Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

với phương châm kháng chiến của nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.84 KB, 17 trang )

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17

Hội nghị thành lập Đảng (trang 26)
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (trang 28)
Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (trang 63)
Đường lối kháng chiến chống Pháp (trang 69)
Đường lối kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1954- 1975 (trang 95)
Đại hội VI và thực hiện đổi mới toàn diện (trang 129)
Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945 (trang 42)
Ý nghĩa và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước 1954 – 1975 (trang 115)
Đại hội VIII (trang 142)
Đại hội XI (trang 169)
Đại hội XII (trang 188)


Đại hội VII (trang 135)
Đại hội III (trang 94)
Đại hội VI (trang 129)
Đại hội IX (trang 148)
Chiến tranh biên giới tây nam và phía bắc (trang 123)


Câu 2:

Trong suốt q trình vận động của dịng lịch sử nhân loại, bất cứ một quốc
gia nào hình thành và phát triển cũng đều phải trải qua chiến tranh. Đứng ở vị trí chủ
chiến hay bị xâm lược đều cần phải đưa ra một đường lối chiến tranh đúng đắn.
Đường lối đúng đắn sẽ đưa đến kết quả thắng lợi. Đây được coi là ngọn đèn hải đăng
cho mỗi hành đơng, bước đi trong đêm tối khắc nghiệt. Hịa cùng dòng chảy lịch sử
ấy, Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả tốt đẹp trong những cuộc kháng chiến
trường kỳ từ thuở vua Hùng dựng nước. Đặc biệt trong cuộc chiến tranh chống thực
dân Pháp đã để lại những bài học kinh nghiệm lớn lao về đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng. Trong đó, Đảng ta coi đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng cơ bản, nhất
quán và xuyên suốt quá trình tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai
cấp. Đây chính là vấn đề sống cịn, quyết định sự thành cơng của cách mạng. Sự
nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mệnh của các dân tộc, là sức dân, lịng
dân, tồn dân, tồn diện. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách, phương pháp tập hợp nhân dân có thể điều chỉnh cho
phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ thay đổi chủ trương phát
huy sức mạnh tồn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
“Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng”. Biết lượng sức mình, sức địch,
tình hình đất nước bấy giờ tạo điều kiện để Đảng đưa ra đường lối, chiến thuật đúng
đắn, lâu dài. Chiến tranh qua đi, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn
tiếp tục đưa ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân ktra, dân giám sát, dân
thụ hưởng” để tiếp nối quan điểm “toàn dân” của đường lối kháng chiến chống Pháp

năm xưa.


Thân bài:
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc Việt Nam bước
sang chương mới với nhiều thuận lợi và khó khăn dồn dập. Thế chiến thứ hai kết
thúc, cục diện Đơng Nam Á và tồn thế giới tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam thành công. Tuy nhiên, nước ta một lần nữa lại rơi vào tay những
kẻ xâm lược do phe chủ nghĩa thực dân vẫn ấp ủ giấc mơ “chia lại hệ thống thuộc
địa”. Không chỉ vậy, hậu quả Pháp để lại cho nền kinh tế- xã hội nước ta rất tàn ác.
Quân Anh, quân Pháp, cùng quân đội giải giáp của Nhật cùng nhau tiếp tục nổ
súng. Cùng thời điểm đó, quân Tưởng vượt biên giới tràn vào Việt Nam nhằm thực
hiện âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”. Trong tình cảnh “một cổ hai trịng”, nước ta
vừa phải đối phó với nạn đói, nạn dốt đồng thời vừa phải chiến đấu, đánh đuổi thù
trong, giặc ngoài. Vận mệnh đất nước ln trong tình trạng “ngàn cân treo sợi
tóc”, chỉ cần một bước đi sai có thể làm sụp đổ cả một bức tường thành quá trình
Đảng và Nhân dân ta đã gây dựng nên bấy lâu nay.
Trong tình hình và chủ trường bấy giờ, đường lối kháng chiến của Đảng chính
là ánh sáng soi đường cho Cách mạng Việt Nam hoạt động. Chính vì vậy, trong hai
năm từ 1945 đến 1975, dựa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã hình thành và phát
triển nên đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Nội dung cơ bản của đường
lối là: “dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến tồn dân, tồn diện, lâu
dài và dựa vào sức mình là chính”. Đường lối đó được thể hiện trong ba văn kiện
chủ yếu sau: Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến của trung ương Đảng (1946), Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946), tác phẩm Kháng
chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (1947),...
Tính chất tồn dân của cuộc kháng chiến của ta biểu hiện ở việc nhân dân
kháng chiến, đứng lên chống giặc, chủ động giành lại chính quyền về tay mình.
Đây là sự kế thừa phát huy tinh hoa dân tộc và truyền thống quân sự lên một tầm



cao mới, phù hợp với xu thế cách mạng của thời đại và tình hình nước ta bấy giờ,
cả nước đồng lịng nhất trí đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm mọi lúc, mọi nơi.
Toàn dân kháng chiến là toàn bộ nhân dân Việt Nam không phân biệt già, trẻ, gái,
trai, đều tham gia đánh giặc.
Tiếp theo, tính tồn diện kháng chiến là sự hoàn hảo, vẹn toàn về mọi lĩnh
vực từ chính trị, quân sự đến ngoại giao nhằm huy động mọi sức người, sức của
vào công cuộc kháng chiến, trong đó đấu tranh vũ trang giữ vai trị mũi nhọn.
Đồng thời, đây cũng cách tận dụng sự ủng hộ của các nước chuộng hịa bình trên
tồn thế giới. Đây được coi là điểm sáng về tính sáng tạo trong tính tồn diện của
cuộc kháng chiến.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Muốn thắng
lợi khơng thể chỉ ngày một ngày hai là có kết quả, đây là cả một cuộc chiến dài
hơi, tốn kém, đòi hỏi muốn đi đến thắng lợi cuối cùng cần phải huy động được lực
lượng lớn mạnh. Chỉ có lực lượng đại đồn kết tồn dân tộc mới có thể tự lực cứu
đất nước mình bằng cuộc kháng chiến toàn diện. Tranh thủ mọi thời cơ để thúc đẩy
cuộc chiến có bước nhảy vọt đáng kể, sớm dành được thắng lợi.
Bên cạnh phương châm toàn dân, toàn diện kháng chiến, “tự lực cánh
sinh” cũng là yếu tố độc đáo của Đảng ta trong xây dựng đường lối kháng chiến.
Đảng ta xác định tiến hành kháng chiến chủ yếu dựa vào sức mình là chính: đó
chính là dựa vào sức mạnh tổng hợp của đất nước, lấy nguồn nội lực của dân tộc
làm gốc, phát huy thế mạnh của nhân dân ta là điều cốt yếu; mặt khác, tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế khi nhen nhóm bất cứ điều kiện nào.
Như vậy, với phương châm kháng chiến của nhân dân, toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính của đường lối kháng chiến chống Pháp được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định ngay từ khi cuộc kháng chiến vừa bùng


nổ đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt quân dân ta vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành
thắng lợi và đưa cuộc kháng chiến đến toàn thắng.


Vận dụng:
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng ta ln xác định dân chủ là một trong
những mục tiêu và động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam. Kết thúc chiến tranh,
đất nước xây dựng chế độ xã hội dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa - tất cả
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Tại Đại VI - Đại hội đổi mới, Đảng ta đã
khẳng định: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của
xã hội mới. Đến Đại hội XI, Đảng ta đã đưa thêm “Dân giám sát, dân thụ
hưởng” vào văn kiện là một trong những điểm mới quan trọng trong tổng thể
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Đây là một nội dung hoàn toàn mới, phù hợp cả về lý luận và đáp ứng nhu
cầu thực tiễn. Khi mọi công việc, mọi vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống
của xã hội mà người dân đều được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra, được
giám sát và thụ hưởng chắc chắn sẽ khơng có ai phản đối về quyền lợi chính đáng
mà mình là người thực hiện và cũng chính mình là người được thụ hưởng. Đây
khơng chỉ là quan điểm hồn tồn đúng đắn, tiến bộ, mà cịn mang đậm tính nhân
văn.
Tại các văn phịng tổ chức đồn thể, cơng tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp
của người dân, doanh nghiệp được quan tâm, chú trọng hơn. Ở cơ sở, người dân đã
chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của
mình.… tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong
trào thi đua, góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, giành được những thành
tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong dịch Covid_19 nước ta


đã đối phó, phương châm “tồn dân” vẫn được vận dụng và phát huy hiệu quả hết
mức có thể.

Kết bài:

Đã gần 80 năm trôi qua kể từ chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” đập tan âm mưu thơn tính nước ta của thực dân Pháp,
buộc chúng phải kí kết hiệp định Giơnevơ cơng nhận nền độc lập tự do cho Việt
Nam dân chủ cộng hịa. Sự hịa quyện, gắn bó máu thịt của Đảng và toàn dân tộc ta
đã tạo nên nguồn lực bên trong cách mạng Việt Nam để nhấn chìm bất cứ khó
khăn, thử thách và cuối cùng đi tới thắng lợi. Tư tưởng toàn dân, toàn diện, đã trở
thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Ý chí đồng lịng của
nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh dân tộc, sức mạnh dân tộc được thống nhất sẽ đưa
tới thành công.


Câu 1:
Trong các chính thể hiện đại, bất luận nhà nước và xã hội nào cũng đều do giai
cấp nhất định lãnh đạo thơng qua chính đảng đại diện cho giai cấp ấy. Một đảng duy
nhất cầm quyền hay lưỡng đảng, đa đảng thay nhau cầm quyền là do tương quan lực
lượng chính trị ở từng quốc gia quy định. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy
nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do tương quan lực lượng chính trị Việt
Nam quy định, được lịch sử lựa chọn, được nhân dân tin tưởng, trao gửi trọng trách
bằng hiến định và được khẳng định bằng năng lực, hiệu quả lãnh đạo. Có thể thấy
rằng, Đảng Cộng sản VN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào
công nhân là quan điểm đúng đắn. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng,
chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử
của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm cho mâu thuẫn thế giới ngày càng trở nên gay
gắt. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất
hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị
trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế

giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CN đế quốc làm
cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CN đế quốc thực dân ngày càng trở nên
gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa MácLênin đã khẳng định: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành về trình độ giác
ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ
tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên


chế phong kiến. Đặc biệt, thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười Nga đã cổ vũ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc
biệt là nhân dân các nước thuộc địa.
Còn ở nước ta, 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết
lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Quá
trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có
những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong
kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị của Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa ta với Pháp là mâu thuẫn chủ yếu.Đấu
tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh địi quyền dân sinh, dân chủ.
Vì vậy, đây khơng chỉ là phong trào cơng nhân địi lại lợi ích cho giai cấp của
mình mà cịn là phong trào u nước của toàn nhân dân Việt Nam đứng lên đấu
tranh lại thực dân Pháp trả lại nền độc lập hòa bình cho dân tộc. Và phải yêu
nước, nhân dân ta mới có thể anh dũng chống trả lại lực lượng mạnh mẽ của kẻ
thù tàn ác.
Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết. CT HCM nhận ra
rằng, chỉ có con đường cách mạng vô sản, bằng đấu tranh của giai cấp công nhân, học
hỏi từ CN Mac-Lenin mới có thể đưa nước ta giải thốt khỏi ách đơ hộ, đánh đuổi
được thực dân Pháp. Chính vì vậy, Đảng Cộng Sản đã ra đời chấm dứt sự khủng
hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt
lịch sử vĩ đại. Các tổ chức cộng sản, hiệp hội liên tục được thành lập nhờ vào sự nỗ

lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác- lenin đã khẳng định một điều: “giai cấp vô sản
ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Vì vậy, ta có thể kết luận rằng:


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam

Câu 3
Đã hơn 20 năm kể từ Đại hội VI(15 – 18/6/1986) của Đảng, cơng cuộcxây
dựng và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình trạngkhó khăn,
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nhiệp hóa - hiện đại hóa, thế và lực được tăng
cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta khơng cịn là mộtnước nông nghiệp
lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan liêu bao cấp đã trởthành nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản
phương thức phát triển của đấtnước, mở đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn
diện sau này trên tất cả các lĩnhvực nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã hội…
Việc gia nhập WTO là tháchthức nhưng cũng là cơ hội lớn để nước ta phát triển, nó
cũng khẳng định đượcnhững thay đổi đúng hướng của Đảng mà Đại hội Đảng VI
đã

mở

đầu

cho

cơng

cuộc


đổi

mới

này.

Thân:
Giáo trình trang 129 :
chép từ đại hội VI của đảng diễn ra tại HN….. đối đầu. Đối mới diễn ra đang
trở thành xu thế thời đại: Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây được xem là thuận lợi của nước ta. Tuy nhiên, đại
hội diễn ra trong Hoàn cảnh lịch sử nước ta đang gặp khó khăn sau khi giành được nền
độc lập dân tộc, các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận: khủng hoảng kinh tếxã hội, lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; các hiện tượng tiêu cực,
vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến


Với Tinh thần đại hội VI là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của
Đảng trong thời kỳ 1975-1986: Tình hình kinh tế-xã hội đang có những khó khăn gay

gắt: Sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; tài nguyên của đất nước
chưa được khai thác tố
Đại hội đã đưa ra những đường lối sau:
+ Chính trị: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất
nước,, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
+ Kinh tế: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi
mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang
hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.Thực hiện 3 chương trình kinh
tế: Lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
+ Văn hóa- giáo dục: Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người,

cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên.
+ Đối ngoại: Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hịa bình, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác tồn diện với Liên Xơ và các nước
xã hội chủ nghĩa; bình thường hố quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai
nước
+ Công tác xây dựng Đảng: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong
cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đồn kết
nhất trí trong Đảng.
Rút kinh nghiệm từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng trước đây, ĐH rút
ra 4 bài học quý báu: một là, lấy dân làm gốc, hai là, xuất phát từ thực tế và hành động
theo khách quan, ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời địa, bốn là, chăm lo
xây dựng đảng tiến hành CMXHCN. Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về

lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng


đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc.
Vì vậy, đại hội VI chính là Đại hội khởi xuướng………. lưu thơng (giáo trình
trang 131)
Vận dụng:
Sau 35 năm đổi mới, Đảng không ngừng phát triển đường lối đổi mới trên tất

cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại
và hội nhập quốc tế, bảo đảm đổi mới toàn diện, đồng bộ mang lại hiệu quả thiết
thực. Đảng chủ trương xây dựng kinh tế tri thức, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển chiến lược khoa học, công nghệ để sớm đưa Việt Nam trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Thành quả đổi mới chính sách kinh tế và chính

sách xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã
nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân. Thu nhập
tính theo đầu người từ 150 USD năm 1986 đến 2019 là gần 3.000USD. Tuổi thọ
bình quân từ dưới 60 trước đổi mới, đến nay là gần 74. Chỉ số phát triển con người
(HDI) không ngừng tăng lên. Đời sống văn hóa, tinh thần được Đảng, Nhà nước
chú trọng. Đến năm 2020, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 187 quốc gia; quan
hệ đối tác chiến lược với 17 nước trong đó phần lớn là các nước công nghiệp hàng
đầu (G7) và Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Kết: Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dần dần đưa nước ta
tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện nghị quyết của Đại hội VI
+ Tình hình thế giới và trong nước
Thế giới: Cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu ngày
càng rơi vào khủng hoảng tồn diện và sụp đổ hoàn toàn; Mỹ và các thế lực thù địch lấy
cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục bao vây, cấm vận, cô


lập, tuyên truyền chống Việt Nam...
Trong nước: Khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng. Lương thực,
thực phẩm thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, lạm phát cao, đời sống nhân dân rất khó
khăn. Sự dao động về tư tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con đường xã hội chủ
nghĩa ngày càng lan rộng
+ Chỉ đạo của TƯ Đảng sau ĐH VI
Chủ trương về một số biện pháp cấp bách về phân phối lưu thông tại Hội nghị
Trung ương 2 (4-1987) là thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng
giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân; mở rộng giao lưu hàng
hố..

Trong cơng nghiệp, xố bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các đơn
vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ,
giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế
hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội .
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành
phần kinh tế. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng
tích cực của các thành phần kinh tế khác.
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng
cường vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Đối ngoại: việc ưu tiên giữ vững hịa bình và phát triển kinh tế; kiên quyết thực hiện
chính sách “thêm bạn, bớt thù”; mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước
trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vì hồ bình và phát triển ở khu vực và trên thế
giới.
Hội nghị Trung ương 6 (3-1989) và Hội nghị Trung ương 8 (3-1990) tập trung giải
quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng.


Câu 2:
Đã hơn 20 năm kể từ Đại hội IX (2001- 2021) của Đảng, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình hình thế giới diễn biến phức tạp, chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nhiệp hóa - hiện đại hóa, thế và lực được tăng cường, vị thế
quốc tế được nâng cao. Đây cịn là kì đại hội mở đầu thế kỉ XXI, với sự phát triển bùn nổ
của khoa học và công nghệ. Những ND cơ bản của kì ĐH ĐBTQ lần thứ IX là nội dung cơ
bản trong sự phát triển của Đảng CSVN.
Đại hội IX của Đảng họp tại Hà Nội vào tháng 4–2001. Đại hội IX có 1.168 đại biểu,
thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thông qua các văn kiện
chính trị quan trọng, xác định rõ những nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh và đã bầu
ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
Tại bối cảnh thế giới, một nước lớn đã lợi dụng sự kiện năm 2001 của Mỹ giả vờ

chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Tại nước ta,
sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới.
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa chắc chắn, thiếu hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
Các nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách
thức lớn của cách mạng nước ta.

Đại hội tập trung thảo luận, đánh giá chặng đường hơn 70 năm lãnh đạo
cách mạng Việt Nam của Đảng, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII,
15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội (1991 - 2000), rút ra bài học của công cuộc đổi mới.
Đại hội nhân định rằng thế kỷ XX nổi bật với ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc:
Khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế
giới đẫm máu; đầu thế kỷ phong trào cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối
thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thối trào. Đây cịn là thế kỷ
của những biến đổi to lớn có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam
ra; thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà; v.v…. Quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhất định sẽ


giúp dân ta tạo nên một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000 đã
đưa GDP của nước ta từ 15, 5 tỷ USD năm 1991 tăng vượt hơn gấp đôi vào năm
2000, Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tiếp theo (20012010) với mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo
nền tảng để 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại;
Đại hội khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của
Đảng nêu lên vẫn cịn có giá trị lớn, nhất là những bài học: Một là, trong quá trình
đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào dân,
vì lợi ích của dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước
ta là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là mơ hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, coi đây là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi
mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước; giải quyết tốt các vấn đề
xã hội.


Gắn liền với tồn bộ cơng cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, là xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; tăng
cường quốc phòng và an ninh, ra sức chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đó là nhiệm vụ then chốt, là cội nguồn thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.

Thời đại thay đổi khiến cho vấn đề ngoại giao, đối ngoại, chủ động hội nhập
KT quốc tế trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. VN sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước láng giếng nhưng cũng độc lập tự chủ, có tiếng nói riêng của mình.
Đó là cách VN tạo được vị thế ấn tượng giữa các nước trên thế giới.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh
dấu bước trưởng thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển và cụ thể hố Cương lĩnh chính trị năm 1991 của
Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI cùng với những nhiệm vụ trọng tâm
về cáclĩnh vực khác nhau. Đồng chí Nơng Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Có thể nói rằng, Đại hội IX của Đảng là đại hội mở đầu thế kỷ XXI với các
mạnh khoa học công nghệ, tri thức hóa, tồn cầu hóa diễn ra mạnh m. Đây cũng là
ĐH thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân
trong thời điểm trọng đại của dân tộc, mở đường cho đất nước ta nắm bắt cơ hội,
vượt qua trở ngại tiến vào thế kỷ mới để hoàn thành mục tiêu đưa nước ta đi theo
chủ nghĩa xã hội.
Câu 1:
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phải chứng kiến nhân dân ta phải chịu cảnh lầm than.Người nhận ra
phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dù đã diễn ra vô cùng anh
dũng nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu do các phong trào này
chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn, còn ảnh hưởng bởi hệ tư tưởng phong
kiến lỗi thời. Trong khi đó chủ nghĩa đế quốc ngày càng bành trướng trở thành một hệ
thống thế giới hùng mạnh. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như khơng có
đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu
thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.


Ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

theo phương hướng mới với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân tộc.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao đang tranh
đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Người đã kết hợp tìm hiểu lý luận và
khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh. Pháp, Mỹ. Người nhận
thấy CM Pháp và Mỹ tuy mang tiếng là cách mạng dân tộc nhưng nhân dân vẫn bị áp
bức. Bởi lẽ đó, Người khơng đi theo con đường cách mạng tư sản.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã tác động tích cực đến tư tưởng
HCM tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Cuộc
cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà cịn là giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội.
Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau
đó sáng lập tờ báo Người cùng khổ. Năm 1927, Người khẳng định: “Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy”.
Về chính trị. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận
điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường
cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Phong trào “Vơ sản hóa” do Kỳ bộ
Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp
phần truyền bá từ tưởng vơ sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của
công nhân.
Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập. Vì vậy, t11- 1924, Người đến Quảng Châu
(Trung Quốc) - nơi có đơng người Việt Nam u nước hoạt động để xúc tiến các công
việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh
niên tích cực lập ra nhóm Cộng sản đồn. Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên tuyên

truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyền truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.


Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
tại Quảng Châu có nịng cốt là Cộng sản đoàn. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng Sản VN. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng
cho những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Dông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh trở thành cuốn sách chính
trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam.
Có thể nói rằng, những cống hiến của Người cho sự ra đời của Đảng CSVN là
vô cùng vĩ đại và quý giá. Biết bao tác phẩm Người để lại, tư tưởng, câu nói của
Người chính tài sản vơ giá của tồn Đảng, tồn dân ta, mãi mãi là niềm tự hào, nguồn
cổ vũ to lớn đối với dân tộc Việt Nam, là ngọn đèn hải đăng soi đường cho cách mạng
Việt Nam đạt được những kỳ tích vẻ vang, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.

Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương
thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc
điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới
thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng
nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.



×