Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp Marketing để đẩy mạnh tiêu thụ một số sản phẩm chủ yếu ở công ty May Đức Giang potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.47 MB, 72 trang )




II






TIỂU LUẬN:

Thực trạng và giải pháp Marketing để
đẩy mạnh tiêu thụ một số sản phẩm
chủ yếu ở công ty May Đức Giang





Chương mở đầu
***

Ngày nay, khi đề cập đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm thì đã có rất nhiều loại sách
tham khảo, sách hướng dẫn được xuất bản nhằm cung cấp những kiến thức, nghệ thuật
kinh doanh sao cho có hiệu quả. Nhưng trong kinh doanh thì điều đó vẫn chưa đủ mà
mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng cho riêng công ty mình một đội ngũ cán bộ
nghiên cứu có chiều sâu đủ để có thể đưa ra các chính sách tốt phản ứng trên thị
trường với đối thủ cạnh tranh. Đó chính là tầm mức quan trọng của chiến lược
marketing. Marketing là một trong những hoạt động quan trọng nhất thông suốt quá
trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Đây là quá trình sử dụng các công cụ


nghiên cứu, hỗ trợ giúp doanh nghiệp đạt được kết quả kinh doanh thuận lợi nhất. Nó
có mặt trong mọi giai đoạn của hoạt động sản xuất kinh doanh, là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. Nhờ có hoạt
động marketing, mục tiêu lợi nhuận, vị thế, vai trò của doanh nghiệp được bảo đảm và
sản phẩm của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất.
Đặc biệt, đối với may mặc là ngành công nghiệp rất lớn và mang tính toàn cầu
thì việc hoạch định chiến lược marketing là một trong những yếu tố quan trọng để
thành công trong kinh doanh. Chiến lược marketing giúp các doanh nghiệp này chủ
động hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các dịch vụ sau khi bán một cách
hoàn hảo cho khách hàng của công ty và tạo ra được lợi thế cạnh tranh đối với các
công ty kinh doanh cùng ngành.
Cũng như những quốc gia thuộc thế giới thứ ba khác, kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc là một trong những nguồn thu ngoại tệ lớn của Việt Nam. Hơn 10 năm
qua, ngành may mặc nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ không ngừng, tăng
nhanh, nhiều năm liền đứng hàng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực,
sau dầu thô, tạo thêm việc làm cho hàng trăm ngàn lao động. Uy tín, chất lượng, mẫu
mã của các sản phẩm may mặc Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng đánh giá
cao trên thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước. Năm 2002, kim ngạch
xuất khẩu đạt khoảng 2,4 tỷ USD, tăng khoảng 26% so với năm 2001, trong đó EU là

thị trường nhập khẩu chính lượng hàng may mặc xuất khẩu của ta cùng một số nước
khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Nga
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành may mặc Việt Nam, công ty May
Đức Giang đang từng bước phát triển và khẳng định vị trí của mình trên thị trường
trong nước và quốc tế. Trong tình hình nền kinh tế thị trường hiện nay, làm thế nào để
tồn tại và giữ vững được vị trí của mình luôn là vấn đề bức bách đặt ra cho tất cả các
công ty sản xuất hàng hóa may mặc trong nước và một trong những vấn đề được công
ty rất quan tâm và coi trọng đó là: “Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản
phẩm của công ty tại thị trường nội địa và nước ngoài?”.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:

- Nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể thị trường may mặc thế giới nói chung,
thị trường trong nước nói riêng, đặc biệt là liên hệ với thị trường tiêu thụ sản phẩm của
công ty May Đức Giang. Trên cơ sở đó, cung cấp cho công ty một số dữ liệu tương
đối toàn diện về thị trường may mặc hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam cùng một số
những quy luật đặc thù của thị trường may mặc nhằm giúp cho công ty một số điều
cần thiết khi thâm nhập vào các thị trường này.
- Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động marketing thời
gian qua, nêu bật những thuận lợi, khó khăn, những tồn tại và những bất cập, cản trở
việc tiêu thụ hàng hóa của công ty.
- Đề xuất các biện pháp, đối sách cụ thể nhằm thúc đẩy tiêu thụ một số sản
phẩm chủ yếu của công ty trong thời gian tới.
đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp là:
Thực trạng và giải pháp Marketing để đẩy mạnh tiêu thụ một số sản phẩm
chủ yếu ở công ty May Đức Giang.
Ngoài chương mở đầu và phần kết luận, nội dung của chuyên đề này được trình
bày trong 3 chương:
Chương một : Nghiên cứu hoạt động kinh doanh của công ty May
Đức Giang.
Chương hai : Thực trạng tình hình hoạt động marketing tại công ty
May Đức Giang.
Chương ba : Giải pháp marketing để đẩy mạnh tiêu thụ một số sản

phẩm chủ yếu ở công ty May Đức Giang.





Chương một: NGHIÊN CứU HOạT ĐộNG KINH DOANH CủA CÔNG TY
MAY ĐứC GIANG


I. Nghiên cứu thị trường may Việt Nam và thế giới:
1. Quy mô thị trường:
May mặc là nhu cầu cơ bản và thiết yếu của con người và khi đời sống ngày
càng được nâng cao thì nhu cầu này cũng ngày càng đa dạng, phong phú và có thể nói
là phức tạp hơn. Sản phẩm may mặc từ lâu không những chỉ mang tính chất che chở,
bảo vệ cơ thể con người mà nó còn có một giá trị thẩm mỹ quan trọng là làm đẹp cho
con người, thể hiện được cá tính, sở thích, tâm lý, trình độ của mỗi người. Ngành may
mặc với đòi hỏi đặt ra là phải thoả mãn nhu cầu của toàn xã hội. Chính vì vậy xét về
mặt quy mô, ngành may mặc luôn luôn có một nhu cầu rất lớn trong cả hiện tại cũng
như trong tương lai.
Theo tài liệu thống kê được, dân số Việt Nam hiện nay là hơn 80 triệu người và
do nhu cầu của người dân ngày càng cao nên đây là một thị trường đầy tiềm năng và
có sức mua rất lớn đối với các sản phẩm may mặc. Trên thực tế thì thu nhập bình quân
đầu người ở nước ta đang có tốc độ tăng ổn định điều đó cũng có nghĩa là số tiền đầu
tư cho việc mua sắm tiêu dùng cá nhân sẽ ngày càng cao. Mặt khác, cùng với các
chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như những nỗ lực trong kinh doanh, chiếm lĩnh
thị phần của các doanh nghiệp may mặc nhằm phục vụ, đáp ứng mọi nhu cầu của
người tiêu dùng chúng ta có thể dự đoán rằng thị trường may mặc trong nước sẽ phát
triển mạnh trong thời gian tới.
Thị trường may mặc thế giới với dân số tính đến nay là hơn 6 tỷ người chứa
đựng những nhu cầu cần thiết hết sức phong phú và đa dạng song lại hợp tác chặt chẽ
với nhau thành trung tâm, khu vựu kinh tế khác nhau. Quy luật kinh tế diễn ra trên thị

trường thế giới có ảnh hưởng trực tiếp đến mặt hàng may mặc, hình thành khu vực rõ
rệt với đặc điểm vận động và phát triển, chi phối hoạt động của mọi quốc gia thành
viên. Thị trường may mặc thế giới mang nặng tính chất theo mùa vụ, mang nặng tính
dân tộc và đòi hỏi của thị trường, của khách hàng về chất lượng sản phẩm cao vì nhu
cầu của người tiêu dùng luôn luôn biến đổi theo xu hướng ngày càng hoàn thiện. Xu
hướng chung là chi tiêu cho nhu cầu may mặc ngày một tăng trong tổng chi tiêu cho

tiêu dùng cá nhân. Nguyên nhân do thu nhập đầu người ở tất cả các khu vực trên thế
giới đều tăng, mức sống người dân được nâng cao, đặc biệt là các khu vực thị trường
lớn như thị trường châu Âu, Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa
Kỳ…Qua tìm hiểu thực tế tại công ty cũng như qua sách báo của ngành dệt may thì
tình hình thị trường may mặc thế giới hiện nay diễn biến hết sức phức tạp, một số khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao dẫn đến có sự thay đổi trong cách ăn mặc và
ngày càng có yêu cầu cao về chất liệu, màu sắc, mẫu mốt thời trang, nhiều khu vực thị
trường ngày càng trở nên khó tính, đòi hỏi về các kiểu dáng, chất lượng và hình thành
nên các hàng rào tiêu chuẩn sản phẩm khi thâm thập vào khu vực thị trường. Nhưng
xét về mặt quy mô của thị trường thì đây là một thị trường vô cùng lớn còn rất nhiều
tiềm năng mà tất cả các mọi doanh nghiệp may mặc trên toàn thế giới đều muốn chiếm
lĩnh.
2. Đặc điểm - đoạn thị trường:
2.1 Thị trường trong nước:
Thị trường trong nước tuy rộng lớn và có sức mua cao nhưng đây cũng là thị
trường có môi trường cạnh tranh khá quyết liệt. Các công ty đều là những doanh
nghiệp có bề dầy mấy chục năm, sản phẩm đã có uy tín trên thị trường như công ty
May 10, công ty May Thăng Long, công ty May Việt Tiến…Trong đó nổi bật là công
ty May 10 với mặt hàng truyền thống là áo sơ mi xuất khẩu, quần Âu. Hiện nay các
cửa hàng, đại lý và cửa hàng giới thiệu sản phẩm của các công ty này có mặt trên khắp
cả nước, hơn nữa phần lớn các công ty đều có bề dày gần 60 năm sản xuất kinh doanh,
có uy tín trên thị trường. Bên cạch những thuận lợi đó, các công ty cũng gặp không ít
khó khăn do số lượng sản phẩm sản xuất ra còn ở mức khiêm tốn, sản phẩm chưa đa
dạng, chưa bao phủ được nhu cầu của mọi lứa tuổi, tầng lớp trong xã hội. Do vậy, ở
một vài năm trước sản phẩm may mặc của một số công ty chủ yếu là may gia công

xuất khẩu, hàng hoá cung cấp cho thị trường nội địa rất ít thường là những sản phẩm
xuất khẩu tồn dư với mẫu mã, kích thước, kích cỡ không phù hợp với người tiêu dùng
trong nước nên gây thị hiếu không tốt đối với người tiêu dùng. Nhưng những năm gần
đây, thị trường nội địa đã tiêu thụ khá lớn số lượng hàng hoá do sản phẩm của các

công ty đã được cải tiến mẫu mã, thị hiếu, giá cả phù hợp, kích cỡ đo theo khổ người
tiêu dùng trong nước. Nhìn chung thị hiếu về may mặc của người tiêu dùng trong
nước là khá đa dạng nên rất khó tìm hiểu kỹ để đáp ứng. Khách hàng khi đi mua hàng
thường có tâm lý lựa chọn sản phẩm rất kỹ, quan sát các khách hàng cùng mua để tìm
điểm chung hoặc là tìm đến khả năng tư vấn, khả năng thuyết phục khách hàng của
nhân viên bán hàng. Vì vậy, hiện nay các công ty may mặc trong và ngoài nước đang
đẩy mạnh tốc độ chuyển giao công nghệ nhằm hiện đại hoá dây chuyền sản xuất sản
phẩm, hạ giá thành sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh đối với các công ty trong ngành.
Điều này cho thấy đòi hỏi của thị trường ngày một khắt khe hơn khiến các doanh
nghiệp cần phải chủ động đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng.

Cũng cần phải nhận thấy rằng trong những năm qua, các doanh nghiệp may
mặc Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn do biến động tiền tệ ở khu vực dẫn
đến giá cả ở các thị trường giảm mạnh, thị trường bị thu hẹp dần ảnh hưởng không
nhỏ tới sự ổn định sản xuất. Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu, phụ liệu trong nước
phục vụ cho sản phẩm may mặc cao cấp vẫn chưa đáp ứng được, nguồn nguyên liệu
chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và tư nhân khi đầu tư mua nguyên vật liệu.
Trong khi đó nhiều công ty với trang thiết bị còn lạc hậu, trình độ tay nghề của công
nhân còn yếu. Theo như định giá tay nghề thì tay nghề của công nhân ngành may Việt
Nam hiện nay vào khoảng 3,5/7 so với thế giới. Điều này cho thấy thị trường trong
nước chất lượng sản phẩm còn thấp do vậy nhu cầu về sản phẩm cao cấp còn bỏ ngỏ
khá lớn, các doanh nghiệp lại tuỳ tiện hạ giá dẫn đến thiệt hại cho toàn ngành may.
Mặt khác, hàng ngoại nhập, hàng Trung Quốc, hàng nhập lậu tương đối nhiều, các loại
quần áo dành cho trẻ em còn rất ít…Vì vậy, theo đánh giá tiềm năng phát triển và hội
nhập của may mặc nước nhà không phải là nhỏ mà trong tương lai các công ty may
mặc Việt Nam cần chủ động đưa ra biện pháp mạnh mẽ, hữu hiệu khắc phục những
khó khăn để khai thác và mở rộng thị trường này.
2.2 Thị trường thế giới:
Trong những năm qua, ngành may mặc nước ta đã có những bước phát triển

mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng nhanh, nhiều năm liền đứng hàng
thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực (chỉ đứng sau dầu thô), tạo thêm
việc làm cho hàng trăm ngàn người lao động, chất lượng các sản phẩm may mặc Việt
Nam được đánh giá tốt trên thị trường thế giới. Phát huy lợi thế đó, năm 2002 kim
ngạch xuất khẩu của nước ta đạt khoảng 2,4 tỷ USD, tăng khoảng 26% so với năm
2001. Và theo nguồn số liệu của trung tâm thông tin thương mại(VTIC)–Bộ Thương
mại, tính đến hết Quý I/2003 tình hình xuất khẩu hàng may mặc của ta đã đạt được
khoảng 850156921 USD, tăng 90% so với cùng kỳ năm 2002, trong đó EU là thị
trường nhập khẩu chính chiếm khoảng 40% lượng hàng may mặc xuất khẩu của ta
cùng một số nước khác như Nga, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, Cộng Hòa Séc…
2.2.1 Liên minh châu Âu:

Liên minh châu Âu (EU) là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò rất lớn
trong nền kinh tế thế giới. Kinh tế EU không chỉ lớn về quy mô, mỗi năm GDP đạt
gần 9000 tỉ USD chiếm 20% GDP toàn cầu, cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp hợp lý, tăng trưởng ổn định, GDP dao động ở mức trên dưới 2,5% năm, lạm
phát trung bình ở mức 1,6 - 1,8% năm mà còn là nơi có đồng tiền mạnh (đồng EURO)
có khả năng chuyển đổi toàn thế giới và có sức cạnh tranh tương đương với đồng
USD. EU với số dân 386 triệu người chiếm 6% dân số thế giới nhưng EU chiếm tới
1/5 giá trị thương mại toàn cầu. Hiện nay, EU là khối thương mại mở lớn nhất thế giới
và là thành viên chủ chốt của tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thị trường EU là thị trường có tiềm năng, tính cạnh tranh cao, mức độ tiêu
dùng rất lớn, giá cả hợp lý nhưng tính chọn lọc cũng rất khắt khe, đặc biệt là đối với
hàng may mặc. Tuy nhiên, đây là một thị trường có hạn ngạch nên khả năng xuất khẩu
của các công ty nước ngoài vào thị trường này bị hạn chế nhưng nhìn chung nhu cầu
tiêu dùng vẫn là tìm kiếm những thị trường có mặt hàng rẻ, đẹp và đảm bảo chất
lượng. EU là một thị trường quan trọng của ngành may mặc Việt Nam, hàng năm EU
nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại nhưng việc xuất khẩu hàng hoá may mặc
vào thị trường châu Âu không phải là dễ. Lý do, đây là một thị trường rộng lớn với
nhiều điểm khác biệt về thị hiếu tiêu dùng, về tập quán kinh doanh và phương thức tổ

chức phân phối đối với mỗi nước thành viên nên để thâm nhập vào thị trường này đòi
hỏi phải có những kênh phân phối riêng biệt, thích ứng với cơ cấu của hệ thống phân
phối của mỗi nước thành viên cũng như phù hợp với đặc điểm của sản phẩm xuất
khẩu.
Kể từ khi hiệp định buôn bán hàng Dệt May giữa Việt Nam và EU được ký kết
ngày 15/12/1992, ngành may mặc xuất khẩu của Việt Nam bước vào giai đoạn phát
triển mới, tăng trưởng nhanh chóng. Hàng năm, EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần
áo các loại và trong đó chỉ khoảng 10 - 15% là tiêu dùng còn lại 85 - 90% là sử dụng
theo mốt. Hiện nay, EU đang tăng cường nhập khẩu quần áo ngoài EU do giá cả hàng
may mặc ở các thị trường này thật sự cạnh tranh. Nhu cầu thì rất lớn đòi hỏi các doanh
nghiệp chủ động nắm bắt cơ hội xuất khẩu vào thị trường này.
2.2.2 Thị trường Đông Âu:

Đây là thị trường có tới 370 triệu dân, gồm các nước thuộc Liên Xô cũ và một
số nước khác. Thị trường này sau khi Liên Xô tan dã thì kim ngạch xuất khẩu của các
doanh nghiệp may mặc Việt Nam vào thị trường này giảm hẳn hoặc là xuất khẩu cầm
chừng. Nhưng trong những năm gần đây kinh tế phát triển khá ổn định nên nhu cầu về
các sản phẩm may mặc cũng tăng. Thị trường này có đặc điểm là thị hiếu của người
tiêu dùng không đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm cũng như giá cả và có thể coi là
một thị trường dễ tính. Mặt khác, đây là bạn hàng cũ của các công ty sản xuất và xuất
khẩu may mặc ở Việt Nam. Điều này giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của ta thuận lợi
hơn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như quan hệ làm ăn, mở
văn phòng đại diện, chi nhánh của các công ty để ký hợp đồng xuất khẩu. Bên cạnh
đó, môi trường kinh doanh khá ổn định, các chính sách hỗ trợ phát triển hợp lý là một
trong những lý do thúc đẩy quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài với các quốc gia khác trong
đó có Việt Nam.
2.2.3 Thị trường Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới với tổng mức nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ năm 2002 đạt 1590480 tỷ USD trong đó nhập khẩu hàng hóa đạt
1286123 tỷ USD và dịch vụ là 304357 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong

năm 2001 và 2002 lần lượt là 13,7% và 12,4%. Một điểm nổi bật là Hoa Kỳ là nước
nhập siêu hàng hóa và mức nhập siêu lớn nhất của Hoa Kỳ là nhập khẩu từ Mêhicô,
Nhật Bản và Trung quốc.
Theo thống kê của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hoa Kỳ luôn đứng
đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt và hàng may mặc. Nếu gộp các loại hàng dệt và
hàng may mặc thì trong năm 2002 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 65 tỷ USD,
chiếm 6,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Còn đối với các nước xuất khẩu
thì thị trường Hoa Kỳ là khá sáng sủa, kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của nước
này liên tục tăng trong những năm qua. Nói chung, thị trường Hoa Kỳ chiếm phần
nhập khẩu cao trên thế giới, chiếm khoảng 25% tổng lượng hàng nhập khẩu may mặc
trên toàn thế giới.
Là thị trường có nhu cầu về hàng may mặc đa dạng, khổng lồ và lớn nhất trên
thế giới. Mặt hàng nhập khẩu vào thị trường này phong phú và đa dạng từ hàng phổ
thông đến hàng cao cấp, chủ yếu nhập từ châu Âu và Trung Quốc. Là một thị trường

hấp dẫn đối với những nước xuất khẩu hàng may mặc với số dân khoảng 280 triệu
người, 75% dân số sống ở thành thị, thu nhập quốc dân trên đầu người cao, do vậy sức
mua rất lớn. Người Mỹ rất chuộng mua sắm và tiêu dùng, và trở thành một nét không
thể thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Họ có tâm lý là càng mua sắm và tiêu
xài nhiều thì càng kích thích sản xuất tăng trưởng, do đó nền kinh tế phát triển. Ngày
nay, tâm lý này có tác động sâu rộng đến các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới.
Đặc điểm thị trường này là dễ tính với hàng may mặc, hàng hoá dù chất lượng
cao hay vừa đều có thể bán trên thị trường này vì các tầng lớp dân cư nước này đều
tiêu thụ nhiều hàng hoá và giá ở thị trường này dễ dàng hơn so với các khách hàng EU
và Nhật Bản. Riêng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi xuất hàng
vào thị trường Hoa Kỳ cần phải lấy giá cả làm yếu tố quan trọng, mẫu mã có thể
không quá cầu kỳ nhưng rất cần sự đa dạng đặc thù và hợp thị hiếu. Những đặc điểm
riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường tiêu dùng khổng lồ và đa
dạng nhất thế giới. Đối với những đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc nói chung
người Mỹ thích sự giản tiện nhưng hiện đại hợp mốt. Hơn nữa, hàng hoá sản phẩm

may mặc là đồ hiệu thì càng được ưa thích và được mua nhiều. Mặt khác, khi mua các
sản phẩm may mặc nhiều người coi trọng yếu tố khác biệt, độc đáo, mọi người có thể
mặc đồ gì họ thích. ở những thành phố lớn, nam giới thường mặc sơ mi đi kèm
complê, nữ giới mặc váy hoặc juyp khi đi làm rất phổ biến. Về mùa đông, các loại áo
măng tô, áo jacket được tiêu thụ tương đối lớn do ở Mỹ khá lạnh mà các loại áo này
vừa có tính thời trang mà lại rất ấm giữ nhiệt tốt. Các phân tích cụ thể cho thấy thị
hiếu của người dân Hoa Kỳ rất đa dạng do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại.
ở Hoa Kỳ, không có các lề ước tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở
các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá, tôn giáo của mình
và dần dần theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo sự khác
biệt trong thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng Hoa Kỳ so với người tiêu dùng ở
các nước châu Âu. Cũng tôn trọng chất lượng nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính
làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của người Hoa Kỳ. Điều này giải thích tại sao hàng hoá
tiêu dùng từ một số nước đang phát triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng
ở thị trường Hoa Kỳ vì giá bán thực sự cạnh tranh trong khi điều này khó xảy ra tại

châu Âu. Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt
trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Hoa Kỳ.
Ngày 13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt nam - Hoa Kỳ được ký kết.
Ngày8/6/2001, Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush đã chính thức trình Quốc hội Hoa Kỳ
xem xét và phê chuẩn Hiệp định. Ngày10/12/2001 tại New York (Mỹ), đại diện hai
Chính phủ đã trao đổi thư phê chuẩn Hiệp định và Hiệp định Thương mại Việt nam –
Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực ; mở ra một thị trường mới với quy mô cực kỳ lớn, một
cơ hội vàng cho Việt nam xuất khẩu hàng hóa của mình vào thị trường Hoa Kỳ. Hiệp
định Thương mại Việt nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, hàng hóa của Việt nam khi xuất
khẩu sang thị trường Hoa Kỳ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), trung bình 3%
(mức thuế phi tối huệ quốc trung bình đối với hàng hoá Việt Nam là 40%). Doanh
nghiệp Việt nam có nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và ngược lại.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ một số mặt hàng áo jacket, dệt thoi – găng tay,
áo sơ mi nam nữ, hàng dệt kim, áo len, áo măng tô, quần áo các loại với chất lượng

vừa phải và cao cấp…Thực tế thị trường Mỹ có nhu cầu về hàng may mặc lớn nhưng
Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều sang thị trường này do sự khác biệt về tiêu
chuẩn nguyên vật liệu và quy trình ráp sản phẩm.
Mặc dù các doanh nghiệp Việt nam đã có sự chuẩn bị khi Hiệp định Thương
mại có hiệu lực nhưng gần giữa tháng 12/2001 Hiệp định mới chính thức có hiệu lực
nên xuất khẩu nhóm hàng may mặc vẫn chưa tăng nhanh so với năm 2000. Là một
trong những nhóm hàng chiến lược tăng mạnh với mức 37,79 triệu USD năm 1999 lên
49,9 triệu USD năm 2000 và 59,3 triệu USD năm 2001. Do nguồn hàng dồi dào, đơn
hàng lớn, năng suất đạt cao nên ngay trong Quý I/2002 kim ngạch xuất khẩu hàng may
mặc đã đạt 82 triệu USD tức là vượt 138% so với cả năm 2001. Đây là nỗ lực rất lớn
của ngành may mặc Việt Nam. Rõ ràng thị trường Hoa Kỳ chứa đựng nhiều tiềm năng
nhưng cũng tiềm ẩn không ít thách thức, các quy định của pháp luật cũng như quy luật
thị trường diễn biến phức tạp đòi hỏi phải thực sự tỉnh táo.
2.2.4 Thị trường Nhật Bản :
Đây là thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn trong khu vực Đông á và thứ 3
trên thế giới, lại không hạn chế bằng hạn nghạch, dân số đông và mức thu nhập bình
quân là 27000 USD/người/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ. Người dân Nhật

Bản thích dùng các mặt hàng truyền thống của họ như áo Kimono nhưng bên cạnh đó
những mặt hàng theo phong cách hiện đại cũng rất được ưa chuộng như các sản phẩm
áo sơ mi, áo Jăcket và quần áo các loại. Họ rất chú trọng đến cách ăn mặc và đòi hỏi
hàng hoá phải có chất lượng cao. Hàng năm Nhật Bản phải nhập từ 8 - 10 tỷ USD
hàng hoá may mặc. Là một thị trường được coi là khó tính và rất khó khăn khi thâm
nhập, một thị trường có rào cản thâm nhập và rút lui rất lớn nhưng có sức tiêu thụ lớn
đối với các sản phẩm cao cấp và truyền thống. ở Nhật Bản hàng may mặc của Việt
Nam có sức cạnh tranh khá vì các sản phẩm may mặc của ta xếp ở vị trí thứ 5 trong số
các nước xuất khẩu lớn vào thị trường này chỉ đứng sau 4 nước là Trung Quốc, EU,
Hàn Quốc và Hoa Kỳ nhưng các thị trường khác thì không được như vậy. Nguyên
nhân là do các mặt hàng may mặc Việt Nam có thể xuất khẩu sang Nhật Bản chất
lượng thường không ổn định, hoặc chưa có tiêu chuẩn thống nhất như các nhà xuất

khẩu khác. Nhật Bản là thị trường giàu tiềm năng, tăng tỉ trọng của Nhật Bản trong
kim ngạch xuất khẩu may mặc sẽ giúp Việt Nam tránh được nguy cơ phụ thuộc
“cứng” vào một khu vực thị trường nào đó. Đây là thị trường các nhà xuất khẩu may
mặc Việt Nam có thể xâm nhập.
3. Tình hình cạnh tranh:
Hiện nay, thị trường ngành công nghiệp may mặc trên toàn thế giới đang mang
tính cạnh tranh gay gắt, các thị trường rất nhạy cảm với vấn đề giá cả, chất lượng và
mẫu mã sản phẩm.
ở phạm vi trong nước, cả nước có 822 doanh nghiệp may mặc có mặt trên tất
cả 61 tỉnh thành. Trong đó, xét về khu vực thì có 268 doanh nghiệp ở khu vực I (miền
Bắc), 64 doanh nghiệp ở khu vực II (miền Trung) và 490 doanh nghiệp ở khu vực III
(miền Nam). Với số lượng hơn 800 doanh nghiệp may mặc, như vậy thị trường trong
nước đã hình thành một lực lượng đông đảo những người sản xuất, cung ứng sản
phẩm tới mọi người tiêu dùng. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh quyết liệt
giữa các công ty may này với các công ty may khác, các công ty nhà nước cũng như tư
nhân cũng cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm kiểm soát và chiếm lĩnh một số thị
trường xuất khẩu làm cho thị trường may mặc Việt Nam trở nên sôi động. Nhưng theo
đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, sản phẩm may mặc của các công ty trong
nước còn khá đơn điệu, khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay

đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt là với trang phục cao cấp nên sức cạnh tranh của
hàng nội là hơi thấp và bấp bênh. Bên cạnh đó, thị trường trong nước còn có các công
ty liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài, các hãng may mặc đến từ nước ngoài
đã tạo ra sự cạnh tranh cao nhằm chiếm lĩnh và lôi kéo khách hàng.
Trên thương trường quốc tế thì các công ty may mặc phải đối chọi với nhiều
doanh nghiệp của các quốc gia khác nhau đang đầu tư mạnh vào sản xuất kinh doanh
như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia, Đức, Bỉ,
Mỹ…và một số nước ở các khu vực khác. Những nước này có nhiều kinh nghiệm làm
ăn trên thị trường, họ có trình độ phát triển sản xuất cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên
thị trường sản phẩm. Không những thế bản thân năng lực sản xuất cũng rất lớn, ngành

may mặc được trú trọng phát triển từ rất sớm, nhiều nước lại có chính sách khuyến
khích xuất khẩu được vay tiền đầu tư làm hàng xuất khẩu với lãi xuất ưu đãi hoặc
miễn thuế lợi tức…Đặc biệt là mặt hàng của Trung Quốc có ưu thế rất lớn về chủng
loại sản phẩm mẫu mốt đa dạng, phong phú, màu sắc phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng. Hơn nữa, giá của hàng may mặc Trung Quốc lại rất rẻ so với các nước khác.
Ngoài ra, công nghệ tiên tiến đang là lợi thế để cạnh tranh và được các nhà sản xuất
khai thác triệt để. Vì vậy, có thể nhận xét rằng thị trường may mặc trong nước và thế
giới sẽ diễn biến ngày một khó khăn, khắc nghiệt, các công ty may mặc cần tính toán
kỹ từng bước đi của mình cho phù hợp với năng lực hiện có.
4. Các yếu tố chi phối thị trường:
4.1 Sản phẩm sản xuất:
Hiện nay chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp. Các
công ty muốn tồn tại và phát triển ngoài việc phát huy tối đa các khả năng sản xuất thì
vấn đề chất lượng sản phẩm phải được coi trọng thì mới tạo được uy thế trong tiêu thụ.
Khách hàng ngày càng khó tính và sự đòi hỏi của khách hàng cũng ngày càng cao.
Nếu công ty không đổi mới về công nghệ kỹ thuật sản xuất, đưa ra thị trường những
sản phẩm kém chất lượng thì công ty sẽ nhanh chóng bị tẩy chay, nhất là khi sản phẩm
của đối thủ cạnh tranh có chất lượng cao hơn. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh
tranh hữu hiệu nhất giữa các nhà sản xuất. Công ty cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về
chất lượng sản phẩm cho khách hàng có như vậy hoạt động tiêu thụ mới diễn ra hoàn
chỉnh, thông suốt.

Bên cạnh việc đảm bảo chất lượng thì việc thực hiện kế hoạch sản xuất đúng
theo kế hoạch về mặt số lượng cũng ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm. Nếu không
công ty sẽ bị đình đốn trong tiêu thụ vì không thể lấy quần âu bán cho khách mua áo
sơ mi và càng không thể chỉ bán một trong khi khách hàng cần mua ba, bốn chiếc.
Giá bán sản phẩm cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá tiêu
thụ, do đó ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mức độ tăng, giảm của khối
lượng sản phẩm tiêu thụ khi giá bán sản phẩm thay đổi còn phụ thuộc vào mức độ đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm, giá trị sử dụng của sản phẩm. Vì vậy công ty cần

quyết định khối lượng sản phẩm tiêu thụ và giá cả như thế nào cho hợp lý nhằm mang
lại hiệu qủa kinh tế cao nhất. Tuy nhiên mặt hàng may mặc ít chịu ảnh hưởng của việc
tăng, giảm đột xuất của giá cả do đó đây chỉ là một yếu tố ảnh hưởng phụ.
Tóm lại, các đặc tính của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất chi phối đến hoạt
động mua sắm của người tiêu dùng. Đặc biệt đối với sản phẩm may mặc thì mang
nặng đặc tính theo mùa vụ vì với mỗi mùa khác nhau trong năm nhu cầu may mặc
cũng khác nhau. Ngoài ra, sản phẩm càng có chất lượng cao và đa dạng thì càng được
người tiêu dùng ưa chuộng vì nhu cầu luôn có xu hướng thay đổi theo thời gian. Vì
vậy công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng trực tiếp chất lượng sản phẩm từ đó ảnh
hưởng tới nhận thức của khách hàng về sản phẩm.
4.2 Người tiêu dùng:
Ngày nay thu nhập đầu người, thu nhập của người tiêu dùng càng ngày càng ra
tăng nên việc mua sắm, tiêu dùng cá nhân cũng nhiều hơn. Với các khu vực khác nhau
thì thu nhập của người dân cũng khác nhau do vậy ảnh hưởng đến mức độ tiêu dùng
hàng may mặc cũng khác nhau, từ đó hình thành lên các đoạn thị trường với các đặc
điểm riêng về thời trang, mốt Như những người sống ở thành phố hay những khu đô
thị lớn thu nhập cao thì đồ dùng may mặc là đồ hiệu thì càng được ưa thích và được
mua nhiều, nam thường mua áo sơ mi, complê cao cấp, nữ mua váy hoặc juyp để họ đi
làm. Còn ở những vùng thành thị khác thu nhập hạn chế thì tiêu dùng cũng ít hơn, họ
mua quần áo chất lượng vừa phải, áo thun, áo polo-shirt, quần âu, quần áo bảo hộ lao
động và quần vải thô rất nhiều. Nói chung tùy thu nhập mà thói quen tiêu dùng khác
nhau, ảnh hưởng tới nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Nhưng cũng không phải

người tiêu dùng có nhiều tiền là họ mua nhiều sản phẩm và mua sản phẩm ở những
cửa hàng sang trọng.
Nhận thức và sự hiểu biết của người tiêu dùng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới
thị trường may mặc. Rõ ràng, đối với những người tiêu dùng có kinh nghiệm trong
việc mua sắm là những người mua được coi là khó tính và có tính chọn lựa sản phẩm
cao thì sản phẩm may mặc đòi hỏi phải có tính ưu việt, thuyết phục họ mua hàng
không chỉ trong những lần đầu tiên mà cả trong nhưng lần mua lặp lại.

Ngoài ra, văn hoá tiêu dùng cũng là một điều đáng bàn đến. Thực tế như ở Hoa
Kỳ, không có các lề ước tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở các nước
khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá, tôn giáo của mình và dần
dần theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo sự khác biệt trong
thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng Hoa Kỳ so với người tiêu dùng các nước châu
Âu. Cùng một mặt hàng may mặc nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một
nửa thời gian sử dụng của người tiêu dùng các nước phát triển khác. Còn về màu sắc
thì có sự ưa thích khác nhau, người Trung Quốc chuộng màu ấm cúng như màu đỏ,
nâu…trong khi người châu Âu thích các gam màu mát như xanh dương, trắng, nâu
nhạt…
Mốt và sự biến động của mốt cũng là một cách thể hiện vai trò to lớn của người
tiêu dùng trong việc hình thành thị trường may mặc. Mặt hàng thời trang chịu ảnh
hưởng lớn của mốt trong quá trình tiêu thụ. Khi các công ty sản xuất những sản phẩm
hợp mốt thì công tác tiêu thụ diễn ra dễ dàng, thuận lợi và khách hàng dễ dàng chấp
nhận sản phẩm của đó hơn. Bên cạnh đó sự biến động của mốt cũng làm cho hoạt
động tiêu thụ sản phẩm của các công ty trở nên phức tạp. Chúng ta thấy rõ điều này
khi trên thị trường xuất hiện một loại sản phẩm mới hay người tiêu dùng có xu hướng
chuyển sang dùng sản phẩm đó thì ngay lập tức nhu cầu về các sản phẩm tương tự sẽ
giảm mạnh. Nếu hàng loạt áo da với mẫu mốt phù hợp, giá cả phải chăng với khách
hàng thì ngay lập tức nhu cầu về áo jăcket, áo bludông sẽ giảm xuống. Như vậy, với
thị trường may mặc thì vai trò của người tiêu dùng là cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp tới sự biến động và ổn định của thị trường. Chính vì vậy các công ty cần chú
trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu hành vi người tiêu dùng qua đó nắm, hiểu rõ nhu

cầu và thị hiếu của họ để đưa ra chính sách thích hợp nhất đem lại lợi thế cho công ty
mình.
4.3 Các chính sách marketing:
Là những nỗ lực của công ty nhằm đáp ứng, cung cấp, tạo ảnh hưởng đến tâm
lý, hành vi và thuyết phục khách hàng mua sản phẩm của công ty. Đối với nhà cung
cấp sản phẩm, việc tạo dựng một hệ thống kênh phân phối rộng khắp, chu đáo đến tất

cả các khách hàng là một việc được coi là xây dựng chiến lược marketing. Ví dụ như
việc xây dựng một hệ thống các kênh phân phối marketing đến tất cả các khách hàng
mục tiêu giúp cho khách hàng có thể mua sản phẩm một cách thuận lợi nhất, tạo cho
khách hàng một ấn tượng mạnh. Thực tế, với nỗ lực marketing của mình, các doanh
nghiệp sẽ làm cho người tiêu dùng qua thời gian có một niềm tin gần như tuyệt đối
vào hệ thống các cửa hàng bán lẻ cũng như bán buôn, nơi họ có sự bảo đảm về chất
lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này cũng làm cho họ có
ấn tượng rất mạnh trong lần tiếp xúc đầu tiên đối với các mặt hàng mới. Nếu ấn tượng
đó là xấu hàng hóa đó sẽ hầu như không có cơ hội quay lại. Được sự đảm bảo của các
nhà phân phối có tiếng, chắc chắn hàng hoá sẽ được chấp nhận. Ngoài ra, thái độ phục
vụ của các nhân viên bán hàng, khả năng đáp ứng nhanh các yêu cầu đặc biệt của
khách hàng về tính năng, số lượng…các hoạt động sau bán hàng sẽ có tác động mạnh
tới khả năng ra quyết định mua của khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến thị trường tiêu
thụ sản phẩm của chính doanh nghiệp.
4.4 Môi trường kinh doanh:
Các chính sách của nhà nước sở tại đối với ngành may mặc cũng có ảnh hưởng
nhất định tới thị trường và đặc biệt là người tiêu dùng. Như việc thuế suất đánh vào
hàng may mặc nhập khẩu còn quá cao dẫn đến việc giá bán cao ảnh hưởng đến lợi ích
của khách hàng và nhà xuất khẩu. Một thực tế được chứng minh là sau khi Trung
Quốc gia nhập tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO) tất cả các nước trong WTO sẽ
bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng may mặc nhập khẩu từ Trung Quốc trong khi vẫn giữ
nguyên hạn ngạch đối với Việt Nam, thuế suất của họ đánh vào hàng may mặc của
Trung Quốc cũng sẽ thấp hơn đối với hàng may mặc của Việt Nam. Vì Việt nam và
Trung Quốc có chung một số thị trường xuất khẩu như Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Hoa Kỳ…Tình hình này đe doạ khá nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của hàng may

mặc Việt Nam tại thị trường các nước thứ ba, do vậy trong tương lai cần có biện pháp
phù hợp để giữ vững và mở rộng thị trường đầy tiềm năng này.
Các thị trường khác cũng đang đứng trước những khó khăn khác nhau vì hiện
nay thị trường đang có biến động, chiến tranh, cạnh tranh tiêu cực không lành mạnh

nên xu hướng tiêu dùng cá nhân sẽ nhường chỗ cho tiết kiệm hay đầu tư vào bất động
sản, vàng, mua đồng tiền mạnh và ổn định. Giá các loại nguyên phụ liệu để sản xuất
hàng hoá may mặc sẽ gia tăng do khó khăn trong khâu thu mua dẫn đến giá thành
phẩm lên theo. Đây là dấu hiệu không tốt đối với các nhà xuất khẩu điều đó đồng
nghĩa với cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn. Vì theo xu hướng toàn cầu hoá, không ai có thể
kinh doanh được nếu không quan tâm tới những gì xảy ra ở những nơi khác trên thế
giới. Có thể nói môi trường kinh doanh là những điều kiện cần cho các doanh nghiệp
trong việc đưa ra quyết định vào làm ăn với thị trường đó. Năm 2001, Việt nam được
nhiều tổ chức, các tờ báo lớn trên Thế giới bình chọn là “Quốc gia an toàn nhất tại
châu á năm 2001”, đó là điều kiện thuận lợi để thị trường may mặc trong nước phát
triển.
Ngoài ra các nhân tố nhân tố khách quan như các công ty, những người cung
ứng, những người trung gian marketing, khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và công
chúng đều hoạt động trong một môi trường vĩ mô rộng lớn. Đây là các lực lượng và xu
hướng “không thể khống chế được” mà công ty phải theo dõi và đối phó. Trong một
bức tranh toàn cầu hoá và khu vực hóa đang là xu thế và biến đổi nhanh chóng thì
công ty phải theo dõi đầy đủ các lực lượng chủ yếu , cụ thể là các lực lượng nhân
khẩu, kinh tế, tự nhiên, công nghệ, chính trị và văn hoá vì các lực lượng này cũng ảnh
hưởng không phải là nhỏ tới thị trường may mặc.
5. Dự báo thị trường:
May mặc là một ngành công nghiệp mà cấc nước phát triển có xu hướng
chuyển đầu tư ra nước nghèo, các nước kinh tế chậm phát triển hoặc đang phát triển,
nơi có nguồn lao động nhiều và rẻ. So với nhiều ngành kinh tế khác, may mặc là
ngành có nguồn vốn đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, thu hút được nhiều lao động.
Trong những năm tới, khi mà những đòi hỏi về chất lượng và khả năng đáp ứng đầy
đủ nhu cầu ngày càng cao thì việc cạnh tranh khách hàng sẽ trở nên hết sức quyết liệt
nhất là đối với Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam á - khối ASEAN.

ở trên thế giới, tầng lớp thanh thiếu niên ngày nay đang trở thành lực lượng tiêu
dùng quan trọng. Lứa tuổi thanh thiếu niên ngày nay có thu nhập cao hơn, chi tiêu

nhiều hơn so với trước đây, và tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi
này rất chú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”. Đồng thời, họ
cũng rất nhanh chóng thích ứng với kiểu bán hàng mới trên mạng, tạo ra cơ hội cho
các công ty bán hàng qua mạng Internet. Đây là một phong cách mua hàng đã có rất
nhiều ở nước ngoài nhưng ở thị trường trong nước thì rất hạn chế nên hoạt động tiêu
thụ có bị ảnh hưởng phần nào đó. Mặc dù vậy, đối với các sản phẩm áo sơ mi và áo
jăcket thì tầng lớp thanh thiếu niên có thể nói có quan tâm đến nhưng không nhiều
lắm. Họ quan tâm tới các loại áo khoác, áo thun, áo phông lạ mắt và hợp thời trang.
Do vậy đối với lứa tuổi này điều cần làm là kích thích họ nhận biết được thương hiệu,
nhãn hiệu sản phẩm của công ty qua đó khi đã trưởng thành họ sẽ nhớ tới nhãn hiệu
của công ty nếu họ có nhu cầu về các sản phẩm đó. Vì trên thực tế, con người thay đổi
nhu cầu đối với các sản phẩm hàng hoá mà họ tiêu dùng qua các giai đoạn khác nhau.
Điều này khiến công ty nên quan tâm tới người tiêu dùng ở những thời điểm khác
nhau trong cuộc sống của họ hay nói cách khác 1 sản phẩm hàng hoá là không cần
thiết đối với người tiêu dùng tại thời điểm này nhưng không có nghĩa là họ sẽ không
quan tâm tới sản phẩm hàng hoá đó tại thời điểm khác trong cuộc sống của họ.
Lứa tuổi từ 40 trở lên chiếm 34% tổng dân số, và dự đoán sẽ tăng lên 38% vào
năm 2005. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ chi tiêu lớn hơn
cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái, và các khoản tiết kiệm khi về hưu. Sự
cắt giảm tỷ lệ chi tiêu cho mua sắm quần áo buộc họ phải tìm kiếm những sản phẩm
một mặt vẫn đáp ứng được những giá trị mà họ mong muốn, nhưng quan trọng hơn nó
phải phủ hợp với khoản tiền đã dự định chi tiêu. Mặc dù vậy, họ vẫn là nhóm người
chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo.
Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 60 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho
các nhà sản xuất hàng may mặc. Nhóm người tiêu dùng này ít quan tâm đến thời trang
và chú ý nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và hoạt động
của họ.
Tóm lại, tuổi tác có ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu của người tiêu dùng vì trên
thực tế, con người thay đổi nhu cầu đối với các sản phẩm hàng hoá mà họ tiêu dùng


qua các giai đoạn khác nhau. Điều này khiến công ty nên quan tâm tới người tiêu dùng
ở những thời điểm khác nhau trong cuộc sống của họ hay nói cách khác 1 sản phẩm
hàng hoá là không cần thiết đối với người tiêu dùng tại thời điểm này nhưng không có
nghĩa là họ sẽ không quan tâm tới sản phẩm đó tại thời điểm khác trong cuộc sống của
họ.
Ngày nay, giá cả và chất lượng trở thành một yếu tố quyết định khi mua quần
áo, và việc này đã dẫn đến một sức ép về giá đối với ngành may mặc. Yếu tố này đã
làm tăng nhu cầu nhập khẩu từ các nước có chi phí nhân công thấp và làm dịch chuyển
sản xuất của các công ty Tư Bản ra nước ngoài, và có thể nói đây là một cơ hội tốt đối
với các công ty may mặc Việt Nam vì qua thực tế tìm hiểu giá gia công may của Việt
Nam từ 0,2 đến 0,3 USD/giờ thấp hơn từ 2 đến 18 lần so với các nước ASEAN và từ
100 đến 150 lần so với các nước như Nhật, Đức, Mỹ…Nhưng cũng cần phải thấy rằng
lợi thế này của ta không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh vì khi trình độ kỹ
thuật được nâng cao lợi thế về lao động sẽ không còn được duy trì mãi. Ngoài ra, sự
phân hóa nhu cầu thành những phân đoạn thị trường đặc trưng cũng là tín hiệu cho
phép các nhà sản xuất có thể tập trung phát huy ưu thế của mình trong từng phân đoạn
thị trường mục tiêu.
Trong những năm gần đây, thị trường xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam
không ngừng được mở rộng. Ngoài các thị trường truyền thống là cộng đồng châu Âu
(chiếm 40%), Nhật Bản và các nước trong khu vực khác, việc ký kết Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở ra một thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc
rất to lớn. Đó là vận hội lớn để phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá may mặc
của nước ta.
Các nước kinh tế phát triển Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Bỉ…mặt hàng yêu cầu
chất lượng cao, đồng bộ như áo sơ mi nam nữ, complê, bộ quần áo bò, váy và gi-lê
bằng vải bò, các loại áo khoác vải bò bằng da thật, áo blu từ vải dệt kim mỏng, mắt
đan nhỏ hoặc từ vải mền, vải nhân tạo, cao su hay các vật liệu khác được dính ép,
tráng bọc với vải nền, áo jăcket bằng vải chất lượng cao nhưng không nặng lắm gây
tâm lý thoải mái cho người mặc, áo sơ mi với tính thời trang cao, mát, dễ chịu khi
mặc. Về mùa hè thì mặt hàng yêu cầu càng phong phú hơn như các loại áo váy hoa

cho trẻ em và phụ nữ, các loại áo sơ mi cao cấp và quần âu cho nam giới.

Các nước có thu nhập cao nhưng trình độ kinh tế chưa phát triển, yêu cầu về
mặt hàng may mặc cũng ngày một đòi hỏi cao hơn về chất lượng sản phẩm cũng như
tính thời trang như các nước thuộc châu Phi và một số nước thuộc châu Mỹ la Tinh.
Các nước Đông Âu, EU, châu á đã có nhiều quan hệ mặt hàng với các công ty
may mặc trong nước cũng có yêu cầu ngày một cao về chất lượng, kiểu dáng đòi hỏi
ngành may mặc nước nhà phải có những chính sách phù hợp, những thay đổi kịp thời
thì mới có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Còn thị trường trong nước tính đến những năm đầu thế kỷ 21 đã lên tới hơn 80
triệu dân, kinh tế nước nhà đang có chiều hướng phát triển thuận lợi, thu nhập cũng
như khả năng tiêu dùng được nâng lên nhưng chủ yếu là ở các tỉnh, thành phố lớn và
cũng vì thế nhu cầu về ăn mặc của người dân ngày càng đa dạng, phong phú. Điều này
đòi hỏi các công ty may mặc trong nước cần phải nỗ lực hơn nữa trong thời gian tới
mới có thể đáp ứng, thoả mãn khách hàng trong nước.
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty:
1. Quá trình hình thành:
Công ty May Đức Giang (DUGARCO) là doanh nghiệp nhà nước, thuộc Tổng
công ty Dệt May Việt Nam. Năm 1989, Xí nghiệp May Đức Giang được thành lập
theo quyết định số 102/CNn-TCLĐ và trực thuộc Liên hiệp Xí nghiệp May Việt Nam.
Năm 1993, Xí nghiệp May Đức Giang chuyển thành công ty May Đức Giang theo
quyết định thành lập số CCn/TVLĐ ngày 23/03/1993.
Chức năng và nhiệm vụ chính của công ty là thực hiện việc sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực may mặc, phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất nhập khẩu trực tiếp
các loại hàng may mặc, dịch vụ vận tải ngoài ngành và thực hiện việc hạch toán kinh
doanh độc lập có hiệu quả, có tài khoản, có con dấu riêng để thực hiện giao dịch theo
đúng pháp luật.
Tổ chức bộ máy công ty gồm: 6 phòng ban, 8 xí nghiệp bao gồm xí nghiệp thêu
điện tử, xí nghiệp giặt mài, xí nghiệp may 1, xí nghiệp may 2, xí nghiệp may 4, xí
nghiệp may 6, xí nghiệp may 8, xí nghiệp may 9 và 2 phân xưởng bao gồm phân

xưởng bao bì, phân xưởng hoàn thành, ngoài ra còn có đội xe vận tải container Lực
lượng lao động hiện nay trên 3000 người, trong đó 241 người có trình độ đại học và
trên đại học.

Về máy móc thiết bị có hơn 3000 máy may công nghiệp và các loại máy
chuyên dùng tiên tiến của Nhật Bản, Hoa Kỳ, CHLB Đức chế tạo, hệ thống giác sơ đồ
trên máy vi tính, hệ thống trải cắt vải tự động, 4 máy thêu điện tử, dây chuyền giặt
mài…
Năng lực sản xuất mỗi năm trên 7,0 triệu sản phẩm sơ mi quy đổi, sản phẩm đạt
tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9002. Các sản phẩm chủ yếu là:
 áo sơ mi cao cấp .
 áo Jacket 2 lớp, 3 lớp, 5 lớp.
 Quần Jean, quần âu các loại.
Thị trường xuất khẩu công ty đã có quan hệ bạn hàng với 47 khách hàng thuộc
24 quốc gia trên thế giới như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Khối EU, khu vực
Trung Cận Đông, Bắc Mỹ. Hệ thống mạng lưới tiêu thụ trong nước vào thời điểm này
có 60 đại lý và cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh thành phố. Tổng số vốn của
công ty hiện nay xấp xỉ 100 tỷ đồng.
Liên doanh:
 1996: Liên doanh XNKTH Việt Thành – Bắc Ninh.
 1997: Liên doanh XNKTH Việt Thái – Thái Nguyên.
Liên doanh XNKTH Việt Thanh – Thanh Hoá.
 1999: Liên doanh XNKTH Hưng Nhân – Thái Bình.
Các liên doanh này đã thu hút trên 4000 lao động tại các địa phương.
Hiện tại, công ty đang ổn định sản xuất và có sức cạnh tranh tốt. Doanh thu
hàng năm tăng nhanh, lợi nhuận ổn định, lương bình quân công nhân đạt 1300000
đồng/tháng, phấn đấu trong năm 2003 và những năm tiếp theo cố gắng đạt 1450000
đồng/tháng. Nộp ngân sách, doanh thu, lợi nhuận thu được tăng khá qua các năm.
2. Đặc điểm một số mặt hàng sản xuất của công ty:
Trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường, chiến lược sản xuất, kinh

doanh của công ty theo phương thức đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra sự linh hoạt, thích
ứng nhanh chóng với nhu cầu người tiêu dùng, nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi
thâm nhập vào những thị trường mới tiềm năng hơn. Hiện nay, công ty sản xuất hơn
20 chủng loại sản phẩm may mặc khác nhau. Tuy nhiên, công ty cũng xác định được

một số sản phẩm chính của mình để có chiến lược phát triển cụ thể đó là: áo jacket, áo
sơ mi, quần âu, áo vecton.
 áo jacket: Đây là mặt hàng truyền thống của công ty. Loại sản phẩm này đòi
hỏi trình độ tay nghề, máy móc kỹ thuật cao, và đây cũng là sản phẩm mũi nhọn đóng
góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu và tiêu thụ của công ty. Hiện nay, công ty
đang đưa ra thị trường rất nhiều chủng loại áo jacket khác nhau cho khách hàng lựa
chọn. Trong những năm tới, mặt hàng này cũng vẫn sẽ là sản phẩm chủ lực của công
ty trong chiến lược mở rộng thị trường tiêu thụ. Thị trường xuất khẩu chủ yếu về loại
sản phẩm này là Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Anh, Thụy Sỹ.
 áo sơ mi: áo sơ mi cũng là mặt hàng truyền thống của công ty. Về quy trình
sản xuất đơn giản hơn áo jăcket nhưng yêu cầu về kỹ thuật cũng đòi hỏi tương đương.
Hiện nay, công ty đang cố gắng tăng cường trang thiết bị, thắt chặt quản lý để nâng
cao chất lượng sản phẩm, đưa ra thị trường những sản phẩm áo sơ mi cao cấp, chất
lượng cao. Cùng với các biện pháp đó, công ty cũng sẽ thực hiện chiến lược đa dạng
chủng loại mẫu mã sản phẩm để đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Thị trường chủ yếu
xuất khẩu của công ty là Đức, Bỉ, Pháp, Nga, Mỹ
 Bên cạnh hai loại sản phẩm chính của công ty, các quần áo khác như áo
veston, quần âu, quần jean là những loại sản phẩm phụ của công ty. Quy trình sản xuất
được nhập trực tiếp từ Đức và Bỉ nên sản phẩm làm ra đảm bảo chất lượng và được
người tiêu dùng đánh giá cao. Trong những năm qua, các mặt hàng này công ty sản
xuất không được nhiều chỉ chiếm khoảng trên dưới 10% tổng sản lượng của công ty
do vậy doanh thu hạn chế. Chiến lược phát triển những năm tới của công ty là cố gắng
nâng số lượng sản phẩm sản xuất đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Số lượng
sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở các nước Đức, Anh, Pháp, Nga.


3. Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty:
Trong những năm qua, công ty đã từng bước cố gắng đẩy mạnh hoạt động sản
xuất kinh doanh, công tác nghiên cứu thị trường được đẩy mạnh, nghiên cứu một cách
chuyên sâu, có hệ thống thị hiếu của người tiêu dùng, xu hướng vận động, yếu tố chi
phối thị trường may mặc trong nước và thế giới. Từ đó kết hợp giữa nhu cầu thị
trường hàng may mặc và năng lực sản xuất của công ty để đề ra kế hoạch thực hiện
cho các năm. Chính vì vậy, công ty đã thực hiện vượt mức kế hoạch đề ra với kết quả
năm sau cao hơn năm trước.
Biểu 1: Kết quả sản xuất kinh doanh.
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002
Giá trị tổng sản
lượng
54.47
7
61.286 82.229 90.102 122.45
1
Tổng doanh thu 93.13
3
110.648

149.187

231.300

268.54
2
Nộp ngân sách 2.275 2.878 3.207 3.565 3.865
Lợi nhuận 4.010 4.733 7.078 7.564 7.842
0

50000
100000
150000
200000
250000
300000
1998 1999 2000 2001 2002
Gi¸ trÞ SXCN
Doanh thu

Qua bảng tổng kết trên ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty ngày
càng phát triển, tất cả các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty đều có mức tăng qua các năm.
- Năm 1999/1998:
+ Doanh thu tăng : 17515 triệu đồng
+ Nộp ngân sách tăng : 603 triệu đồng
+ Lợi nhuận tăng : 723 triệu đồng
+ Giá trị tổng sản lượng tăng : 6809 triệu đồng
- Năm 1999/2000:
+ Doanh thu tăng : 38539 triệu đồng
+ Nộp ngân sách tăng : 329 triệu đồng
+ Lợi nhuận tăng : 2845triệu đồng
+ Giá trị tổng sản lượng tăng : 20943 triệu đồng
- Năm 2000/2001:
+ Doanh thu tăng : 82113 triệu đồng
+ Nộp ngân sách tăng : 358 triệu đồng
+ Lợi nhuận tăng : 486 triệu đồng
+ Giá trị tổng sản lượng tăng : 7883 triệu đồng
- Năm 2001/2002:
+ Doanh thu tăng : 37242 triệu đồng

+ Nộp ngân sách tăng : 300 triệu đồng
+ Lợi nhuận tăng : 278 triệu đồng
+ Giá trị tổng sản lượng tăng : 32349 triệu đồng
Qua bảng kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trên ta có thể thấy được tốc độ
phát triển sản xuất của công ty là rất nhanh chóng.
Năm 1998 doanh thu là 93133 triệu đồng. Đây là một thành quả đáng khích lệ
vì sau năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, thị trường

hàng hoá nói chung và ngành may mặc trên thế giới có nhiều biến động, ngay trong
nước phải điều chỉnh lại một số kế hoạch và chiến lược phát triển chung mà công ty
vẫn duy trì được tốc độ phát triển tương đối đều đó là một thắng lợi lớn.
Năm 1999 doanh thu là 110648 triệu đồng so với năm 1998 đạt 118,8%. Nộp
ngân sách năm tăng 26,5%.
Năm 2000 doanh thu là 149187 triệu đồng đạt 134,8% so với năm 1999. Lợi
nhuận so với năm 1999 tăng 49,5%.
Năm 2001 giá trị tổng sản lượng là 90102 triệu đồng tăng 10% so với năm
2000. Lợi nhuận so với năm 2000 đạt 106,8%.
Năm 2002 nộp ngân sách tăng 300 triệu đồng so với năm 2001, tăng 658 triệu
đồng so với năm 2000, tăng 987 triệu đồng so với năm 1999, tăng 1590 triệu đồng so
với năm 1998.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, công ty cũng gặp phải không ít khó
khăn về nguồn nguyên phụ liệu đầu vào do phụ thuộc nhiều vào nhà cung cấp nước
ngoài. Các nhà cung cấp trong nước đôi khi thời gian giao hàng chậm do vậy ảnh
hưởng không nhỏ tới tiến độ hoàn thành thành phẩm, tới tiến độ đưa hàng cho đối tác.
Điều này làm thiệt hại về uy tín cho công ty.
Cùng với sự phát triển của công ty, đời sống của cán bộ công nhân viên trong
công ty cũng tăng lên. Mức lương trung bình của người công nhân trong công ty tính
đến thời điểm 12/2002 là 1385000 đồng/tháng. Đây là một mức lương cao so với các
doanh nghiệp trong ngành và một số ngành khác trong nền kinh tế nước ta.
4. Đánh giá công tác tiêu thụ một số sản phẩm chủ yếu của công ty:

Trong thời gian qua, công ty đã từng bước cố gắng đẩy mạnh công tác sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm. Do đó, những năm gần đây công tác tiêu thụ tại công ty không
ngừng được nâng cao cả về mặt số lượng các sản phẩm tiêu thụ và mặt giá trị thể hiện
qua giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện.
Biểu 2: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ một số sản phẩm chủ yếu.
Đơn vị tính: nghìn chiếc
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002

×