Từ thực tiễn hoạt động lập pháp những năm qua, có thể khẳng định rằng,
khơng sớm xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các thể chế kinh tế - dân sự lao động đồng bộ, thống nhất, khả thi và minh bạch thì khơng thể có dân chủ,
9


bình đẳng và pháp quyền trong các quan hệ kinh tế. Từ đó, khơng thể phát huy
được mọi nguồn lực, khơng có vốn để đầu tư, khơng thể đẩy mạnh chuyển đổi
số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học - công nghệ sáng tạo,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi gay gắt phải tiếp tục nâng cao năng lực lập pháp và
lập quy để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế - dân sự - lao
động có chất lượng cao của một Nhà nước đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ và hội nhập.
Điều 69, Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định: ”Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền

lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước”. Chức năng lập hiến, lập pháp có vị trí đặc biệt
quan trọng, là chức năng đặc trưng nhất của Quốc hội. Điều này đã được thể
hiện xuyên suốt qua các bản Hiến pháp của nước ta.
Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý quy định rõ ràng, đầy đủ và bảo đảm
cho hoạt động lập pháp của Quốc hội, nâng cao chất lượng công tác lập pháp,
tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước, giữ
vững độc lập, chủ quyền, an ninh của Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong hịa bình,
hữu nghị, hợp tác bình đẳng. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đã thông qua
72 luật, 2 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật đã tạo cơ
sở pháp lý cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước; phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân; thúc đẩy phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tơn trọng quyền tự do kinh
doanh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ
môi trường…
Kết quả trên thể hiện cụ thể là: Quốc hội khóa XIV đã tiến hành sửa đổi,
bổ sung một số đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như: Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Sửa
10


đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức… Việc Quốc hội thông
qua các đạo luật trên nhằm thể chế hóa những tư tưởng và nội dung mới
của Hiến pháp năm 2013; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội
nghị Trung ương 6, khóa XII, về ”một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và
Nghị quyết số 56/2017/QH14, ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc “tiếp tục
cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”, đồng thời khắc phục một số vướng mắc, bất cập trong quá trình xây dựng

và thi hành luật thời gian qua.
Quốc hội khóa XIV chú trọng xây dựng và hồn thiện, tạo mơi trường
pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế, văn hóa xã hội ở trong nước phát
triển, như: sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP), Bộ luật Lao động, Luật
Chứng khoán, Luật Xây dựng… với nhiều nội dung mới, tiến bộ, phù hợp với
thơng lệ quốc tế đã góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế.
Để thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế sâu, rộng, mang lại nhiều lợi ích
kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước, Quốc hội đã phê chuẩn nhiều điều ước quốc
tế, như: Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA); Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP); Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVIPA)… Quốc hội cũng tiến hành sửa đổi, bổ sung một số luật để tiếp tục
hoàn thiện khung khổ pháp lý vững chắc, phục vụ cho việc ký kết và thực hiện
các điều ước quốc tế, phù hợp với lợi ích quốc gia trong điều kiện mới,
như: Luật Điều ước quốc tế; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Cơ quan đại
diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Luật Thỏa thuận
quốc tế…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động lập pháp cũng còn
một số hạn chế: Việc tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương trong cơng tác xây dựng pháp luật chưa nghiêm; tình
11


trạng xin lùi thời gian trình, rút dự án khỏi Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh, bổ sung dự án gần sát kỳ họp cịn nhiều; Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh còn phải điều chỉnh nhiều; một số dự án, dự thảo được đưa vào chương
trình nhưng chính sách chưa rõ, chưa đánh giá được tác động một cách sâu sắc,
có chính sách mới được bổ sung nhưng chưa được đánh giá, nhiều đạo

luật Quốc hội thơng qua có chất lượng chưa cao, tuổi thọ ngắn.
Nguyên nhân dẫn đến việc thay đổi hoặc khơng hồn thành Chương trình
xây dựng Luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ do Quốc hội chưa thực sự
quyết liệt, kiên quyết trong thực hiện chương trình; chưa xử lý nghiêm đối với
các cơ quan, tổ chức được giao soạn thảo, thẩm định và thẩm tra các dự án, dự
thảo luật, pháp lệnh chương trình đã thơng qua. Mặt khác, bản thân các cơ quan
được giao soạn thảo, thẩm định và thẩm tra các dự án, dự thảo luật, pháp lệnh
chưa đề cao trách nhiệm đúng mực, cịn dựa dẫm, ỷ lại nhau. Vì thế, chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh thường thay đổi với lý do không thỏa đáng, chất
lượng chuẩn bị một số dự án luật trước khi đưa trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và Quốc hội xem xét chưa cao.
Thực hiện dân chủ hóa trong hoạt động lập pháp đã được coi trọng, nhưng
việc thực hiện thực tế vẫn còn những biểu hiện hình thức. Hoạt động soạn thảo,
thẩm định, thẩm tra các dự án dự thảo luật chưa thu hút được đông đảo các
chuyên gia, các nhà quản lý, đặc biệt các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp
của dự án luật tham gia. Việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân vào các dự thảo luật
còn biểu hiện hình thức, chưa phù hợp với đa số các tầng lớp Nhân dân. Hoạt
động phản biện xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự
tham gia của các tổ chức xã hội đối với các dự án, dự thảo luật còn hạn chế.
Việc kiểm sốt tính thống nhất của hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật trong hoạt động lập pháp chưa được coi trọng, dẫn đến tình trạng sau khi
thơng qua luật, pháp lệnh vẫn cịn có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo với
các văn bản quy phạm pháp luật khác, làm cho hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật thiếu thống nhất, gây khó khăn cho việc thực hiện luật. Tình trạng này
12


chủ yếu do cơ quan được giao lập đề án và soạn thảo tiến hành tổ chức rà soát,
lập báo cáo rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến dự án, dự thảo
chưa thận trọng, toàn diện; các cơ quan được giao trách nhiệm thẩm định, thẩm

tra bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất của dự thảo luật cịn hạn chế về năng lực,
chun mơn nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn; trong quá trình thảo luận, xem
xét thông qua luật, pháp lệnh, các cơ quan của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội
chưa quan tâm đúng mực đến việc phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo để
sửa đổi, bổ sung kịp thời.
2.2. Những định hướng chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp
ở Việt Nam theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Quốc hội tập trung xây dựng cơ sở pháp
lý để xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước tập trung vào quản lý vĩ mô,
nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xây dựng nền hành
chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện
đại, trong sạch, vững mạnh.
Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực sự
là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, tăng tính dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện
chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao. Hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ
13


chế giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân với kiểm tra, giám sát của

Đảng, với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị
- xã hội và Nhân dân.
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền cơng
dân, Quốc hội hồn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế pháp lý
để hiện thực hóa nội dung mới được bổ sung tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng là
“dân giám sát, dân thụ hưởng” để thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng và
hoàn thiện cơ chế giám sát của Nhân dân. Tạo cơ sở pháp lý để làm cho người
dân trao quyền mà không mất quyền, các cơ quan nhà nước và cá nhân được
trao quyền mà không tiếm quyền của dân; đây là vấn đề quyết định nhất bảo
đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân. Phát huy mạnh mẽ và đặt
yêu cầu lắng nghe Nhân dân, phục vụ Nhân dân là yêu cầu tối cao trong hoạt
động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội nhằm
hoàn thành trọng trách mà Nhân dân giao.
Hoạt động lập pháp hướng đến mục tiêu con người, tức là giải phóng mọi
tiềm năng của dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát triển sức dân lại phải tiết
kiệm sức dân. Quốc hội tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các luật cụ thể hóa quyền
con người, quyền cơng dân trong Hiến pháp 2013.
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát triển bền vững kinh tế - xã
hội - mơi trường, Quốc hội Việt Nam tiếp tục hồn thiện cơ sở pháp lý để đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, cơng nghệ
và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng hệ thống
pháp luật phát huy đổi mới sáng tạo, tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu tối đa
rủi ro, hướng đến việc giải quyết hiệu quả hàng loạt các vấn đề đặt ra trong Cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tư, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với bảo vệ môi trường.
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, Quốc hội tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiều
14



hình thức hội nhập quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục
tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Nội luật hóa đầy đủ và phù hợp những
điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tích cực và có
trách nhiệm trong việc tham gia các hoạt động xây dựng các điều ước quốc tế.
Theo đó, chủ động chuyển từ việc tham gia các luật chơi định sẵn thành chủ thể
thiết kế luật chơi trên trường quốc tế, từng bước đề xuất các điều ước quốc tế từ
thực tiễn Việt Nam.
Trong quy trình lập pháp, Quốc hội tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp,
mở rộng dân chủ trong xây dựng pháp luật để các quy định của luật có tính khả
thi, phù hợp với thực tiễn, có căn cứ khoa học. Bảo đảm công khai, dân chủ
trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong quá trình xây dựng và thẩm tra luật.Nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp luật
để điều chỉnh hoạt động vận động chính sách trong xây dựng pháp luật bảo đảm
khách quan, minh bạch, có kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Đây là biện pháp cần
thiết, hữu hiệu để mở rộng dân chủ trong hoạt động lập pháp của Việt Nam.
Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của Quốc hội, nâng cao vai trò của
Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của Việt Nam là nền tảng cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật góp
phần xây dựng thành cơng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.3. Liên hệ với cương vị bản thân (Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư
Păh Tỉnh Gia Lai)
Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai trong quá trình hoạt động đã
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, ln tích cực tham gia vào hoạt động lập
pháp góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai luôn đi sâu, đi sát các tầng lớp nông
dân, khơi dậy ý thức làm chủ của từng hội viên, nông dân, tập hợp ý kiến, tâm
tư, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân để phản ánh với
các cấp ủy Đảng, Chính quyền, góp phần xây dựng, hồn thiện chủ trương,

chính sách, pháp luật. Q trình hoạt động, Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh
Gia Lai luôn thực hiện đúng theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
15


2015; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ và Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2019; Luật giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015; Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện
khóa VI... tổ chức các hoạt động theo đúng quy định của luật.
Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai quá trình hoạt động luôn thể
hiện rõ là chủ thể đại diện cho ý chí, lợi ích và quyền lợi của giai cấp nơng dân,
là những chủ thể tiếp nhận từ nông dân sự uỷ quyền đó và để thực hiện đúng đắn
trách nhiệm và nghĩa vụ của sự ủy quyền của nông dân, triển khai tốt việc thực
hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện trong giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về dân
chủ ở cơ sở, thực hiện các chủ trương, chính sách, các chương trình, dự án tại
địa phương, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, để góp phần nâng cao vị thế của Hội trong hệ thống chính trị và trong đời
sống xã hội của tỉnh.
Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai đã thực hiện các hoạt động
giám sát và phản biện xã hội có hiệu quả thiết thực, bước đầu đã nâng cao nhận
thức của cán bộ, hội viên và nhân dân về hoạt động giám sát, phản biện xã hội
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Các nội dung giám sát
và phản biện xã hội được lựa chọn có trọng tâm, trọng điểm vào những vấn đề
được hội viên và nhân dân trong huyện Chư Păh quan tâm. Chủ động nắm bắt và
giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh từ cơ sở, hạn chế nông dân tham gia
khiếu kiện đông người, vượt cấp. Hoạt động giám sát phản biện xã hội từng
bước đi vào nền nếp và trở thành nhiệm vụ công tác thường xuyên của Hội
Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Chủ động đăng ký với cấp ủy các nội dung cụ thể; xây dựng kế hoạch và phối

hợp với các cơ quan chức năng tổ chức kiểm tra, giám sát theo yêu cầu đề ra.
Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai đã thực hiện tốt Quyết định số
218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) “về việc Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai
16


đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp Hội nêu cao trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tham gia giám sát hoạt động của chính quyền các
cấp theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các ngành tổ chức lấy ý kiến của
cán bộ, hội viên tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước liên quan đến nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn.
Tóm lại, hoạt động của Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai thời
gian qua đã phát huy dân chủ, hoạt động theo đúng pháp luật, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Qua kết quả hoạt động của Hội Nơng dân huyện Chư Păh
Tỉnh Gia Lai đã góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả của hệ thống pháp luật, từ
đó góp phần xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trên cương vị là Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai, bản
thân tôi tích cực tun truyền, phổ biến thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; Điều lệ Hội và các quy
định hướng dẫn của Hội Nông dân các cấp; đồng thời thực tốt Quyết định số
516-QĐ/QĐ-TTg, ngày 01/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục thực
hiện Quyết định số 673/QĐ-TTg , ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số
chương trình, đề án phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, xã hội nơng thơn cho đến
khi tổng kết Kết luận 61-KL/TW, ngày 03/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng và Nghị quyết TW7 (khóa X) về “Nông nghiệp, nông dân, nông

thôn”, Nghị quyết số 04,05, 06-NQ/HNDTW, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam (Khố VII) về tăng cường cơng tác phát triển,
quản lý và nâng cao chất lượng hội viên chất lượng đội ngũ cán bộ Hội Nông
dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới và các chỉ thị, nghị
quyết của Tỉnh ủy, Hội Nông dân tỉnh và Huyện ủy về phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh; xây dựng Đảng, xây dựng Hệ thống chính trị
trên địa bàn huyện vững mạnh.
17


Trên cương vị là Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh Tỉnh Gia Lai bản
thân tôi luôn làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tun tuyền, vận động
cán bộ, hội viên, nông dân trên địa bàn huyện nhận thức và chấp hành tốt mọi
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ
của Hội; nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trị trách nhiệm của Hội Nơng dân
trong điều kiện hiện nay. Thực hiện Quy chế dân chủ tốt dân chủ ở cơ sở; tích
cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh góp phần
ngăn chặn đẩy lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu
hiện tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội trong nơng dân.
Bên cạnh đó, trên cương vị là Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh
Tỉnh Gia Lai bản thân tơi ln tích cực đi đầu trong đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Hội, nhất là cán bộ chi, tổ Hội cần tổ chức duy trì các buổi
sinh hoạt Hội, gắn phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, các nghị quyết của Hội cấp trên. Xây dựng nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Hội, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách công tác hội từ
huyện đến cơ sở đảm bảo về số lượng, chất lượng đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ… Từ những việc làm cụ thể trên đã trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trên địa bàn huyện.


18


KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương,
đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất
yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Từ các quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nhận thức, quan điểm của Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về các
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được hình thành, phát triển và hồn thiện dần qua các văn kiện, nghị
quyết của Đảng và được thể chế, cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật.
Việt Nam đang triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng
đến năm 2045. Trong nỗ lực chung này, hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt
Nam tập trung xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, hiện đại, khả
thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, góp phần hồn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý: Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội,1975.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961.
8. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2004, tập 37.
9. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.

20



×