Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nội dung và quy luật mâu thuẫn? Liên hệ nội dung hai quy luật trên với việc học tập và hoạt động chính trị xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.75 KB, 9 trang )

Nội dung quy luật luợng chất và quy luật mâu thuẫn?
Liên hệ nội dung hai quy luật trên với việc học tập và hoạt động
chính trị - xã hội

PHẦN MỞ ĐẦU
Tầm quan trọng của với môn học
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Chúng tác
động qua lại lẫn nhau. Trao đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới
ra đời tác động trở lại đến sự thay đổi của lượng mới. q trình tác động đó diễn ra
liên tục, làm cho sự vật không ngừng phát triển biến đổi, vận dụng quy luật này
vào thực tế khá phong phú, chẳng hạn khi chúng ta nung một thỏi thép đặc biệt ở
trong lị nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới hàn nghìn độ , song thỏi
thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang được trạng thái lỏng, chúng ta biết
sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần
dần về lượng đến một giớ hạn nhất định nào đó, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất . Do đó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến chúng ta phải biết
từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất. Trong hoạt động của mình
ơng cha ta cũng đã rót ra những tư tưởng sâu sắc như “ có cơng mài sắt, có ngày
nên kim”…. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đén sự thay
đổi về chất ngược lại là một tỏng những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật, quy luật này được áp dụng phỏ biến trong thực tế cuộc sống.
Nội dung quy luật luợng chất.
I. Một số khái niệm cơ bản.
1. Chất:
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các
sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất


vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng


khác.
2. Lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu
thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.
Lượng của sự vật khơng phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự
vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
Độ: Độ là giớ hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. sự vật vẫn là nó mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích
hợp khi lượng biến đổi vượt q giới hạn thì độ sự vật khơng cịn là nó. Trong
phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau làm cho
sự vật vận động . Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh đến trạng thái chất của sự
vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến những thay đổi
về chất. chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì
chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác
Điểm nút: Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự
thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn
đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.
Bước nhảy: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật đó gây nên, là sự kết thúc một giai đoạn
phát triển của một sự vật là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Sự
thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy.
Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học
Đối với nhiều nhà triết học hy lạp, vật chất thường đồng nhất với sự vật. từ đó
họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương diện chất .
trái lại những người thuộc trường phái pitago lại xem đặc trưng về lượng của thế
giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại. ho xem những mối quan hệ số

lượng là quy luật cấu thành mọi sự vật của thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với tư cách
là những phạm trù trong triết học của aixtot. Ơng xem chất là tất cả những cái gì
làm cho sự vật la nó. Cịn lượng là tất cả những cái gì có thể phân ra thành những


bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số lượng và đại lượng. ông
cũng là người đầu tiên trên thế giớ giải quyết một vấn đề quan trọng của quy luât:
vấn đề tính nhiều chất của sự vật, từ đó ơng phân biệt sự khác nhau về hình thức
với chất căn bản của sự vật cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay
mất đi cảu bản than sự vật, ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên
cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và
lượng.
Sau này, quan điểm phiếm diện tuyệt đối hóa đặc trưng về lượng đã được khắc
phục trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Heeghen đã phân tích một
cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong q trình vận động và phát
triển khơng ngừng. vói quan điểm biện chứng, Hêghen đã xem xét từ “ chất thuần
túy” đến “ chất được xác định”, chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng, lượng
cũng khơng ngừng tiến hóa, “ số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất,
Heeghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng của
Heeghen, Leenin đã tạo ra một kết luận quan trọng là : việc thừa nhận bước nhảy
hay khơng là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay
siêu hình về sự phát triển.
Tất nhiên với tư cách là nhà triết học duy tâm, Heeghen đã xem các phạm trù
chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “ý niệm
tuyệt đối” chứ không phải là những nấc thang nhận thức của con người đối với thế
giớ bên ngoài.
Về sau sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát

triển căn bản trong quan niệm về chất, lượng, mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi
về chất lượng và sự thay đổi về chất nói chung.
Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng
Quan niệm biện chứng duy vật về chất
Trong thế giới quanh ta tồn tại vô vàn sự vật, hiện tượng. vì sao chúng ta biết
phân biệt đây là sự việc này , đây là sự việc kia? Điều đó là đơn giản vì các sự vật
khác nhau, có những đặc trưng có những thuộc tính quy định khác nhau. Như kim
loại khơng có khả năng hòa tan một số chất giống nước. mọi động vật và thực vật
đều được đặc trưng bởi đồng hóa, dị hóa nhưng chúng lại khác nhau… sở dĩ ta
phân biệt được những sự vật hiện tượng khách quan đó là vì chúng có sự khác
nhau về chất. chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn


có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính là cho sự vật là nó chứ
khơng phải cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối
quan hệ qua lại với sự vật khác, là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố
cấu thành nên sự vật,… đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh
ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển cảu nó. Tuy nhiên những
thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra qua sự tác động qua lại
với các sự vật hiện tượng khác.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của con người
đối với vật chất cảu sự vật. để nhận thức được những thuộc tính, chúng ta cần phải
nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. trong mối quan hệ cụ thể thường
bộc lộ ra một thuộc tính của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là
sự tổng hợp cảu tất cả các thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhận thức
sự vật trong tổng hòa các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có vơ vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có một tổng hơp
đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất.
Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vơ vàn chất. Với tư cách là những khía cạnh

của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị
trí khác nhau tạo thành những thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản, những thuộc tính
của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sụ vật khác , bởi vậy sự
phân chia thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản chỉ mang tính chất tương đối, tổng
hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. ở mỗi sự vật chỉ có
một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật tỏng q
trình tồn tại của sự vật, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành,
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Nghĩa là bởi
kết cấu cảu sự vật. Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy khơng ít sự vật,
mà xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất nhưng các sự vật
đó lại khác nhau về chất.
Quan niệm biện chứng duy vật về lượng.
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng quy mơ, trình đọ nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc
tính của sự vật. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, ssos lượng
nhiều hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay
chậm,.. trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo
lường cụ thể. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng


và khái quát như trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức học tập cao hay
thấp,… Trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của
sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa. có những lượng biểu thị yếu tố
quy định kết cấu bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố
hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội), có những lượng vạch ra
yếu tố quy định bên ngồi của sự vật ( chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối, có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng han số lượng sinh viên giỏi nhất định

của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này có nghĩa là dù
lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định
về chất của sự vật.
Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật. trong quá trình
vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im, chúng luôn vận
động không phải biệt lập với nhau mà ln có quan hệ qua lại theo một quy luật
nhất định.
II. Nội dung quy luật mâu thuẫn.
a. Mâu thuẫn: Là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn là mối liên hệ
tác động qua lại giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật. Mặt đối lập là những
mặt, những thuộc tính có xu hứơng phát triển ngược chiều nhau, tồn tại trong
cùng một sự vật hiện tượng tác động biện chứng với nhau làm cho sự vật phát
triển.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến
Mâu thuẫn là khách quan có nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật
hiện tượng. Mâu thuẫn hình thành phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong của sự
vật quy định nó khơng phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào và
khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Mâu thuẫn là hiện tượng phổ
biến có nghĩa là mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn
tại ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành. Trong mỗi sự vật khơng phải chỉ có một mâu thuẫn
mà có thể có nhiều mâu thuẫn vì sự trong cùng một lúc có thể có nhiều mặt đối lập.
Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra dưới nhiều
hình thức đa dạng và phong phú khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.


+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu

+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
b. Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa, ràng buộc quy định lẫn
nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập. Khơng có sự thống nhất của
các mặt đói lập thì khơng tạo ra sự vật. Theo nghĩa hẹp sự thống nhất là sự đồng
nhất, phù hợp ngang nhau của hai mặt đối lập đó là trạng thái cân bằng của mâu
thuẫn..
Sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời tương đối, nghĩa là nó chỉ tồn tại
trong một thời gian nhất định, đó chính là trạng thái đứng im, ổn định tương đối
của sự vật, tính tương đối của sự thống nhất của các mặt đối lập làm cho thế giới
vật chất phân hoá thành cacs bộ phận các sự vật đa dạng phực tạp, gián đoạn.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ phủ định biện chứng lẫn
nhau của các mặt đối lập (Sự đấu tranh hiểu theo nghĩa tác động ảnh hưởng lẫn
nhau của các mặt đối lập chứ không phải theo nghĩa đen). Sự đấu tranh của các mặt
đối lập là tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật kể cả trong trang thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo lên tính chất tự thân, liên tục của sự vận động
phát triển của sự vật. Cũng vì vậy muốn thay đổi sự vật tì phải tăng cường sự đấu
tranh.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp diễn ra từ thấp đến
cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng.
+ Giai đoạn đầu: Mâu thuẫn biểu hiện ra ở sự khác nhau của hai mặt đối lập song
không phải sự khác nhau nào cũng là mâu thuẫn mà chỉ hai mặt khác nhau nào liên
hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể có khuynh hướng phát triển trái ngược
nhau mới tạo thành giai đoạn đầu của maau thuẫn, trong giai đoạn này sự đấu tranh
chưa rõ và chưa gay gắt.
+ Giai đoạn sau: Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau biến
thành đối lập, khi đó hai mặt đối lập càng rõ, càng sâu sắc thì sự đấu tranh giữa
chúng ngày càng gay gắt và quyết liệt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt
chuyển hố lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết.

c. Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của
sự phát triển.


Đấu tranh của các mặt đối lập gây ra những biến đổi của các mặt đối lập khi
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập trỏ lên quyết liệt và có điều kiện chín muồi thì
sự thống nhất của hai cũ bị phá huỷ, các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau. Sự
chuyển hố của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
bị mất đi, sự vật mới xuất hiện. Các mặt đối lập có thể chuyển hố lẫn nhau với ba
hình thức.
Các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và
ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật. Ví dụ, Mâu
thuẫn giữa vơ sản và tư sản biểu hiện thành cuộc cách mạng vô sản lật độ giai cấp
tư sản.
Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hố thành mặt đối lập mới. Ví dụ Giải
quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ (chế độ phong kiến) xã hội lại xuất
hiện mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản (Chế độ TBCN).
Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau, cải biến lẫn nhau.
Trong sự vật mới lại có mâu thuẫn mới, các mặt đối lập trong mâu thuẫn mới
lại đấu tranh với nhau, làm cho sự vật ấy lại chuyển hoá thành sự vật khác tiến bộ
hơn, cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng thường xuyên biến đổi và phát triển
khơng ngừng, vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của mọi quá trình vận động
phát triển của sự vật hiện tượng.
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến, nên trong nhận thận thức
và thực tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn, tức là không được lẩn tránh mâu thuẫn cũng
như không được tạo ra mâu thuẫn. Vì mâu thuẫn là động lực của sự phát triển nên
muốn thúc đẩy sự phát triển phải nhận thức được mâu thuẫn và tìm cách giải quyết
mâu thuẫn, phải tạo ra điều kiện thúc đẩy sự đấu tranh của các mặt đối lập theo
chiều hướng phát triển. Vì mọi mâu thuẫn đều có q trình phát sinh, phát triển và
biến hố. Vì sự vật khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau, mỗi mâu thuẫn lại có

những đặc điểm riêng của nó. Do đó phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ
thể và tìm cách giải quyết mâu thuẫn.
III. Vận dụng các quy luật trên để phân nổi lên có liên quan đến cơng việc của
bản thân.
Quy luật luợng chất và quy luật mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. Bản thân tôi đang làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật
truyền hình cũng như trong hoạt động báo chí, xung quanh mơi trường làm việc
của tơi.


Trong dịng chảy chung của báo chí Việt Nam, truyền hình Quốc Hội nói
chung là báo chí đã có những đóng góp tích cực trên mặt trận thơng tin tun
truyền, thực hiện vai trò định hướng dư luận xã hội, là cầu nối giữa Đảng, Quốc
hội, Nhà nước và Nhân dân; tham gia giám sát, phản biện giúp hoàn thiện nhiều
chủ trương, chính sách, pháp luật đến nhân dân một cách dể hiểu đến cho toàn dân.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, báo chí thế
giới, báo chí Việt Nam cùng với mọi ngành nghề trong xã hội đều có những bước
chuyển mình để phù hợp với yêu cầu của thời đại công nghệ số. Sự phát triển của
khoa học kỹ thuật đã mở ra vô vàn thời cơ cũng như thách thức đối với báo chí.
Giữa mơi trường truyền thơng hiện đại, phóng viên được thỏa sức sáng tạo những
sản phẩm truyền thông mới, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Những
sản phẩm báo chí đa phương tiện ra đời, khác với những bài báo chỉ gồm chữ viết
và ảnh minh họa đơn thuần, giờ đây tác phẩm báo chí bao gồm cả chữ viết, video,
ảnh động, file âm thanh, đồ họa được thiết kế theo phương thức hoàn toàn mới.
Thông tin về các sự kiện ngập tràn khắp internet và mọi người đều có cơ hội tiếp
cận nguồn tin tức khổng lồ, hầu hết đều miễn phí.
Chính những đổi thay trong cách tiếp nhận nguồn thông tin của độc giả, gây áp
lực lớn, buộc báo chí phải đứng trước những thay đổi sâu rộng, to lớn nếu không
muốn bị tụt hậu, bị bỏ lại phía sau.
Một mặt, phóng viên kỹ thuật có rất nhiều cơ hội tuyệt vời để sáng tạo, mặt

khác, gặp khơng ít thách thức trong việc trau dồi kỹ năng, cập nhật công nghệ, tự
làm mới những tác phẩm của mình. Kết quả của những thách thức và cơ hội to lớn
này là sự xuất hiện của nhiều giải pháp sáng tạo, phi truyền thống, tận dụng sức
mạnh cơng nghệ để cải tiến mơ hình tác nghiệp, phương thức truyền tải thơng tin.
Q trình thay đổi này mang lại những kinh nghiệm, kỹ năng làm báo hiện đại, như
chuyển đổi mơ hình báo chí truyền thống sang mơ hình báo chí điện tử; thiết lập
tịa soạn hội tụ; ứng dụng công nghệ đa phương tiện để đổi mới hình thức và nội
dung báo chí; khai thác nền tảng di động, nền tảng kỹ thuật số v.v…
Trong bối cảnh internet, mạng xã hội có sức ảnh hưởng sâu rộng, giúp người
dùng kết nối với nhiều nguồn tin, báo chí khơng cịn là phương tiện truyền thơng
độc quyền mà bị đặt vào thế cạnh tranh, khi vừa phải bảo đảm tốc độ đưa tin, vừa
phải khẳng định sự đáng tin cậy của mình đối với cơng chúng. Để trở thành kênh
thông tin được lựa chọn, tạo được sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với mạng xã hội,
với vô vàn tin giả, tin chưa được kiểm chứng, báo chí phải có giá trị thơng tin,
thơng tin được xác minh, kiểm chứng và toàn cảnh. Như vậy, cơ quan báo chí phải
đi đầu và có trách nhiệm cung cấp thơng tin nhanh nhạy, trung thực, chính xác để
có thể cạnh tranh với mạng xã hội về tính pháp lý, độ tin cậy của thông tin.


Hơn lúc nào hết, cơ quan báo chí và đội ngũ người làm báo hiện nay cần nỗ
lực không ngừng để cập nhật kiến thức làm báo trong thời đại cơng nghiệp 4.0, sẵn
sàng đón nhận thách thức, đồng hành cùng xu thế, để lớn mạnh và trưởng thành,
đồng thời vẫn giữ lửa của báo chí cách mạng.
Hịa với dịng chảy của báo chí đương đại, với lợi thế sẵn có của mình, Truyền
Hình Quốc Hội đã chuyển mình với chặng đường phát triển sôi động đã và đang nỗ
lực không ngừng để nâng cao chất lượng tin bài, bước đầu xây dựng các chương
trình đa phương tiện để hấp dẫn đi sâu vào lịng nhân dân . Trong đó, có nhiều loại
hình thơng tin được kết hợp với nhau, như văn bản, hình ảnh, video, đồ họa…
được đăng tải trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, Tittok...
mang lại tính tương tác cao, cung cấp thơng tin cho độc giả một cách linh hoạt, đáp

ứng nhu cầu ngày càng cao của cơng chúng, góp phần tạo chỗ đứng trong dịng
chảy của báo chí thời đại 4.0.



×