Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty may hồ gươm.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.43 KB, 135 trang )

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ 21- kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn nhưng cũng nhiều thách thức, xu
hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đang là một vấn đề diễn ra sôi động và cấp bách.
TRƯỚC XU HƯỚNG ĐÓ, ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM NGÀNH DỆT MAY ĐƯỢC COI LÀ MỘT
TRONG NHỮNG NGÀNH RẤT QUAN TRỌNG ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC.
MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC VÀ NHIỆM VỤ CỦA
NGÀNH LÀ GÓP PHẦN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI
CỦA ĐẢNG, GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI
TRONG SỰ NGHIỆP CNH- HĐH ĐẤT NƯỚC, ĐẢM
BẢO NHU CẦU TOÀN XÃ HỘI ĐANG KHÔNG
NGỪNG TĂNG LÊN VỀ MỌI MẶT, KHÔNG NGỪNG
TĂNG CƯỜNG SẢN XUẤT, XUẤT KHẨU, GIẢI
QUYẾT CÔNG ĂN VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG- VẤN ĐỀ MÀ TOÀN XÃ HỘI ĐANG QUAN
TÂM. VIỆC CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ TỪ CƠ CHẾ
KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG SANG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG CÓ SỰ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC,
CÙNG XU THẾ MỞ CỬA HỘI NHẬP VỚI NỀN KINH
TẾ THẾ GIỚI. CÔNG TY MAY HỒ GƯƠM LÀ MỘT
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐÃ ĐƯỢC CỔ PHẦN
HOÁ TRỰC THUỘC TỔNG CÔNG TY MAYVIỆT NAM
ĐANG ĐỨNG TRƯỚC NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC LỚN LAO TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH
GAY GẮT. ĐỂ CÓ THỂ TỒN TẠI, ĐỨNG VỮNG VÀ
PHÁT TRIỂN ĐÒI HỎI CÔNG TY PHẢI XÁC ĐỊNH
ĐƯỢC CHO MÌNH NHỮNG PHƯƠNG THỨC HOẠT
ĐỘNG, NHỮNG CHÍNH SÁCH, NHỮNG CHIẾN LƯỢC


CẠNH TRANH ĐÚNG ĐẮN

1
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
NHẬN THỨC ĐƯỢC TẦM QUAN TRỌNG CỦA
XU THẾ HỘI NHẬP VÀ CẠNH TRANH CŨNG NHƯ
MONG MUỐN ĐƯỢC ĐÓNG GÓP NHỮNG Ý KIẾN ĐỂ
CÔNG TY MAY HỘ GƯƠM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH. SAU MỘT THỜI GIAN
THỰC TẬP TẠI CÔNG TY MAY HỒ GƯƠM, EM
QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI “ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY MAY HỒ GƯƠM” ĐỂ LÀM ĐỀ TÀI
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỦA MÌNH.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3
chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao năng
lực canh tranh.
Chương II: Thực trạng và khả năng cạnh tranh của Công ty may
Hồ Gươm
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của Công ty may Hồ

CHƯƠNG I
những lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh
I. Lý thuyết cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trườngViệt Nam hiện nay, các
khái nệm liên quan đến cạnh trạnh còn rất khác nhau.Theo Mác“cạnh tranh

là sự phấn đấu ganh đua găy gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những

2
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt được những lợi
nhuận siêu ngạch”, có các quan niệm khác lại cho rằng “cạnh tranh là sự
phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho
tốt hơn các doanh nghiệp khác”(Theo nhóm tác giả cuốn “nâng cao năng lực
cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước”). Theo kinh tế chính trị học “cạnh
tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ nhằm giành lấy thị trường,
khách hàng cho doanh nghiệp mình”. Để hiểu một cách khái quát nhất ta có
khái niệm như sau:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cạnh tranh
được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị
trường nhằm giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản
phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng
so với các đối thủ cạnh tranh .
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh
tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất
hiện và len lỏi vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi
trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lúc này đầy
sự biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp bách, sôi
động trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong bất cứ
một lĩnh vực nào, bất cứ một hoạt động nào của con người
cũng nổi cộm lên vấn đề cạnh tranh. Ví như các quốc gia
cạnh tranh nhau để giành lợi thế trong đối ngoại, trao đổi,

các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để lôi cuốn khách hàng
về phía mình, để chiếm lĩnh những thị trường có nhiều lợi
thế và con người cạnh tranh nhau để vươn lên khẳng định

3
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
vị trí của mình cả về trình độ chuyên, môn nghiệp vụ để
những người dưới quyền phục tùng mệnh lệnh, để có uy tín
và vị thế trong quan hệ với các đối tác. Như vậy, có thể nói
cạnh tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực của
cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân riêng lẻ
đến tổng thể toàn xã hội. Điều này xuất phát từ một lẽ
đương nhiên nước ta đã và đang bước vào giai đoạn phát
triển cao về mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá,
mà bên cạnh đó cạnh tranh vốn là một quy luật tự nhiên và
khách quan của nền kinh tế thị trường, nó không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là nguồn
gốc dẫn tới cạnh tranh, cạnh tranh là động lực để thúc đẩy
sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Bởi vậy để giành
được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên động não,
tích cực nhạy bén và năng động phải thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, bổ
sung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết
bị máy móc, loại bỏ những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu và
điều quan trọng phải có phương pháp tổ chức quản lý có
hiệu quả, đào tạo và đãi ngộ trình độ chuyên môn, tay nghề
cho người lao động. Thực tế cho thấy ở đâu thiếu có sự
cạnh tranh thường ở đó biểu hiện sự trì trệ và yếu kém sẽ

dẫn doanh nghiệp sẽ mau chóng bị đào thải ra khỏi quy luật
vận động của nền kinh tế thị trường. Để thúc đẩy tiêu thụ
và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá các doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu,
thị hiếu của khách hàng. Do đó, cạnh tranh không chỉ kích
thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn

4
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng
sản phẩm và chất lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày
càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội được
tốt hơn. Cạnh tranh là một điều kiện đồng thời là một yếu
tố kích thích hoạt động kinh doanh phát triển. Bên cạnh
những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiều hạn chế và
tiêu cực đó là sự phân hoá sản xuất hàng hoá, làm phá sản
những doanh nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn do
thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ thấp
và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp
gặp những rủi ro khách quan mang lại như thiên tai, hoả
hoạn.v.v hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh, điều kiện không
thuận lợi.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một
cách chung nhất đó là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ
thể đang hoạt động trên thị trường với nhau, kinh doanh
cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự
thay thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số
và lợi nhuận. Các doanh nghiệp thương mại cần nhận thức
đúng đắn về canh tranh để một mặt chấp nhận canh tranh

theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tranhd
tình trạng cạnh tranh bất hợp lý dẫn đến làm tổn hại đến lợi
ích cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
Doanh nghiệp thương mại mang tính đặc thù phải
chịu sự cạnh tranh quyết liệt hơn so với các loại hình doanh
nghiệp khác.
2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh

5
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh
hầu như không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh
nghiệp hầu như đã được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho
mọi hoạt động, kể cả khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này
cũng thuộc về nhà nước. Vì vậy, vô hình dung nhà nước đã tạo ra một lối
mòn trong kinh doanh, một thói quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không
phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có khách hàng tự tìm đến doanh
nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực cho doanh nghiệp phát
triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nước ta
đã chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh tế thị
trường được hình thành thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc
biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu
dùng cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với nền kinh, tế cạnh không chỉ là môi trường và động lực của
sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng
năng suất lao động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan
hệ xã hội, cạnh tranh còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các

doanh nghiệp. Bên cạnh đó cạnh tranh góp phần gợi mở những nhu cầu
mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của nhứng sản phẩm mới. Điều đó
chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được nâng cao về chính trị, về
kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu và
rộng. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì
nó vẫn còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh
tạo sự phân hoá giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có
những manh mối làm ăn vi phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, lậu

6
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật
nghiêm cấm.
2.2. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt
động kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại
và đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những
chiến lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi
mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh
tranh để giành giật khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm
của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu người
tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng,
kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo
với mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát
triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác maketing
bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường để doanh

nghiệp xác định được nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà
thị trường cần chứ không sản xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh
tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao
hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải
áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh
doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công
nhân, cử các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh
thắng lợi sẽ tạo cho doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường
tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng
sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà phát triển mạnh cho nền
kinh tế.

7
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
2.3. Đối với ngành
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành dệt may
nói riêng cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển,
nâng cao chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo
bước đà vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Nhất là đối vơí ngành
dêth may- là một ngành có vai trò chủ lực trong sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát
triển trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành đó là thu hút
được một nguồn lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy
mô hoạt động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở
tầm vĩ mô hay vi mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố
cạnh tranh .
2.4 Đối với sản phẩm.
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng

cao về chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho
lợi ích của người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng
nhiều hơn. Ngày nay các sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng
nhu cầu trong nước mà còn cung cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua
những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu sót ở bất cứ
một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực sự tạo ra
những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh tranh là một yếu tố
rất cần có sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước để phát huy những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn
đến độc quyền và gây lũng loạn, xáo trộn thị trường.
Các hình thức cạnh tranh

8
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức khác nhau:
3.1 Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thàn ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh
diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi
ích của mình. Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi
nhuận còn người mua muốn mua với giá thấp nhưng chất lượng vẫn được
đảm bảo và mức giá cuối cùng vẫn là mức giá thoả thuận giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên
cơ sở quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc
này hàng hóa trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua để đạt được nhu cầu
mong muốn của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức
độ cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả
hàng hoá sẽ tăng lên, những người bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi

những người mua bị thiệt thòi cả về giá cả và chất lượng, nhưng trường hợp
này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra ở một số nơi khi diễn
ra hoạt động bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh
tranh gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung
lớn hơn sức cầu rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán,
là nhân tố có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành
những ưu thế và lợi thế cho mình.
3.2 Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
Theo tiêu thức này cạnh tranh được chia thành bốn loại:

9
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình
thức đơn giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán
đều không đủ lớn để tác động đên giá cả thị trường. Nhóm người mua
tham gia trên thị trường này chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra vì
cung cầu trên thị trường được tự do hình thành, giá cả do thị trường quyết
định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh
tranh phổ biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh
có thể chi phối được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo,
khuyến mại các dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không
hoàn hảo là cạnh tranh mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với
nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem
xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể
nhưng mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh tranh không hoàn hảo
có hai loại:

+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số
chủ thể có ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc
mua sản phẩm của mình với giá rất cao và những người này có thể làm
thay đổi giá cả thị trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc
quyền bán và độc quyền mua. Độc quyền bán tức là trên thị trường có ít
người bán và nhiều người mua, lúc này người bán có thể tăng giá hoặc ép
giá khách hàng nếu họ muốn lợi nhuận thu được là tối đa, còn độc quyền
mua tức là trên thị trường có ít người mua và nhiều người bán khi đó
khách hàng được coi là thượng đế, được chăm sóc tận tình và chu đáo nếu
không những người bán sẽ không lôi kéo được khách hàng về phìa mình.
Trong thực tế có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào
thay thế , tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với
nhau gây trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất và làm tổn hại đến

10
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
người tiêu dùng. Vì vậy phải có một đạo luật chống độc quyền nhằm
chống lại liên minh độc quyền của một số nhà kinh doanh.
+ Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một
số ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh
tranh sẽ xảy ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi
doanh nghiệp phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không
chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những
đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Một sự thay đổi về giá của doanh
nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng đến nhu cầu cân đối với các sản
phẩm của doanh nghiệp khác. Những doanh nghiệp tham gia thị trường
này là những người có tiềm lực kinh tế mạnh, vốn đầu tư lớn. Do vậy việc
thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh thường là rất khó.
3.3. Căn cứ vào phạm vi kinh tế

- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại
sản phẩm. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh
nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ
thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá
nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả là trình độ sản xuất ngày
càng phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng sẽ bị thu hẹp, thậm
chí còn có thể bị phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh
tế khác nhau nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành
khác. Như vậy giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều
kiện khác khác nhau như môi trường kinh doanh, thu nhập khu vực, nhu
cầu và thị hiếu có tính chất khác nhau nên cùng một lượng vốn đầu tư vào

11
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ngành khác. Điều
đó dẫn đến tình trạng nhiều người sản xuất kinh doanh ở những lĩnh vực
có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch sang sản xuất tại
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực
hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là những ngành trước kia có tỷ
suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó
cung vượt quá cầu làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống, làm
giảm tỷ suất lợi nhuận. Ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất lợi
nhuận thấp khiến cho một số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh vực
khác làm cho quy mô sản xuất của ngành này giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn
cầu, làm cho giá cả hàng hoá tăng và làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
4. Các công cụ cạnh tranh.

Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu tập hợp các yếu
tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh
nghiệp sử dụng nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào
khách hàng để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ
được nhiều sản phẩm, thu được lợi nhuận cao. Nghiên cứu các công cụ
cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp lựa chọn những công cụ cạnh tranh
phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh doanh và thị trường của
doanh nghiệp. Từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng công cụ, việc lựa
chọn công cụ cạnh tranh có tính chất linh hoạt và phù hợp không theo một
khuân mẫu cứng nhắc nào. Dưới đâylà một số công cụ cạnh tranh tiêu
biểu và quan trọng mà các doanh nghiệp thương mại thường phải dùng
đến chúng.
4.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của
sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu

12
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
dùng xác định, phù hợp với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như
trước kia giá cả được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay
nó phải nhường chỗ cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Khi có cùng
một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả
mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá
cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của
sản xuất, thu nhập của người lao động ngày càng được nâng cao, họ có đủ
điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mình, cái mà họ cần là chất lượng và
lợi ích sản phẩm đem lại. Nếu nói rằng giá cả là yếu tố mà khách hàng
không cần quan tâm đến là hoàn toàn sai bởi giá cả cũng là một trong
những yếu tố quan trọng để khách hàng tiêu dùng cho phù hợp với mức

thu nhập của mình. Điều mong muốn của khách hàng và của bất cứ ai có
nhu cầu mua hay bán là đảm bảo được hài hoà giữa chất lượng và giá cả.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng
ở hiện tại và trong tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần
thiết. Nâng cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm
hoặc thay đổi công nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá
trình tiêu dùng và sau khi tiêu dùng. Hay nói cách khác nâng cao chất
lượng sản phẩm là việc cải tiến sản phẩm có nhiều chủng loại, mẫu mã,
bền hơn và tốt hơn. Điều này làm cho khách hàng cảm nhận lợi ích mà họ
thu được ngày càng tăng lên khi duy trì tiêu dùng sản phẩm của doang
nghiệp. Làm tăng lòng tin và sự trung thành của khách hàng đối với doanh
nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với
doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải
đương đầu đối với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam.
Một khi chất lượng hàng hoá dịch vụ không được bảo đảm thì có nghĩa là
khách hàng sẽ đến với doanh nghiệp ngày càng giảm, doanh nghiệp sẽ

13
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
mất khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy yếu trong hoạt động kinh
doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ
sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản
phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh
nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy
cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố rất quan trọng và cần
thiết mà bất cứ doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải sử dụng nó.
4.2. Cạnh tranh bằng giá cả.

Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc
cung ứng một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu
hiện bằng tiền của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật
hoá để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung
cầu. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
khách hàng được tôn vinh là “Thượng đế” họ có quyền lựa chọn những gì
họ cho là tốt nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với chất lượng tương
đương nhau thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, để lợi ích họ
thu được từ sản phẩm là tối ưu nhất. Do vậy mà từ lâu giá cả đã trở thành
một biến số chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp thành công trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự
khéo léo, tinh tế chiến thuật giá cả. Giá cả đã thể hiện như một vũ khí để
cạnh tranh thông qua việc định giá sản phẩm: định giá thấp hơn giá thị
trường, định giá ngang bằng giá thị trường hay chính sách giá cao hơn giá
thị trường.
Với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: giúp doanh nghiệp
đánh giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm
giá mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ
tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao và lợi sẽ thu được nhiều hơn.

14
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường: chính sách này được
áp dụng khi cơ số sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu
hồi vốn và lời nhanh. Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng
chính sách định giá thấp. Họ chấp nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến
lúc có thể để sau này chiếm được cả thị trường rộng lớn, với khả năng tiêu
thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp doanh nghiệp ngay từ đầu có một chỗ
đứng nhất định để định vị vị trí của mình từ đó thâu tóm khách hàng và

mở rộng thị trường.
Với chính sách định giá cao hơn giá thị trường: là ấn định giá bán
sản phẩm cao hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà
lần đầu tiên người tiêu dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ
hội để so sánh, xác định mức giá của loại sản phẩm này là đắt hay rẻ
chính là đánh vào tâm lý của người tiêu dùng rằng những hàng hoá giá
cao thì có chất lượng cao hơn các hàng hoá khác. Doanh nghiệp thường
áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị trường lớn hơn cung hoặc khi
doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc khi bán những
mặt hàng quý hiếm cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và
thành công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ
lưỡng xem mình đang ở tình thế nào thuận lợi hay không thuận lợi, nhất là
nghiên cứu xu hướng tiêu dùng và tâm lý của khách hàng cũng như cần
phải xem xét các chiến lược các chính sách giá mà đối thủ đang sử dụng.
4.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh
đắc lực bởi nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng.
Để hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt, thường
xuyên và đầy đủ doanh nghiệp cần phải lựa chọn các kênh phân phối

15
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nghiên cứu các đặc trưng của thị trường, của khách hàng. Từ đó có các
chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Chính sách phân phối sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng
quay của vốn, thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Thông thường kênh phân phối của doanh nghiệp được chia thành
5 loại:

+ Kênh ngắn: Người sản xuất => Người bán lẻ => Người tiêu dùng
+ Kênh cực ngắn: Người sản xuất => Người tiêu dùng
+ Kênh dài: Người sản xuất=>Người buôn bán=>Người bán
lẻ=>Người tiêu dùng
+ Kênh cực dài: Người sản xuất=>Đại lý=> Người buôn bán=>
Người bán lẻ=> Người tiêu dùng.
+ Kênh rút gọn: Người sản xuất=>Đại lý=> Người bán lẻ=> Người
tiêu dùng.
Tuỳ theo từng mặt hàng kinh doanh, tuỳ theo vị trí địa lý, tuỳ theo
nhu cầu của người mua và người bán, tuỳ theo quy mô kinh doanh của
doanh nghiệp mà sử dụng các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý và
mang lại hiệu quả bởi nhiều khi kênh phân phối có tác dụng như những
người môi giới nhưng đôi khi nó lại mang lại những trở ngại rườm rà.
4.4. Cạnh tranh bằng chính sách Maketing
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách
maketing đóng một vai trò rất quan trọng bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt
động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu
nhu cầu khách hàng đang có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì?, thu
thập thông tin thông qua sự phân tích và đánh giá doanh nghiệp sẽ đi đến
quyết định sản xuất những gì ? kinh doanh những gì mà khách hàng cần,

16
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khách hàng có nhu cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì
doanh nghiệp thường sử dụng các chính sách xúc tiến bán hàng thông qua
các hình thức quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết
thúc quá trình bán hàng, để tạo được uy tín hơn nữa đối với khách hàng,
doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động dịch vụ trước khi bán, trong khi
bán và sau khi bán.

Như vậy chính sách maketing đã xuyên suốt vào quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và vừa có
tác dụng phụ để hỗ trợ các chính sách khác. Do vậy chính sách maketing
không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động của doanh nghiệp.
5. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở
đâu có nền kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ
một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị
trường muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững thì phải chấp nhận
cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do tác động của khoa học kỹ thuật
và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, nhu cầu
cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều.Con
người không chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn
cần “ăn ngon mặc đẹp”. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp
phải không ngừng điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của
khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó thì
sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh tranh là rất cần thiết,
nó giúp cho doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi
trường kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu

17
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp
mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng nhất.
Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh
nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là

một điều kiện và là một yếu tố kích thích kinh doanh. Quy
luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát triển sản xuất, sản
xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra
nhiều, số lượng người cung ứng ngày càng đông thì cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ
những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng
thấp và ngược lại nó thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt,
năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và phát
triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng tốt
hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải tìm
mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng như sản xuất ra nhiều loại hàng hoá có chất lượng
cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với
mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy
hàng hoá của doanh nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo
được lòng tin đối với khách hàng. Muốn tồn tại và phát
triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết ưu thế
của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các đối thủ
cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại,
phát triển và thu được lợi nhuận cao.

18
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển
thì cạnh tranh luôn là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng
trong nền kinh tế đó khách hàng là người tự do lựa chọn
nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho
doanh nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến

doanh nghiệp như trước đây nữa và họ cũng không phải
mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối
ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách hàng được coi
là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
thì phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ.
Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có những chương trình
giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản phẩm của mình để
người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và
quyết định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp
hay không?. Ngày nay việc chào mời để khách hàng tiêu
thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề khó khăn nhưng việc
giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi
vậy mà doanh nghiệp nên có những dịch vụ cả trước khi
bán, trong khi bán và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho
khách hàng để những khách hàng đó là những khách hàng
truyền thống của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố
quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt
động kinh doanh đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng
giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình
những mục tiêu khác nhau. Trong giai đoạn đầu khi mới thực hiện hoạt
động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là muốn khai thác thị

19
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai đoạn
này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn ở
giai đoạn trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng

doanh thu, tăng lợi nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được
coi là không cần thiết, để lợi nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh
nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp là cao nhất. Đến
giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp là gây
dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện trách nhiệm đối
với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin cho của
khách hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp
cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá
tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm
đạt chất lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh
tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng tăng. Chỉ có cạnh tranh thì
doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
II. khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay đổi, thay thế
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã
hội bằng các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên để
cạnh tranh được và cạnh tranh một cách lành mạnh không phải là dễ bởi
nó phụ thuộc vào tiềm năng, lợi thế và nhiều yếu tố khác của doanh
nghiệp hay một quốc gia, đó chính là khả năng cạnh tranh của mỗi quốc
gia, hay một ngành, một công ty xí nghiệp.
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử
dụng rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng,

20
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên
gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng

cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả
và giới chuyên môn về khả năng cạnh tranh của công ty
*Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm
quốc gia
+ Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới
(gọi tắt là WEF). Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một
quốc gia là khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các
chính sách, thể chế vững vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác
(WEF-1997).
Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước
hết bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc đân và sự có mặt ( hay
thiếu vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong
các chính sách kinh tế đã được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật bản, sau
chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân
dân chìm trong cảnh mất mùa, thiếu thốn. Vậy mà đến năm 1968 Nhật bản
đã trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới ( sau Mỹ) và
được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng trưởng
kinh tế này là một trong những đỉnh cao để xác định năng lực cạnh tranh lớn
của nền kinh tế Nhật bản. Cũng theo WEF thì các yếu tố xác định khả năng
cạnh tranh được chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các
nhóm yếu tố xác định khả năng cạnh tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế
quan, hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.

21
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của
chính phủ bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính
phủ, thuế và mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá.

Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng
thực hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro
tài chính đầy đủ và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công
nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài,
phát triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết
cấu hạ tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và
các yếu tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay
nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả
của các chương trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể
chế về pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết
luận về việc định liệu các chính sách, biện pháp đã được sử dụng ở một
Quốc gia có thực sự nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng
hạn những năm qua chính phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương khuyến khích
phát triển các loại hình doanh nghiệp hợp tác liên doanh, liên kết với nước
ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh
tế. Thế nhưng hiệu quả kinh tế đem lại không lấy gì làm chắc chắn.
+ Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất

22
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về
năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao
sức sống của một đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc

vào trình độ phát triển và tính năng động của các doanh nghiệp. Do đó khả
năng cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong
nền kinh tế quốc dân, giữ vai trò quyết định cơ bản cho phép các công ty
sáng tạo và duy trì và lợi thế cạnh tranh trên mọi lĩnh vực cụ thể. Với cách
nhìn nhận vấn đề như vậy M.Poter đã đưa ra một khuôn khổ các yếu tố tạo
nên lợi thế canh tranh của một quốc gia và Ông gọi đó là “khối lượng kim
cương các lợi thế cạnh tranh” bao gồm các nhóm được phân chia một cách
tương đối.
- Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một
quốc gia về nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài nguyên, kết
cấu hạ tầng, tiềm năng khoa học và công nghệ).
- Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị
trường trong nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
- Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp
và của đối thủ cạnh tranh.
- Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có
khả năng cạnh trạnh quốc tế.
*Tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp công ty.
+ Quan điểm của M.Poter
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn
sách của M.Poter, khảnăng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng
chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay

23
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
thế) của công ty đó. Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài
nước năng lực cạnh tranh được quy định bởi các yếu tố sau:
- Số lượng các doanh nhgiệp mới tham gia.
- Sự có mặt của các sản phẩm thay thế

- Vị thế của khách hàng
- Uy tín của nhà cung ứn
Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp
xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với trong
giai đoạn, thời kỳ phát triển thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
+ Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đã xem
xétkhả năng cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi
phí sản xuất và năng suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành,
công ty được đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm
bớt hay không vì chi phí các yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện
cơ bản của lợi thế cạnh tranh
+ Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren
VarDwer, E.martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn
“Assessing the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”- 1991. Theo
các tác giả này thì khả năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể
hiện ở việc tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong
nước và nước ngoài. Như vậy lợi nhuận và thị phần, hai chỉ tiêu đánh giá
khả năng cạnh tranh của công ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi
nhuận và thị phần càng lớn thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

24
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
càng cao. Ngược lại, lợi nhuận và thị phần giảm hoặc nhỏ phán ánh năng lực
cạnh tranh của công ty bị hạn chế hoặc chưa cao. Tuy nhiên chúng chỉ là
những chỉ số tổng hợp bao gồm chỉ số thành phần khác nhau như:
- Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất
các yếu tố sản xuất

- Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu
và triển khai
- Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt
- Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các
nguồn lực.
Nói tóm lại có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác
nhau về khả năng cạnh tranh. Song bài viết này không
nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm của quan điểm đó
mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm
điển hình giúp cho việc tiếp cận một phạm trù phổ biến
nhưng còn nhiều tranh cãi về khái niệm được dễ dàng hơn.
2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa
vào một số chỉ tiêu sau:
2.1. Thị phần
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc
dịch vụ. Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng
lực cạnh tranh. Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và tăng thêm lợi nhuận. Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ
hoặc qua các năm ta có thể đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh là

25

×