Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA SẢN XUẤT TRONG KHU VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.4 KB, 19 trang )


1
NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA SẢN XUẤT TRONG KHU VỰC NÔNG
NGHIỆP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn
Viện Chính sách và chiến lược phát triển NNNT

I. GIỚI THIỆU
Sau 25 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, xóa đói giảm
nghèo, là nguồn thu ngoại tệ lớn và góp phần ổn định chính trị - xã hội. Mặc dù, Việt
Nam đã có những thay đổi lớn về cơ cấu kinh tế, lao động, nhưng đến nay vẫn còn trên
70% dân số Việt Nam sống dựa vào nông nghiệp. Tuy nhiên, tăng trưởng của nông
nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tăng diện tích và sản lượng, sử dụng ngày càng
nhiều các yếu tố đầu vào và tài nguyên thiên nhiên.
Sản xuất nông nghiệp đã và đang có dấu hiệu gây tác động tiêu cực đến môi
trường như mất đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn
nước, tăng chi phí sản xuất và đe dọa tính bền vững của tăng trưởng. Vì vậy, chất
lượng và sự bền vững của tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam là vấn đề cần được quan
tâm trong giai đoạn tới.
Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn được dồi
dào, nông nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Chí
phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của nông
nghiệp Việt Nam với vị thế nhà sản xuất “chi phí thấp” trên trường quốc tế. Nông
nghiệp sẽ phải nâng cao vị thế cạnh tranh trên cơ sở nâng cao chất lượng, giá trị gia
tăng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này có thể đạt được thông qua tận dụng tiềm
năng và cơ hội để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị gia tăng hàng
nông sản, đồng thời giảm tác động tiêu cực đến môi trường. Vì vậy, cần có những thay
đổi tích cực góp phần xây dựng nông nghiệp tiên tiến, tạo nền tảng cho một nền kinh tế
công nghiệp hiện đại, góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống, ổn định xã hội, xây
dựng nông thôn Việt Nam ngày càng phồn thịnh, văn minh.


II. NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG
THÔN
2.1. Thành tựu
Trong quá trình phát triển, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục
phát triển, đạt được nhiều thành tựu lớn.

2
Sản xuất nông lâm ngư nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá: từ năm 2000 đến
2011, ngành nông-lâm-thủy sản đã đạt được tốc độ tăng tăng trưởng hàng năm tương
đối cao, với giá trị sản xuất bình quân đạt gần 5,36%/năm, giá trị gia tăng (GDP) tăng
3,7%/năm. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tốc độc tăng trưởng giá trị sản xuất của toàn
ngành nông nghiệp 3,76% so với cùng kỳ năm trước, giá trị gia tăng tăng 2,81%, đóng
góp 0,48 điểm phần trăm trong GDP cả nước. Nông nghiệp ngày càng đa dạng, giá trị
gia tăng cao đặc biệt lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực: cơ cấu sản xuất
nông, lâm, thuỷ sản chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn 2000 đến nay. Tỷ trọng
nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản) trong tổng GDP cả
nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 22,02% năm 2011. Trong nội bộ ngành
đang có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thủy sản, giảm tỷ trọng trồng trọt trong giá trị
sản xuất. Tỷ trọng thuỷ sản tăng từ 15,6% năm 2000 và 24,6% năm 2011. Trong khi
đó, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ khoảng 78%-82% giai đoạn trước năm 2002 xuống
còn 72% năm 2011
1
.
Trong nội bộ các tiểu ngành cũng đang diễn ra các chuyển biến cơ cấu tích cực,
đặc biệt trong giai đoạn 10 năm trở lại đây. Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị
sản xuất của trồng trọt giảm từ 78-82% giai đoạn trước năm 2004 xuống còn 76% năm
2011. Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại đang thay thế dần mô
hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia đình.

Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát triển nhanh. Đến nay, tổng số tàu
thuyền có 128.865 chiếc với tổng công suất 5.400.000 CV. Trong đó, tàu thuyền có
công suất 90CV trở lên có 24.180 chiếc, chiếm tỷ trọng gần 19%
2
. Diện tích nuôi
trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2011 tăng 406.000 ha
3
. Nuôi trồng
thủy sản tiếp tục đa loài, đa loại hình, đa phương thức theo hướng thân thiện với môi
trường.
Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất được đẩy mạnh nhờ chính sách giao
đất giao rừng, chương trình 327, dự án trồng mới 5 triệu ha v.v… Nhờ vậy, tỷ lệ che
phủ rừng tăng từ 28% năm 1995 lên xấp xỉ 40% năm 2010, tương đương với diện tích
13,39 triệu ha
4
. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu phát triển rất mạnh

1
Bộ NN&PTNT, Báo cáo hàng năm, 2011
2
Bộ NN&PTNT, Báo cáo hàng năm, 2011
3
Tính toán CAP từ số liệu TCTK, 2000-2011
4
Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất 2010-2020, MONRE

3
trong những năm gần đây: giá trị lâm sản xuất khẩu tăng từ 1.786 triệu USD năm 2005
lên 3.000 triệu USD năm 2010, đạt tốc độ tăng 10,9%/năm; trong đó, giá trị xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ tăng từ 1.561 triệu USD năm 2005 lên 2.800 triệu USD năm 2010,

đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tạo cơ hội cho phát triển rừng trồng
nguyên liệu công nghiệp.
Cơ cấu ngành nghề ở khu vực nông thôn có sự hay đổi nhanh theo hướng tích
cực: giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm, thủy sản; tăng số lượng và tỷ trọng
nhóm hộ công nghiệp, xây dựng, và dịch vụ. So với năm 2006, tỷ trọng hộ nông, lâm,
thủy sản khu vực nông thôn giảm từ 71,1% xuống còn 62,0%; tỷ trọng hộ công nghiệp
và xây dựng tăng từ 10,2% lên 14,7%; tỷ trọng hộ dịch vụ từ 14,9% lên 18,4%
5
.
Đảm bảo ANLT quốc gia: sản xuất nông nghiệp phát triển từng bước đáp ứng
tốt nhu cầu của thị trường trong nước. Bất chấp những biến động thị trường, thiên tai,
dịch bệnh, bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg năm 2000 lên 513 kg năm
2010
6
, góp phần thiết thực cho công tác xóa đói giảm nghèo.
Không chỉ đảm bảo đủ nhu cầu lương thực trong nước mà hiện nay Việt Nam
còn là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo với lượng xuất khẩu đạt 5-7
triệu tấn/năm
7
. Con số này tương đương với 8-12 triệu tấn thóc và chiếm khoảng ¼
tổng sản lượng quốc gia hàng năm.
Xuất khẩu tăng nhanh, một số mặt hàng có vị thế cao trên thị trường thế giới:
lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực duy nhất trong nền kinh tế liên tục xuất siêu,
năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn. Xuất
khẩu các loại nông, lâm, thủy sản tiếp tục được mở rộng, một số ngành có thị phần lớn
trong khu vực và thế giới như: gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ gỗ,
thuỷ sản v.v… Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản giai đoạn 1995 - 2010
bình quân mỗi năm đạt khoảng 7 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 12,6%/năm
8
. Năm

2011, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt xấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 27,9% so cùng
kỳ năm trước và gấp gần 6 lần năm 2009. Năm 2012, tuy giá nông sản sụt giảm so với
năm 2011 nhưng tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành trong 8 tháng đầu năm vẫn đạt
18,152 tỷ đô, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước.
10


5
Tổng điều tra nông nghiệp nông thôn 2011, TCTK
6
Tổng cục Thống kê, Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, 2004, 2006, Nxb Thống kê.
7
Năm 1995, xuất khẩu gạo ở mức dưới 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo vượt mức 5 triệu tấn/năm kể từ năm
2005. Năm 2010, con số này ở mức 6,8 triệu tấn, đạt kim ngạch 3,2 tỷ $.
8
Tính toán CAP từ số liệu Tổng cục Thống kê, 1995-2010
9
Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế-xã hội 12 tháng năm 2011
10
Bộ NN và PTNT

4
Trong những năm gần đây, có 5 mặt hàng liên tục nằm trong nhóm các mặt
hàng có giá trị xuất khẩu cao là thuỷ sản, cà phê, gạo, cao su, đồ gỗ. Năm 2011, kim
ngạch xuất khẩu 5 mặt hàng trên nằm trong số 14 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 2
tỷ USD, cụ thể là: thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng 21,7%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ USD,
tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao su 3,2 tỷ USD, tăng 35%; cà phê 2,7 tỷ
USD, tăng 48,1%
11
.

Hiệu quả đầu tư cao và có sức lan tỏa mạnh mẽ: với lợi thế sẵn có về nông
nghiệp, trong điều kiện hiệu quả đầu tư chung của Việt Nam rất thấp, các tính toán về
tỷ lệ chi phí/thu nhập của các ngành kinh tế (ICOR) gần đây cho thấy hiệu quả đầu tư
cho nông nghiệp không kém gì so với các ngành kinh tế khác, thậm chí là có thể còn
cao hơn
12
.
Trong vòng 20 năm vừa qua, với lượng vốn đầu tư ít ỏi chỉ chiếm 7% tổng vốn
đầu tư xã hội, mà trong đó 50% là của đầu tư nhà nước, lại tập trung chủ yếu cho việc
xây mới các công trình thủy lợi lớn, nhưng nông nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng 3-
4%/năm
13
. Vì vậy, nếu được qua tâm đầu tư đúng mức nông nghiệp Việt Nam chắc
chắn có thể tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức cao hơn, đặc biệt về giá trị gia tăng.
Mặt khác, nông nghiệp là lĩnh vực có sức lan tỏa mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh
tế nói chung. Nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp
Nông thôn cho thấy, tăng cầu tiêu thụ hàng nông lâm thủy sản với giá trị 1% GDP sẽ
tăng GDP cả nước 1,2%. Trong khi đó, nếu tập trung kích cầu vào lĩnh vực công
nghiệp thì tác động tổng hợp lên chính lĩnh vực này chỉ tăng GDP công nghiệp lên
0,94%. Xét về việc làm, tập trung kích cầu cho sản phẩm lĩnh vực nông nghiệp sẽ tạo
ra việc làm nhiều nhất, cao hơn hẳn so với kích cầu vào các lĩnh vực khác (tạo ra thêm
khoảng một triệu việc làm so với mức 200 - 370 ngàn lao động khi kích cầu vào khu
vực công nghiệp và dịch vụ).
Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện: về cơ bản,
Việt Nam đã xóa được đói. Công tác giảm nghèo được tập trung đẩy mạnh, hướng vào
các đối tượng khó khăn vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo
14


11

Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế-xã hội 12 tháng năm 2011
12
Cần lưu ý đến quy luật hiệu suất biên của đầu tư giảm dần, có nghĩa là các ngành thiếu vốn như
nông nghiệp có thể tạo ra hiệu suất biên của đầu tư cao hơn với các điều kiện khác không đổi.
13
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đây là sự kỳ diệu do phát huy được nội lực của nông dân vì 4% là
ngưỡng của tăng trưởng nông nghiệp với giới hạn về đất đai, và mức độ tăng trưởng này khó có thể
duy trì trong một thời gian dài nếu không có thêm các nguồn đầu tư mới.
14
Theo chuẩn của Chính phủ giai đoạn 2006-2010

5
đã giảm 18,1% năm 2004 xuống còn 10,7% năm 2010, trung bình mỗi năm giảm
1,1%.
Thu nhập bình quân một nhân khẩu hộ nông thôn tăng từ 3,3 triệu đồng/người
năm 2002 lên 12,9 triệu đồng/người năm 2010 tính theo giá hiện hành
15
. Từ năm 2001
đến 2011, tích lũy để dành của hộ nông thôn tăng lên gấp 5,3 lần, bình quân từ 3,2
triệu đồng/hộ lên 16,8 triệu đồng/hộ
16
.
Nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ, vùng miền Trung đã cơ
bản hoàn thành việc “xóa” nhà tranh tre, nứa lá; nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền
Trung đã cơ bản “ngói hoá” nhà ở, miền Nam đã bố trí cho khoảng 200 ngàn hộ dân
đang sống thường xuyên trong vùng ngập lũ và “sống chung với lũ” khi có lũ lớn. Năm
2002, tỷ lệ nhà bán kiên cố và nhà tạm ở khu vực nông thôn tương ứng là 59,2% và
28,2% thì năm 2010 đã giảm xuống còn 32,9% và 16,7%. Tỷ lệ nhà kiên cố tăng từ
12,6% năm 2002 lên 50,5% năm 2010
17

.
Kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn được tăng cường
Đầu tư thuỷ lợi đang hướng sang phục vụ đa mục tiêu. Trong 4 năm 2006-2010,
tổng vốn đầu tư qua Bộ Nông nghiệp và PTNT cho thủy lợi là 29.532,1 tỷ đồng (chiếm
80% tổng vốn thực hiện các dự án do Bộ quản lý). Qua 5 năm đầu tư đã tăng năng lực
tưới thêm 450 ngàn ha so với chỉ tiêu 400 ngàn ha; tăng năng lực tiêu thêm 234 ngàn
ha so với chỉ tiêu 200 ngàn ha, năng lực ngăn mặn tăng thêm 192 ngàn ha so với kế
hoạch 200 ngàn ha. Đến hết năm 2010, tổng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi đạt
3,45 triệu ha đất canh tác, đảm bảo tưới cho 6,92 triệu ha trồng lúa, khoảng 1,5 triệu ha
rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày, tiêu thoát nước cho 1,72 triệu ha đất nông
nghiệp, góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất, sản lượng và chất lượng các loại
cây trồng
18
.
Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, giao thông nông thôn có
bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 1999 đến nay làm mới được
24.167 km đường; sửa chữa, nâng cấp 150.506 km đường. Năm 2011 có tới 98,6% xã
có đường ôtô đến khu trung tâm, trong đó 87,3% xã có đường ô tô được nhựa, bê tông
hóa (năm 2006 là 70,1%).
Bên cạnh đó, mạng lưới điện đến các xã được đầu tư, mở rộng và đạt được những
kết quả đáng khích lệ. Nếu năm 1994 cả nước mới có 60,4% số xã và 50% số thôn có

15
Tổng cục Thống kê, Điều tra mức sống hộ gia đình, 2010
16
Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản, 2001, 2011
17
Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản, 2001, 2011
18
Bộ NN&PTNT, “Báo cáo quy hoạch nông nghiệp tới năm 2020”


6
điện, năm 2006 các con số tương ứng là 98,9% và 92,4%, thì đến năm 2011 có tới
99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện
19
. Ngoài ra, các cơ sở hạ tầng khác như chợ, y tế,
nước sạch cũng được cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người dân nông thôn.
2.2. Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành nông nghiệp nông thôn cũng còn
một số tồn tại, bao gồm:
Nông nghiệp tăng trưởng kém bền vững, khả năng cạnh tranh thấp: tăng trưởng
GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần: tốc độ tăng GDP nông nghiệp giai đoạn
1995 - 2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,83%/năm trong giai đoạn 2001 - 2005 và
3,4%/năm trong giai đoạn 2006-2011. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp cũng có xu hướng giảm, từ 66,35% năm 2000 xuống 57,6% năm 2011
(theo giá thực tế) và 45,6% năm 2000 xuống 38,3% năm 2011 (theo giá so sánh).
Năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp
còn thấp; kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến như kho tàng, sân phơi, bến bãi
v.v… còn kém phát triển, công nghiệp chế biến nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng
nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản
xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng rất thấp, chưa có thương hiệu, mẫu mã bao bì
chưa hấp dẫn.
Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thấp: hiện có quá nhiều doanh nghiệp
chế biến nông, thủy sản quy mô nhỏ, việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật,
vệ sinh ATTP chưa được coi trọng; tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất
lượng còn lớn.
Ngoài ra, vấn đề dịch bệnh trong cả trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng toàn ngành và thu nhập của nông dân.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm: tỷ trọng thuỷ sản

trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành tăng nhanh trong giai đoạn từ 2000 đến 2007
(đạt mức cao nhất là 26,5% năm 2007); nhưng bắt đầu từ năm 2008 lại có xu hướng
giảm, chỉ còn 22% vào năm 2008 và 24,6% năm 2011. Sản xuất nông nghiệp vẫn nặng
về trồng trọt (chiếm tỷ trọng 73%), chăn nuôi và dịch vụ mới chỉ chiếm 27%.
Kết cấu kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông (sản xuất nông nghiệp
chiếm 65%), các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn
chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa đủ sức thu hút tạo việc làm để thúc đẩy chuyển dịch lao động.

19
Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản, 2001, 2006 & 2011

7
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn yếu kém: nguồn vốn đầu tư
phát triển nông nghiệp và xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của người
dân, nhất là ở các vùng miền núi (đặc biệt là giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc).
Hệ thống thuỷ lợi cho sản xuất ở một số vùng còn chưa đáp ứng nhu cầu, tỷ lệ
diện tích cây hàng năm được tưới bằng công trình thuỷ lợi ở Duyên hải miền Trung
(44%), miền núi phía Bắc (32%), Tây Nguyên (25%) và Đông Nam bộ (51%). Vẫn
còn khoảng 20% dân số nông thôn chưa có nước hợp vệ sinh cho sinh hoạt v.v…
Đối với thuỷ sản, các công trình kết cấu hạ tầng được đầu tư ít về nguồn và thấp
về số tuyệt đối nên hiện nay một số cảng cá, bến cá đã quá tải và xuống cấp cần đầu tư
cải tạo, nâng cấp, mở rộng nhưng chưa có vốn.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn chậm đổi mới: việc chuyển đổi
phương thức hoạt động, tuyên truyền thành lập các HTX mới theo Luật hợp tác xã,
mặc dù đã có Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX và nhiều chính sách tháo gỡ của
Chính phủ, nhưng chậm được triển khai, nhiều nơi còn lúng túng. Các nông, lâm
trường việc triển khai chương trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả trên tinh
thần Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ còn chậm. Kinh tế

hợp tác phát triển rất chậm, chưa đóng vai trò mong đợi trong hỗ trợ hoạt động sản
xuất của nông hộ.
Kinh tế trang trại tuy tăng nhanh về số lượng nhưng lại chiếm một tỷ lệ không
đáng kể trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng cổ
phần hóa nhưng hiệu quả của mô hình tổ chức mới vẫn còn chưa thể hiện rõ, nhiều
doanh nghiệp vẫn còn lúng túng trong công tác quản lý tài chính, quản trị doanh
nghiệp.
Nông thôn chưa có chuyển biến rõ nét, đời sống một bộ phận nông dân chậm
được cải thiện: tuy đời sống của đại bộ phận dân cư nông thôn được nâng cao, nhưng
so với mặt bằng chung thì nông thôn ta vẫn nghèo và phát triển chậm, khoảng cách
chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn; yêu cầu về việc làm ngày càng
bức xúc.
Mặc dù tỷ lệ người nghèo giảm nhanh và đáng kể trong thời gian qua nhưng tốc
độ giảm số hộ nghèo của nông thôn thấp hơn so với thành thị khoảng 20%; vẫn còn
nhiều người dân sống dưới hoặc cận kề mức nghèo đói.
Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức: tình trạng sản
xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ, chất kích thích
sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng chăn nuôi tập trung, nuôi thủy sản

8
tập trung, các vùng chuyên canh cây trồng thâm canh như bông, nho, rau v.v… tạo ra
dư lượng các chất độc hại trong nông sản thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và
đột biến của sâu bệnh; tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng, đặc biệt ở các làng
nghề và chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
Bên cạnh đó, nhiều tài nguyên bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng suy
giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Tài
nguyên động vật quí hiếm, nguồn nước ngầm, nguồn lợi thuỷ sản trong nội địa và ở
các vùng biển ven bờ, một số loại khoáng sản đã có dấu hiệu bị khai thác quá mức.
2.3. Nguyên nhân của các vấn đề tồn tại

a) Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân còn bất cập:
thực tiễn phát triển đã đặt ra nhiều vấn đề mới, cơ chế thị trường bắt đầu hình thành
những mảng lợi ích khác nhau tạo ra sự thiếu đồng thuận về động lực đổi mới của các
nhóm đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên, công tác xây dựng lý luận vẫn chậm phát
triển, thiếu lý thuyết phát triển làm cơ sở vững chắc cho các định hướng chiến lược.
Hiện nay, Việt Nam chưa dự báo được những xu hướng biển đổi trong tương lai của
một số vấn đề quan trọng như mô hình phát triển nông thôn, phát triển nông nghiệp,
nhiều vấn đề vướng mắc kéo dài chưa có câu trả lời rõ ràng như giải pháp sắp xếp lại
nông lâm trường, giải pháp phát triển hợp tác xã v.v… đây là lí do dẫn đến tình trạng
không dứt khoát trong chỉ đạo thực hiện và sai sót khi thực hiện chính sách.
Chất lượng của chính sách chưa cao, triển khai chưa tốt: do lý luận phát triển
chưa hoàn chỉnh, công tác xây dựng chính sách chưa chuyên nghiệp, thiếu các nghiên
cứu phân tích căn cứ cụ thể, thiếu hệ thống giám sát theo dõi, thống kê số liệu đáng tin
cậy và kịp thời nên có một số chính sách thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá, một số chủ
trương chính sách không hợp lý thiếu tính khả thi nhưng không được điểu chỉnh bổ sung
kịp thời, khó đưa vào cuộc sống, gây ra nhiều bức xúc trong xã hội, gây nên tình trạng
lãng phí và tạo điều kiện trục lợi làm giàu bất chính.
Việc tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Nhìn chung, chủ trương chính sách
ban hành nhiều nhưng thực hiện chưa hết mức do thiếu nguồn lực tài chính, nhân lực
tương ứng, thiếu kiểm tra, đôn đốc. Trách nhiệm của các cấp uỷ và chính quyền các
cấp không được làm rõ và xử lý nghiêm túc khi không thực hiện tốt, còn tình trạng làm
được đến đâu hay đến đó, chạy theo thành tích. Kinh nghiệm tốt ít được tổng kết nhân
rộng, nhiều phong trào thi đua mang tính hình thức ít phát huy tác dụng trong thực
tiễn. Sự phối hợp của các ngành, các cấp, sự tham gia của các tổ chức đoàn thể còn yếu
kém.
Cải cách hành chính chậm, quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập: mặc dù Đảng
và Nhà nước đã tập trung đổi mới công tác tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ nhưng

9

nhìn chung quá trình cải cách hành chính vẫn diễn ra rất chậm so với nhu cầu biến đổi
nhanh của thực tế đời sống. Trong bộ máy nhà nước còn tư duy và cung cách quản lý
theo mệnh lệnh, quan hệ “xin cho”, tác phong quan liêu. Nhiều cơ quan nhà nước còn
tập trung trực tiếp chỉ đạo hoạt động sản xuất, kinh doanh; trực tiếp nắm kinh phí, tổ
chức, cán bộ, quản lý dự án, chương trình; trực tiếp cung cấp dịch vụ công. Trong khi
đó buông lỏng các hoạt động quản lý nhà nước như xây dựng quy hoạch, kế hoạch;
hoạch định chính sách, chiến lược; ban hành quy chế, quy phạm; giám sát thực hiện;
xử lý vi phạm v.v…
Bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu năng, tình trạng sát nhập hình thức, xu
hướng mở rộng bộ máy, tăng đầu mối quản lý vẫn diễn ra. Sự phân công, phối hợp giữa
các bộ ngành trong các hoạt động liên ngành còn bất hợp lý, ví dụ trong công tác quản lý
vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác quản lý tài nguyên môi trường, công tác quản lý
phòng chống thiên tai, quản lý khoa học công nghệ v.v… trong khi có nhiều mảng lại bị
bỏ trống như hoạt động quản lý thị trường, xúc tiến thương mại nông sản v.v… sự phối
hợp giữa các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương trong một số trường hợp
còn kém hiệu quả trong nhiều hoạt động như bảo vệ rừng, phòng chống dịch bệnh gia
súc v.v…
Bộ máy tổ chức ngành nông nghiệp nông thôn còn yếu: bộ máy quản lý nông
nghiệp ở Trung ương và cấp tỉnh thì lớn nhưng ở cấp huyện và cấp xã thì mỏng khó đủ
sức giải quyết các vấn đề đang đặt ra. Mặt khác đội ngũ cán bộ hưởng lương và trợ cấp
ngân sách có xu hướng tăng thêm, nhưng phần đông là cán bộ làm cho các tổ chức
chính trị - xã hội. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn hạn chế, 48,7% cán
bộ chưa qua đào tạo chuyên môn; 48,7% chưa qua đào tạo về lý luận chính trị; 55,5%
chưa được đào tạo về quản lý hành chính nhà nước.
Tình trạng hành chính hóa các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể quần chúng
một mặt làm cồng kềnh bộ máy nhà nước, tăng thêm gánh nặng về ngân sách, gây khó
khăn cho việc cải thiện tiền lương của cán bộ, mặt khác làm mất đi tính sáng tạo tự chủ
vốn có của cộng đồng làng xã, kéo dài sự chia rẽ phân tán của hơn 10 triệu hộ tiểu nông.
Ngoài ra, vai trò quản lý tự chủ của các tổ chức và sinh hoạt cộng đồng ở thôn bản suy
yếu dẫn đến tình trạng phá hoại tài nguyên tự nhiên, tệ nạn xã hội, xói mòn văn hoá cổ

truyền v.v…
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thấp: từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng chi tiêu
công cho ngành nông nghiệp chỉ chiếm 5 - 6% tổng chi ngân sách nhà nước, rất thấp
so với mức bình quân của các nước trong vùng (Hàn Quốc, Malaysia, Philippin trong
giai đoạn tương tự thường có mức đầu tư chính phủ cho lĩnh vực này trên 20%). Năm
2010, đầu tư cho nông nghiệp chiếm 6,9% tổng đầu tư từ ngân sách, tương đương 11%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong khi nông nghiệp đóng góp 21% GDP thì đầu
tư toàn xã hội cho nông nghiệp chỉ chiếm 2,9% tổng GDP. Đầu tư từ ngân sách của

10
Việt Nam cho nông nghiệp tương đương 1,4% tổng GDP thấp hơn so với mức trung
bình của Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan là 8 - 16% và các nước Đông Nam Á khác
khoảng 8 - 9% trong giai đoạn 1990 - 1993
20
.
b) Nguyên nhân khách quan
Xuất phát điểm của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thấp: nông nghiệp nông
thôn Việt Nam đi lên từ mức phát triển rất thấp, bị chiến tranh tàn phá kéo dài và chịu
hậu quả từ các sai lầm trong quản lý thời kỳ kinh tế kế hoạch quan liêu bao cấp. Vì
vậy, mặc dù đã có nhiều tiến bộ, năm 2011 xếp thứ 134 về GDP bình quân đầu
người
21
, 128 theo chỉ số HDI trong tổng số hơn 170 nước của thế giới, xếp hạng mức
trung bình, đứng thứ hạng thấp so với các nước Đông Nam Á
22
. Năm 2011, Việt Nam
có mức thu nhập là 1.411 USD/người/năm, thuộc các quốc gia có mức thu nhập trung
bình trên thế giới.
Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng nhiều mặt
vẫn còn mang nặng tính chất của một nền sản xuất tiểu nông, nhỏ lẻ, phân tán, có nơi

thậm chí vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp và đang dần chuyển sang sản xuất hàng hoá
quy mô lớn hơn; công nghệ, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, nhân lực chưa được đào tạo.
Diễn biến thời tiết, môi trường, dịch bệnh, thị trường phức tạp: trong thời gian
gần đây, do diễn biến xấu của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và phát triển
không bền vững, diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp hàng năm gây ra thiệt hại lớn
về người và của cho sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Tần suất thiên tai
ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy mô ngày càng lớn. Ở nước ta trong các
năm qua liên tục xuất hiện bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở đất, hạn hán, cháy rừng v.v…
Năm 2011, thiên tai đã gây thiệt hại hơn 10 tỷ đồng, 54 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất
trắng, hơn 330 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Trong 8 tháng đầu năm 2012, thiên
tai cũng xẩy ra thường xuyên, làm ngập trên 100 nghìn ha lúa và hoa màu và gây nhiều
thiệt hại lớn về người và của
23
. Trong tương lai, xu hướng nóng lên toàn cầu sẽ tiếp tục
gây thiệt hại lớn cho Việt Nam.
Thêm vào đó là tình trạng dịch bệnh diễn biến phức tạp trên quy mô rộng cho cả
cây trồng, vật nuôi và con người. Trên lúa xuất hiện dịch rầy nâu, vàng lùn xoắn lá
v.v… trên gia súc xuất hiện bệnh lở mồm long móng, lợn tai xanh, cúm lợn trên gia

20
Bộ NN&PTNT, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm
nhìn đến 2030, 2011
21

22

23
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo tháng - TCTK

11

cầm bệnh cúm tiếp tục đe dọa v.v… Các bệnh dịch này chẳng những gây thiệt hại trực
tiếp cho sản xuất mà một số loại bệnh của gia súc, gia cầm như cúm gia cầm, lở mồm
long móng, tai xanh v.v… có nguy cơ lây lan sang cho người, gây khó khăn ổn định
kinh tế xã hội.
Chất lượng kết cấu hạ tầng và dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn thấp: do
công tác quy hoạch khu dân cư ở nông thôn chưa đuợc chú trọng đúng mức nên hầu
hết nông thôn phát triển tự phát, thiếu sự tính toán hài hoà và hợp lý về kết cấu không
gian, kế thừa văn hoá truyền thống, bảo vệ môi truờng, đảm bảo các chức năng giao
thông, cấp thoát nước, cung cấp năng lượng v.v… Nếu không có sự chấn chỉnh kịp
thời sẽ dẫn đến những lệch lạc khó sửa chữa, tốn kém và phát triển không bền vững
trong tương lai.
Nhìn chung, số lượng kết cấu hạ tầng và dịch vụ ở nông thôn còn thiếu, chất
lượng còn kém nhiều so với thành phố nên hiệu quả sử dụng không cao, đang là trở
ngại đối với sản xuất và tạo nên sự khác biệt đáng kể về cơ hội hưởng thụ về dịch vụ
phục vụ giữa nông thôn và đô thị. Đây là một trong những nguyên nhân chính cản trở
thu hút đầu tư về nông thôn và đẩy nhanh quá trình di cư từ nông thôn ra đô thị.
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
3.1. Định hướng phát triển
Xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn,
hướng về xuất khẩu, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao,
đáp ứng nhu cầu thị trường.
3.2. Giải pháp
a) Đổi mới công tác quy hoạch, đầu tư tập trung, tăng cường liên kết giữa
các tác nhân trong chuỗi giá trị
- Tại các vùng chuyên canh nông nghiệp, quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng phát
triển các cụm trọng điểm nông nghiệp. Ở mỗi nơi, có các tổ hợp liên kết nông
nghiệp, tại đây có các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư
nông nghiệp và các cơ sở bán hàng, cơ sở cung cấp dịch vụ nghiên cứu, đào tạo,
tư vấn v.v… áp dụng công nghệ, tiêu chuẩn cao, khép kín xử lý chất thải và tái
tạo năng lượng. Xung quanh các trung tâm này là các vùng cung cấp nguyên

liệu đồng bộ, liên kết bằng hợp đồng với khu trung tâm. Các cụm kết nối phục
vụ trực tiếp với thị trường trong và ngoài nước bằng hệ thống phân phối.
- Ở những vùng mật độ dân cư cao như các vùng ven đô, Đồng bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ cần quy hoạch và xây dựng các khu
chăn nuôi tập trung tách khỏi khu dân cư. Tại đây, xây dựng cơ sở hạ tầng cho
các tổ chức chăn nuôi lớn bao gồm: trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi, trại

12
chăn nuôi của HTX, hệ thống giết mổ, chế biến gia súc gia cầm. Tập trung các
hoạt động dịch vụ phục vụ thú y, kiểm soát dịch bệnh, cung cấp giống, xử lý
môi trường tại các khu vực này.
- Ở những vùng có lợi thế như đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung
Bộ, quy hoạch vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản. Tại đây, xây dựng cơ sở
hạ tầng thủy lợi và giao thông hoàn chỉnh để tập trung các trang trại, các công ty
sản xuất quy mô trung bình và lớn, áp dụng công nghệ nuôi trồng thủy sản thâm
canh và bán thâm canh, áp dụng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo
vệ môi trường, đáp ứng các yêu cầu quốc tế về xuất xứ, nguồn gốc. Tại các khu
vực này, xây dựng các khu công nghiệp chế biến thủy hải sản, các trạm trại dịch
vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản.
- Ở những khu vực gần các ngư trường đánh bắt quan trọng ở Duyên hải Trung
Bộ, Nam Bộ, và trên một số hải đảo chính hình thành các trung tâm hậu cần
nghề cá. Tại đây, xây dựng hệ thống cầu cảng phục vụ tàu đánh cá, xây dựng
các công trình và cơ sở dịch vụ như cung cấp nhiên liệu, đá, thực phẩm, kho
chứa, cơ sở thương mại, cơ khí sửa chữa, thông tin liên lạc, kiểm tra chất lượng
vệ sinh v.v… nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ hậu cần cho tàu đánh bắt xa bờ,
mua bán thủy sản và tránh trú bão.
- Ở những vùng chuyên canh rừng sản xuất nguyên liệu gỗ phục vụ chế biến ở
Tây Bắc (giấy, ván nhân tạo), Đông Bắc (giấy, dăm, trụ mỏ, đồ mộc), Bắc
Trung Bộ (dăm giấy, nhựa thông, tre, mây), Nam Trung Bộ (ván nhân tạo, bột
giấy), Đông Nam Bộ (nguyên liệu giấy), Đồng bằng sông Cửu Long (bột giấy,

ván nhân tạo, đồ mộc), xây dựng đồng bộ các cơ sở hạ tầng phục vụ rừng sản
xuất như thủy lợi, giao thông, điện v.v… Tại từng vùng, xây dựng các cụm
công nghiệp chế biến lâm sản. Tại đây, tập trung các nhà máy chế biến lâm sản
quy mô vừa và lớn cùng phối hợp sản xuất một số ngành hàng chính. Mức độ
chế biến sâu khác nhau (cưa xẻ, nghiền bột, dăm gỗ cho đến làm ván ép, chế
biến đồ gỗ thành phẩm) kết hợp chế biến phế phụ phẩm (cồn, hóa chất, nấm,
năng lượng v.v…). Xây dựng tại các cụm này các ngành công nghiệp phụ trợ
(cung cấp nguyên liệu vật tư, sửa chữa cơ khí v.v…) và các dịch vụ hỗ trợ (đào
tạo, nghiên cứu, thương mại v.v…)
- Ở những vùng đồng bằng có điều kiện như Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
Bộ, Nam Trung Bộ xây dựng chương trình nghiên cứu xác định lợi thế và thị
trường, tập trung phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp bảo vệ môi trường,
có giá trị gia tăng cao, thu hút lao động và gắn với dịch vụ du lịch (đồ gốm, sứ,
thủ công mỹ nghệ v.v…). Kiên quyết chấm dứt các ngành nghề gây ô nhiễm
môi trường, phá hoại tài nguyên thiên nhiên (sản xuất vật liệu xây dựng, luyện
thép, chế biến thực phẩm v.v…). Quy hoạch các làng nghề rải rác thành từng

13
cụm theo phân cấp chức năng (làng hạt nhân chế biến sâu và thương mại, làng
vệ tinh gia công sản xuất, làng sản xuất nguyên liệu). Hệ thống này liên kết với
nhau thành các chuỗi sản xuất hàng hóa và đảm bảo xử lý môi trường.
b) Tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh,
đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước
- Căn cứ vào đề án An ninh lương thực, quy định rõ diện tích đất lúa giao cho
từng địa phương, trước hết ở các vùng chuyên canh sản xuất lúa tại hai vùng
đồng bằng chính. Tại đây tiến hành dồn điền đổi thửa để giảm số thửa trong một
hộ xuống tối đa 2 thửa. Hỗ trợ nông dân xây dựng đồng ruộng (san bằng và làm
thủy lợi). Xây dựng hoàn chỉnh giao thông và thủy lợi. Tại Đồng bằng sông
Cửu Long, chuyển toàn bộ hệ thống tưới động lực hiện nay sang tưới điện. Tại
các vùng chuyên canh này sẽ từng bước áp dụng quy trình sản xuất lúa mới tiết

kiệm nước và giảm phát thải. Áp dụng chính sách khuyến khích nông dân tại
các vùng chuyên canh lúa tập trung hóa ruộng đất, áp dụng cơ giới hóa và
khuyến khích lao động ra khỏi vùng. Xây dựng các cụm chế biến và kho tàng để
đảm bảo chứa được 30% lúa cho một vụ. Xây dựng hệ thống sấy đáp ứng nhu
cầu cho vụ hè thu. Các công trình kho, xay xát, sấy được tập trung xây dựng
hoàn chỉnh thành 3 vùng (Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, bán đảo Cà
Mau) gắn với hệ thống giao thông. Ngoài ra, ở mỗi vùng hình thành hệ thống
trạm trại sản xuất giống nguyên chủng, trạm trại bảo vệ thực vật và khuyến
nông. Xây dựng Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long thành Viện Quốc gia, nâng
cấp cảng Cần Thơ thành cảng xuất khẩu lúa gạo cho toàn vùng.
- Với những cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế và thị trường thế giới có
nhu cầu (cà phê, điều, tiêu, cao su, chè v.v ) quy hoạch xác định rõ quy mô và
địa bàn thích hợp cho từng cây (cà phê với sản lượng 1,1 triệu tấn, điều 600
ngàn tấn, hồ tiêu đạt sản lượng 120 ngàn tấn, cao su đạt sản lượng mủ 1,5 triệu
tấn, chè búp tươi 1 triệu tấn) tập trung vào địa bàn Tây Nguyên, Đông Nam bộ,
Trung du miền Núi phía Bắc. Tại đây, phát triển kinh tế trang trại và doanh
nghiệp sản xuất lớn. Xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông và thủy lợi
phục vụ sản xuất thâm canh, hình thành một số cụm công nghiệp và dịch vụ
phục vụ sản xuất. Tại mỗi cụm, bố trí các nhà máy chế biến, các nhà máy công
nghiệp phụ trợ, các công trình dịch vụ và hệ thống thương mại, tập trung xây
dựng tại TP.HCM hệ thống các sàn giao dịch cho các nông sản có lợi thế trên.
- Bộ Nông nghiệp và PTNT tiến hành dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chăn
nuôi trong nước 5 năm/lần và điều tra, điều chỉnh hàng năm, thông báo rộng rãi
cho người sản xuất. Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ đẩy mạnh chăn nuôi
lợn, gà theo hình thức trang trại công nghiệp, gia trại tập trung. Đồng bằng sông
Cửu Long, phát triển chăn nuôi vịt tập trung thâm canh, chấm dứt nuôi vịt chạy

14
đồng. Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ như trâu, bò thịt, bò sữa ở Trung du
miền Núi phía Bắc và Tây Nguyên, dê ở miền Núi phía Bắc và miền Trung, cừu

ở miền Trung. Trước mắt, áp dụng chính sách ưu tiên tiếp thu nguồn giống vật
nuôi mới từ nước ngoài. Đồng thời, tăng cường năng lực nghiên cứu của các cơ
quan nghiên cứu trong nước, thu hút các cơ quan nghiên cứu nước ngoài để
nâng cao năng suất và chất lượng chăn nuôi. Tiến hành thử nghiệm và nghiên
cứu xây dựng chính sách để nhân rộng việc thuần hóa một số động vật hoang dã
có khả năng chăn nuôi và có nhu cầu trên thị trường.
- Trên các diện tích lúa sản xuất kém hiệu quả tại các vùng đồng bằng chính,
mạnh dạn chuyển đổi thành đồng cỏ thâm canh và trồng các loại cây tinh bột
làm thức ăn gia súc. Tại các vùng trung du, miền núi phát triển cây có củ, nhất
là khoai lang, làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Đầu tư khoa học công nghệ
tăng năng suất thức ăn chăn nuôi, giành một tỉ lệ thích đáng sản phẩm thủy sản
làm chất bổ sung protein cho thức ăn chăn nuôi. Tiến hành khảo nghiệm để
triển khai chính sách chấp nhận sản phẩm biến đổi gen làm thức ăn chăn nuôi.
- Tập trung phần lớn lực lượng thú y vào công tác đảm bảo công tác kiểm dịch tại
các cửa khẩu và cửa ngõ các thị trường quan trọng, đảm bảo an toàn sinh học và
vệ sinh an toàn thực phẩm. Phân vùng chăn nuôi quốc gia thành từng khu an
toàn, cô lập với nhau và có biện pháp an toàn khi xảy ra dịch.
c) Phát triển ngành lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế đột phá tại một số
vùng trên cả nước
- Phân chia kế hoạch phát triển 3 loại rừng cho từng địa phương theo quy hoạch.
Có chính sách hỗ trợ đặc biệt thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây
dựng các vùng rừng sản xuất nguyên liệu tập trung, thâm canh đa mục đích ở
những nơi có quỹ đất được quy hoạch. Khuyến khích việc đầu tư phát triển các
vùng chuyên canh nguyên liệu gỗ áp dụng công nghệ cao, sử dụng giống và kỹ
thuật canh tác cải tiến, thâm canh, quản lý sử dụng bền vững. Với những vùng
nhạy cảm về an ninh quốc phòng, đặc biệt ưu tiên cho đầu tư của doanh nghiệp
trong nước. Rà soát lại quỹ đất của các nông lâm trường, đất trống đồi núi trọc,
đất bãi bồi, tổ chức công tác thu hồi bồi thường để tạo quỹ đất thu hút các nhà
đầu tư.
- Tập trung đầu tư phát triển rừng phòng hộ ở những vùng đầu nguồn nhạy cảm

về môi trường tại Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ; rừng
phòng hộ ven biển ở các vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ,
Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo duy trì cân bằng sinh
thái, bảo vệ đất, môi trường nước và khí hậu, phòng chống thiên tai và tác động
của biến đổi khí hậu. Nhà nước cấp vốn và thực hiện giám sát bằng hình thức
đấu thầu cạnh tranh để các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế kể cả cộng

15
đồng tham gia thực hiện. Kết hợp cải tạo, làm giàu rừng tự nhiên với khai thác
vũng bền để vừa bảo vệ tài nguyên rừng, vừa có nguồn thu hợp lý tái sản xuất
mở rộng cho người làm lâm nghiệp theo nguyên tác “khai thác rừng giàu, dựa
trên tốc độ tăng trưởng”. Đối với rừng nghèo kiệt và mới phục hồi, phải
“khoanh nuôi, cải tạo, làm giàu”.
- Nhà nước tập trung đầu tư và quản lý để bảo tồn nguyên trạng rừng đặc dụng,
phát triển các hệ sinh thái đặc thù, bảo tồn qũy gen và bảo tồn giá trị đa dạng
sinh học. Đối với 3 loại rừng trên, kết hợp với phát triển du lịch sinh thái, các
dịch vụ môi trường khác. Kết hợp bảo vệ tại chỗ và xây dựng vùng đệm.
- Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn trồng cây bóng mát và chắn gió kết hợp lấy gỗ
dọc theo các công trình giao thông, thủy lợi, trong đô thị, trong khu dân cư tại
các vùng đồng bằng và trung du. Xây dựng chính sách khuyến khích nhân dân
trồng phân tán cây lấy gỗ có giá trị.
d) Phát triển thủy sản theo hướng tăng tỉ trọng của thủy sản trong cơ cấu
toàn ngành
- Tiến hành quy hoạch và phân chia rõ quy mô tối đa, địa bàn hợp lý cho từng địa
phương ven biển phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ (chủ yếu là tôm sú và
tôm chân trắng) và nước mặn (cá biển, tôm hùm, bào ngư v.v…). Xây dựng
chương trình nghiên cứu để xác định công nghệ nuôi trồng và sản xuất giống
nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng suất, tăng hiệu quả,
đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường.
- Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt với đối tượng nuôi chính là cá tra, rô

phi đơn tính, tôm càng xanh; nuôi trồng thủy sản nước lợ. Mỗi nhà máy chế
biến và xuất khẩu thủy sản nước ngọt có trách nhiệm kí kết hợp đồng với nông
dân để hình thành vùng nguyên liệu, đảm bảo nắm vững xuất xứ nguyên liệu,
cân đối nguồn hàng, bình đẳng giá cả giữa hai bên. Nhà nước có chính sách ưu
đãi tín dụng cho nông dân thông qua nhà máy để đầu tư phát triển sản xuất.
- Tiến hành nghiên cứu thị trường, làm tốt công tác thông tin để sản xuất cân đối
với nhu cầu. Hình thành chợ bán buôn thủy sản ở các vùng chuyên canh lớn.
- Đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh sản nhân tạo, di nhập các giống có năng suất
cao, phù hợp điều kiện sinh thái và có thị trường. Xây dựng hệ thống thú y thủy
sản, kiểm dịch, giám sát tình hình dịch bệnh thủy sản; đảm bảo chủ động về
nguồn giống sạch bệnh, kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi
trường nuôi gắn với cơ sở sản xuất nuôi trồng thủy sản, hiện đại hóa cơ sở chế
biến và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm.

16
- Xây dựng đội tàu hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế đánh bắt biển xa theo
hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng, kết hợp đánh bắt với
du lịch, phát triển kinh tế xã hội tại các vùng ven biển, hải đảo v.v… bảo vệ
nguồn lợi tự nhiên và cân bằng sinh thái môi trường.
- Xây dựng và đưa vào họat động hệ thống khu bảo tồn biển và nội địa kết hợp
với các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Xây dựng lực lượng
kiểm ngư mạnh để kết hợp bảo vệ nguồn lợi với bảo vệ ngư dân và an ninh
quốc phòng. Chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng chất nổ, chất độc, xung điện khai
thác hải sản và các nghề khai thác mang tính chất hủy diệt nguồn lợi thủy sản.
Quản lý chặt nguồn lợi thủy sản để giảm thiểu, khống chế mức độ đánh bắt ven
bờ, nội địa trong phạm vi đảm bảo bền vững và tái tạo nguồn lợi, gắn với hoạt
động du lịch. Quy hoạch và quản lý một số vùng cấm khai thác, khai thác có
thời hạn và khu bảo tồn biển, và trong nội địa, giảm số lượng tàu thuyền khai
thác ven bờ phù hợp với khả năng khai thác cho phép của trữ lượng. Tiến đến

phục hồi và tái tạo nguồn lợi thủy sản. Hỗ trợ để chuyển phần lớn cư dân sống
bằng đánh bắt ven bờ sang đánh bắt biển xa, nuôi trồng thủy sản và trở thành
lao động phi nông nghiệp.
e) Phát triển những ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ để nâng cao giá trị
gia tăng cho hàng nông sản
Công nghiệp sản xuất vật tư đầu vào phục vụ nông nghiệp
- Nghiên cứu xác định hiệu quả cân đối giữa vật tư sản xuất trong nước với vật tư
cần nhập khẩu. Áp dụng chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước phát
triển ngành cơ khí sản xuất, sửa chữa máy móc nông nghiệp, tàu thuyền phục vụ
thủy sản. Đặc biệt ưu tiên hỗ trợ những ngành áp dụng công nghệ cao, có tỷ lệ
nội địa hóa cao, thu hút đầu tư trong nước, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Đặc biệt hỗ trợ cho các làng nghề, các hộ chuyên ở nông thôn, tham gia tổ chức
sản xuất và làm dịch vụ bảo dưỡng, nâng cấp các công cụ sản xuất tại địa
phương.
- Đề ra chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công
nghiệp sản xuất sửa chữa máy móc nông nghiệp, chế biến thức ăn chăn nuôi,
thuốc thú y và các loại vắc xin phòng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón đáp
ứng nhu cầu xuất trong nước. Song song với tăng cường sản xuất, đẩy mạnh
việc quản lý tiêu chuẩn chất lượng các loại vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp,
kể cả sản xuất trong nước và nhập khẩu. Cải tiến hệ thống quản lý thị trường,
phân phối lưu thông các vật tư nông nghiệp chiến lược theo hướng chuyển từ
vai trò của các doanh nghiệp lớn sang cho các tổ chức đại diện cho người nông
dân và người sản xuất.

17
- Tổ chức nghiên cứu khảo kiểm nghiệm máy, hình thành hàng rào kỹ thuật và
giải pháp thực hiện kiên quyết để ngăn chặn máy móc rẻ, chất lượng thấp,
không an toàn, ô nhiễm môi trường nhập khẩu vào Việt Nam. Công khai tiêu
chuẩn về kỹ thuật sử dụng, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường để tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu máy móc mà trong nước sản xuất

không có hiệu quả.
Công nghiệp chế biến sản phẩm đầu ra của ngành nông nghiệp
- Áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt (hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo lao
động, cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, đơn giản
hóa thủ tục, miễn giảm thuế doanh nghiệp ở mức cao nhất v.v…) để thu hút đầu
tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước phát triển công nghiệp chế
biến. Đặc biệt khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu,
áp dụng công nghệ hiện đại, làm ra các sản phẩm có giá trị cao, mở ra hướng
mới về phát triển thị trường.
- Hình thành một số đề án phát triển để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
cung cấp dịch vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo nghề cho một số khu công
nghiệp chế biến tại các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp lớn ở Đồng bằng
sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Tăng
đáng kể tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến nông sản trong cơ cấu kinh
tế của ngành công nghiệp nhằm tạo việc làm và thu nhập cho cư dân nông thôn,
nâng cao giá trị hàng hóa nông sản.
- Nghiên cứu khả năng đầu tư những ngành công nghiệp chế biến có giá trị cao
mà Việt Nam có tiềm năng phát triển và có thị trường (rau quả, sản phẩm chăn
nuôi, dược phẩm, đồ uống, cao su thành phẩm v.v…).
f) Nâng cao năng lực thể chế cho phát triển nông nghiệp nông thôn
- Với mỗi ngành hàng chính trên bao gồm cả lúa gạo, tổ chức lại hệ thống quản lý
ngành hàng, đứng đầu là hội đồng ngành hàng, với đại diện của các cơ quan
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và đơn vị sản xuất, nông dân. Các cơ quan này
sẽ đóng vai trò xây dựng chính sách, điều hành thị trường và làm đối tác chính
trong giao dịch với quốc tế.
- Hình thành hiệp hội ngành hàng để tổ chức các đại diện của các tác nhân chính
trong mỗi ngành hàng (sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu dùng v.v ) gồm cả
người sản xuất lớn lẫn người sản xuất nhỏ trong và ngoài nước. Chuyển giao
một số chức năng dịch vụ công của nhà nước cho các hiệp hội (xúc tiến thương
mại, khuyến nông, dự báo thị trường, tiêu chuẩn chất lượng, xử lý tranh chấp

v.v ).

18
- Chuyên môn hóa nông dân, chỉ có nông dân có đủ trình độ tay nghề chuyên
môn mới được đăng ký chính thức trở thành hội viên Hội nông dân và được
hưởng các quyền lợi nhà nước ưu tiên cho nông dân (như sử dụng đất nông
nghiệp, được tích tụ đất nông nghiệp, được bảo hiểm nông nghiệp, được vay
vốn phát triển sản xuất v.v…). Hỗ trợ các hộ nông nghiệp làm ăn không hiệu
quả chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp (đào tạo nghề, vay vốn chuyển
nghề v.v ).
- Tiếp tục phát triển kinh tế hộ lên một bước mới theo hướng chuyên môn hóa
sản xuất nông nghiệp, sản xuất quy mô lớn. Tạo điều kiện cho hộ dồn điền đổi
thửa, cho thuê đất, tích tụ đất, chuyển bớt các hộ làm ăn không hiệu quả từ sản
xuất nông nghiệp sang ngành nghề và sản xuất phi nông nghiệp, áp dụng khoa
học công nghệ. Đưa sản xuất trang trại, gia trại chăn nuôi, thủy sản tập trung ra
khỏi khu dân cư, hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa, các vùng nguyên
liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu.
- Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các
mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa
học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ
phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá
lớn.
- Ban hành chính sách đặc biệt ưu tiên khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác
(vay vốn, đào tạo, thuê đất, ưu đãi kinh doanh trong một số lĩnh vực) để đảm
bảo tham gia hợp tác xã, hộ nông dân sẽ được hưởng những ưu đãi hơn hẳn. Hỗ
trợ kinh tế hợp tác về đào tạo cán bộ quản lý, lao động; tiếp cận các nguồn vốn,
trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường, xúc tiến
thương mại và các dự án phát triển nông thôn; hợp tác xã phải làm tốt các dịch
vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.


19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ NN và PTNT, Đề án: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tăng giá trị gia
tăng và phát triển bền vững, 2011
Bộ NN và PTNT, Báo cáo kết quả thực hiện 8 tháng năm 2012 ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 2012
Bộ NN và PTNT, Báo cáo kết quả thực hiện 12 tháng năm 2011 ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 2012
Bộ NN&PTNT, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030, 2011
Bộ TNMT, Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất 2010-2020, 2011
Đặng Kim Sơn, Giá trị gia tăng cao – nền nông nghiệp Việt Nam tương lai, 2011
Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 12 tháng năm 201, 2012
Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2012, 2012
Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 7 năm 2012, 2012
Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 8 năm 2012, 2012
Tổng cục thống kê, Báo cáo kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2010, 2011
Tổng cục thống kê, Báo cáo kết quả Tổng điều tra Nông nghiệp nông thôn 2006 và
2011, 2012.

×